CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 HỘI THÔNG THIÊN HỌC

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeSun Jul 18, 2010 11:33 pm


HỘI THÔNG THIÊN HỌC

HỘI THÔNG THIÊN HỌC TS_LOGO.jpg?rnd=0

Hội Thông Thiên Học được thành lập tại New York ngày 17 - 11 - 1875. Hội là tổ chức phi chính trị, không thuộc tôn giáo nào và không có tín điều. Ba mục đích của Hội là:
1. Tạo một tình huynh đệ đại đồng, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, phái tính, giai cấp hay màu da.
2. Khuyến khích việc học hỏi và đối chiếu Tôn Giáo, Triết Lý và Khoa Học.
3. Nghiên cứu những định luật thiên nhiên chưa giải thích được và những quyền năng ẩn tàng trong con người.
Hội Thông Thiên Học gồm những người nghiên cứu học hỏi Minh Triết Thiêng Liêng (MTLL), họ có thể theo một tôn giáo nào đó trên thế giới mà cũng có thể không thuộc một tôn giáo nào; điểm chung của mọi hội viên là tất cả chấp thuận ba mục đích của hội, mong ước loại bỏ những tị hiềm giữa các tôn giáo và nối kết những ai có thiện chí lại với nhau bất kể quan niệm riêng về tôn giáo của mỗi người, muốn học hỏi chân lý trong các tôn giáo và chia sẻ kết quả học hỏi được của họ với người khác. Mối liên kết họ với nhau không phải là vì có chung một đức tin, mà có chung sự tìm kiếm và ước vọng đạt được Chân lý. Họ tin tưởng rằng Chân lý có thể tìm được bằng việc học hỏi, suy ngẫm, sống đời trong sạch, hiến mình cho những lý tưởng cao cả, và họ xem Chân lý như là thành quả đáng nỗ lực để đạt tới, mà không phải là giáo điều do một thẩm quyền nào áp đặt. Họ cho rằng niềm tin cần là kết quả của việc học hỏi riêng của cá nhân hay nhờ trực giác, và không phải là cái đặt để trước tiên cho những điều này, cũng như nó phải dựa trên hiểu biết mà không dựa trên sự khẳng định. Hội viên có sự khoan hòa với tất cả mọi người, ngay cả với ai không khoan hòa. Họ coi đó không là đặc ân ban phát mà như là bổn phận phải làm, và họ tìm cách giải trừ sự vô minh thay vì trừng phạt nó. Hội viên xem mỗi tôn giáo như là một cách biểu lộ của Minh Triết Thiêng Liêng và quan tâm đến việc học hỏi mỗi tôn giáo hơn là lên án nó, thực hành nó hơn là truyền đạo. Tiêu ngữ của họ là Bình An, cũng như mục tiêu của họ là Chân Lý.
Theosophia nguyên ngữ từ tiếng Hy Lạp theo (Trời, thần linh) và sophia (minh triết), có nghĩa Minh Triết Thiêng Liêng. Đây là chân lý căn bản nằm trong các tôn giáo lớn.

Hội Thông Thiên Học quốc tế (Adyar):
Chánh Hội Trưởng đương nhiệm: Bà Radha Burnier.
Phó Hội Trưởng : Dr. John Algeo
Thư Ký: Bà Mary Anderson

Hội Thông Thiên Học Việt Nam thành lập năm 1952.
Muốn gia nhập hội , bạn chỉ cần thừa nhận mục đích thứ nhất, và xin liên lạc với hội nơi quốc gia cư ngụ hay bất cứ hội viên nào bạn biết.
Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc:
- Hội quốc tế (Adyar)
Information and Public Relations Officer
The Theosophical Society
Adyar, Chennai 600020, India.
Phone: 91-44-24912815
Email: intl.hq@ts-adyar.org
Website: www.ts-adyar.org
- Các nhóm hội viên VN tại hải ngoại.
• Theosophical Society International Headquarters located at Adyar, Chennai (Madras), India. www.ts-adyar.org
• Theosophical Society in America Wheaton, IL., USA. American Section of T.S. located at Adyar, Chennai (Madras), India. www.theosophical.org
• United Lodge of Theosophists Los Angeles, CA, USA. www.ult-la.org.
• Theosophical Society International Headquarters located at Pasadena, CA., USA www.theosociety.org
www.blavatskyarchives.com
• Agni Yoga Society www.agniyoga.org
• Anthroposophical Society www.goetheanum.org
• Krishnamurti Foundation www.kfa.org
• Lucis Trust and Arcane School www.lucistrust.org
• Chi Bộ Chân Lý 4356 Gundry Ave., Long Beach, CA 90807
www.thongthienhoc.com
http://thongthien.com/

Nhà Thông Thiên Học Việt Nam
Địa chỉ: 125/291 - Đinh Tiên Hoàng - p3 - Q Bình Thạnh
Điện thoại: (+848)38031624 begin_of_the_skype_highlighting              (+848)38031624      end_of_the_skype_highlighting begin_of_the_skype_highlighting (+848)38031624 end_of_the_skype_highlighting | Fax: đang cập nhật | Email: info@thongthien.com
© Copyright 2009 www.ThongThien.com, All right reserved.
® www.thongthien.com giữ bản quyền nội dung trên website này.


http://www.thongthienhoc.com

Mọi sự liên hệ xin liên lạc e-mail sau: nhusee@yahoo.com


http://www.phungsutheosophia.org/Web%20pages/hoitth.html

LIÊN LẠC

• Bài vở xin gửi bằng email về:
pstheosophia@yahoo.com
• Thư từ :
Thanh Thiên
1729 Klaver S.W.
Wyoming, MI 49509
USA.
• Kỹ Thuật Trang Web:
Hồng Mộc
duyenhai02@yahoo.com

http://www.huyenbihoc.com

Email : Ánh Sáng – T2 – Úc Châu
vanphaphuyenmon@yahoo.com









Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:29 am

THÔNG THIÊN HỌC

(Minh Triết Thiêng Liêng)

Tác giả ANNIE BESANT

Bản Dịch: Hạnh Như 2008

. Dẫn nhập
. Thông Thiên Học với vai trò là Khoa Học
. Thông Thiên Học với vai trò là Đạo đức và Nghệ thuật
. Thông Thiên Học với vai trò là Triết học
. Thông Thiên Học với vai trò là Tôn giáo
. Thông Thiên Học áp dụng vào các vấn đề xã hội
. Một vài chi tiết về các Hệ thống và các Thế giới
. Hội Thông Thiên Học



DẪN NHẬP

Thông Thiên Học có từ nguyên là hai từ ngữ Hi Lạp, Theos là Thượng Đế, Sophia là Minh Triết, do đó Thông Thiên Học là Minh Triết của Thượng Đế, Minh Triết Thiêng Liêng. Bất cứ tự điển nào cũng trình bày ý nghĩa của nó: “Một khẳng định có được tri thức trực tiếp về Thượng Đế và các Chơn linh”; định nghĩa ấy không phải là thiếu chính xác mặc dù nó còn sơ lược và chỉ cung cấp một ý tưởng nho nhỏ về tất cả những gì được gói ghém trong thuật ngữ ấy xét về mặt lịch sử lẫn mặt thực hành.
Mục tiêu tối hậu của mọi Thông Thiên Học cũng như chính tâm huyết và sinh hoạt của mọi Tôn giáo chân chính đều là đạt được “tri thức trực tiếp về Thượng Đế” – ta sẽ thấy như vậy khi bàn về khía cạnh tôn giáo của Thông Thiên Học. Đây là “tri thức cao nhất, tri thức của Đấng mà nhờ ngài ta mới biết được mọi thứ khác”, nhưng trong khi nghiên cứu Thông Thiên Học, phần lớn là ta đạt được tri thức thấp hơn, tri thức về “mọi thứ khác” mà ta có thể biết được cùng với những phương pháp để biết.
Điều này cũng tự nhiên thôi vì mỗi người phải đạt được tri thức tối cao cho bản thân và ít ai có thể làm được gì giúp người khác ngoại trừ việc chỉ đường, gợi hứng để tinh tấn hoặc nêu gương; trong khi đó tri thức thấp hơn có thể được giảng dạy qua sách vở, qua diễn thuyết, qua đàm đạo và được truyền từ miệng người này sang tai người kia.


CÁC BÍ PHÁP

Cái khía cạnh nội môn tức bí truyền này của tôn giáo vốn có trong mọi tín ngưỡng lớn trên thế giới, được ít nhiều công khai nhắc tới, luôn luôn đóng vai trò nồng cốt của tôn giáo vượt ngoài tầm mọi giáo điều tạo thành khía cạnh công truyền. Trong khi khía cạnh công truyền tuyên xưng một giáo điều cho trí năng chấp nhận thì khía cạnh bí truyền gợi ra một chân lý cho Tinh thần kiểm chứng; một đằng được lý trí nhìn thấy rồi ủng hộ, một đằng thì được trực giác lĩnh hội; trực giác là cái quan năng “vượt ngoài tầm lý trí” mà triết học phương Tây đang mò mẫm tìm hiểu. Trong các tôn giáo đã thất truyền, chân lý được giảng dạy trong các “Bí pháp” – đó là cách duy nhất nó có thể được đem ra giảng dạy – bằng cách giáo huấn phương pháp theo đuổi những phương tiện thiện xảo giúp khai mở sinh hoạt của Tinh thần nhanh hơn mức được phát triển theo diễn trình tiến hóa tự nhiên. Các tác giả kinh điển cho ta biết rằng trong các Bí pháp, người ta diệt trừ lòng sợ chết và mục đích nhắm tới không phải là tạo ra một hiền nhân – chỉ người đã là hiền nhân rồi mới được thu nhận – mà biến hiền nhân thành một Thần minh.
Các Bí pháp ấy đã tồn tại trong lòng các tôn giáo thời xưa và chỉ dần dần thất truyền ở Âu châu trong vòng từ thế kỷ thứ 4 tới thứ 8 khi chúng không còn trụ được vì thiếu môn đồ.
Ta có thể tìm được vết tích của các Bí pháp Ki Tô giáo qua các tác giả Ki Tô giáo thời sơ khai, nhất là trong tác phẩm của S. Clement ở Alexandria và của Origen với tên gọi là “Bí pháp của Chúa Giê su”.
Ở đây ta có tình trạng đạo đức cao siêu cũng như các Bí pháp của Hi Lạp: “Những kẻ nào đã có ý thức nghiêm trì giới luật lâu dài . . . thì họ hãy tiến gần lại đây”. Trong kinh Tân Ước cũng có nói tới nguồn gốc và sự tồn tại của chúng khi nghe đâu đấng Ki Tô có giảng dạy một cách bí mật cho các môn đồ - “Ta cho các con biết được những điều bí nhiệm của Thiên quốc còn những người khác chỉ được giảng dạy bằng dụ ngôn”. Origen khẳng định rằng các giáo huấn bí mật được truyền thừa trong các Bí pháp của Chúa Giê su; thánh Paul cũng tuyên bố rằng “chúng tôi nói điều minh triết trong số những người đã hoàn hảo”, hai thuật ngữ này được dùng trong các Bí pháp.
Hồi giáo cũng có giáo huấn bí mật, nghe đâu bắt nguồn từ Ali, con rễ của Đạo sư Mohammed – mà ta thấy qua sự tham thiền và giới luật, các phương tiện thiện xảo được giảng dạy trong phái Sufi.
Phật giáo cũng có Tăng đoàn, trong tăng già cũng lại có tham thiền và giới luật để tìm ra sự thật nội giới.
Ấn Độ giáo, cả về kinh điển lẫn tín ngưỡng hiện hành đều khẳng định có hình nhi thượng học và hình nhi hạ học; hình nhi hạ học đạt được qua việc giáo huấn còn hình nhi thượng học, một lần nữa lại phải qua tham thiền và giới luật. Chính điều này khiến cho hình nhi thượng học là “bí truyền”, người ta không hề cố tình che giấu nó nhưng không thể truyền thụ nó được; muốn đạt được nó thì phải triển khai một quan năng, một khả năng nhận biết, một phương thức hiểu biết tiềm tàng nơi mọi người nhưng còn chưa được phát triển theo lộ trình tiến hóa bình thường.
Điều này thỉnh thoảng cũng được chứng tỏ nơi Thần bí gia thường thường là theo kiểu không giống ai, ưa kèm theo một cơn cuồng thần kinh nhưng ngay cả khi đó thì dù sao đi nữa nó cũng là một dấu hiệu (đối với người không có thành kiến và có óc sáng suốt) của một sự khởi hành mới trên con đường tiến hóa dài dằng dặc của tâm thức con người. Đôi khi nó xuất hiện lên trên bề mặt nhờ sự thanh khiết phi thường: “kẻ có tâm hồn thanh khiết . . . sẽ thấy được Thượng Đế”.
Những sự bộc phát đáng kinh ngạc của nó trong đời sống thường ngày được thể hiện qua các trường hợp “đột nhiên cải giáo” mà giáo sư James có ghi nhận. [Đủ thứ Kinh nghiệm Tôn giáo]. Tâm thức thiêng liêng là một thực tại, bằng chứng của nó đầy dẫy trong mọi tôn giáo, nó đang thôi thúc nhiều người thời nay cũng như đã từng thôi thúc người ta trong mọi thời kỳ. Chỉ nhờ vào tham thiền và giới luật như nêu trên thì ta mới có thể từ tốn và cố tình thôi thúc nó triển khai nơi một cá nhân đi trước dòng tiến hóa bình thường. Đó là vì nội môn bí giáo trong tôn giáo không phải là một giáo huấn mà là một trình độ tâm thức; nó không phải là sự huấn luyện mà là sinh hoạt. Vì thế cho nên nhiều người mới phàn nàn rằng sao nó mơ hồ và khó tóm bắt như vậy; nó vốn thế đối với những kẻ nào chưa trải nghiệm vì tâm thức chỉ biết được những gì mà mình đã trải nghiệm.
Người ta có thể giảng dạy các pháp môn bí truyền nhưng các pháp môn ấy sẽ dẫn đến tri thức bí truyền khi người ta noi theo và sinh hoạt thành công, và mỗi người phải tự đạt được điều đó. Người ta có thể trợ giúp bằng cách dẹp bỏ những chướng ngại che khuất tầm nhìn, nhưng con người chỉ có thể nhìn thấy bằng chính đôi mắt của mình.


Ý NGHĨA CHỦ YẾU

Thông Thiên Học là tri thức trực tiếp về Thượng Đế; việc theo đuổi điều này chính là Thần bí học hoặc Nội môn Bí giáo chung cho mọi tôn giáo mà Thông Thiên Học trình bày dưới dạng khoa học, chẳng hạn như trong Ấn giáo, Phật giáo, Ki Tô giáo của Công giáo La Mã và phái Sufi. Cũng như các tôn giáo này, Thông Thiên Học dạy ta theo một cách hoàn toàn minh bạch và xác định về những pháp môn để đạt được tri thức trực tiếp bằng cách khai mở tâm thức linh thiêng và phát triển các cơ quan giúp cho tâm thức ấy có thể hoạt động trên cõi trần – một lần nữa, đó là các pháp môn tham thiền và giới luật.
Vì thế cho nên nó cũng giống như Khoa học về Chơn ngã (Atma-vidyā), Khoa học về Đấng Vĩnh hằng (Brahma-vidyā) vốn là cốt lõi của Ấn giáo; nó cũng là “Tri thức về Thiên Chúa vốn là Sự Sống Đời Đời”, đây là Tinh hoa của Ki Tô giáo. Nó không phải là một điều gì mới mẻ mà vốn có nơi mọi tôn giáo; vì thế cho nên ta thấy nhà Đông phương học lỗi lạc đã quá cố Max Mϋller có viết một công trình nổi tiếng về Thông Thiên Học tức Tôn giáo Tâm lý.


Ý NGHĨA THỨ YẾU

Thông Thiên Học theo ý nghĩa thứ yếu – ý nghĩa nêu trên là ý nghĩa chủ yếu – là một tập hợp giáo lý thu được bằng cách rút ra những tín ngưỡng chung cho mọi tôn giáo, tách rời khỏi những điều đặc thù, đặc biệt, những nghi thức, nghi lễ và tập tục phân biệt tôn giáo này với tôn giáo kia. Nó trình bày những sự thật chung này là sự nhất trí về tín ngưỡng trên thế giới, toàn thể tín ngưỡng ấy tạo thành Tôn giáo Minh triết tức Tôn giáo Đại đồng Thế giới, là cội nguồn khai sinh ra mọi tôn giáo riêng biệt, là cái thân của Cây hằng sống mà các tôn giáo đều mọc nhánh ra từ đó.
Thuật ngữ Thông Thiên Học mà ta vừa nêu là tiếng Hi Lạp mà Ammonius Saccas, là người đầu tiên sử dụng vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, và từ đó trở đi trong lịch sử tôn giáo phương Tây, nó biểu thị chẳng những là Thần bí học mà còn là một hệ thống chiết trung vốn chấp nhận sự thật ở bất cứ nơi đâu mà nó tìm thấy không màng tới hình thức bên ngoài.
Nó xuất hiện dưới dạng hiện nay ở Châu Mỹ và Châu Âu vào năm 1875, vào lúc mà Thần thoại học Đối chiếu được dùng làm một vũ khí hữu hiệu để chống lại Ki Tô giáo, và nhờ biến đổi mình thành ra Tôn giáo Đối chiếu, nó đã xây dựng các công trình khảo cứu và khám phá của những nhà khảo cổ học và nhà sưu tầm đồ cổ trở nên các thành lũy để bảo vệ cho những người thân hữu với tôn giáo thay vì bỏ những người đó để làm các tên lửa tấn công vào kẻ thù.


THẦN THOẠI HỌC ĐỐI CHIẾU

Việc khai quật các thành phố đã có từ xưa, việc mở cửa những ngôi mộ cổ, việc phiên dịch những bản thảo thời xưa của các tôn giáo đã thất truyền lẫn tôn giáo còn thịnh hành, đã chứng minh được sự thật là mọi tôn giáo lớn đã và đang tồn tại đều giống nhau về những đặc điểm nổi bật nhất. Giáo lý chủ yếu của chúng, đường lối đạo đức của chúng, những chuyện kể xung quanh vị giáo chủ, các biểu tượng, các nghi thức của chúng đều gần giống như nhau. Sự thật này không thể chối bỏ đi vì chúng được khắc ở những đền thờ cổ, được viết trong những quyển sách cổ và người ta càng khảo cứu thì bằng chứng lại càng rõ rệt hơn.
Ngay cả trong những bộ lạc dã man thoái hóa nhất cũng phát hiện được những dấu vết về các giáo lý tương tự, các truyền thuyết về sự thật linh thiêng bị che giấu bởi sự thô thiển của vật linh luận (animism) và bái vật luận (fetishism). Làm sao giải thích được những sự giống nhau như vậy? Chúng có ảnh hưởng như thế nào tới Ki Tô giáo?
Thế là câu thần chú “vừng ơi mở cửa ra” của Khoa học chính là “thuyết Tiến hóa” và người ta không thể trì hoãn thêm nữa trong việc giải đáp những thắc mắc này. Tôn giáo đã tiến hóa, từ sự dốt nát u mê của những người dã man thời sơ khai, họ nhân cách hóa những quyền năng Thiên nhiên mà họ e sợ, đã triển khai ra những tôn giáo gợi hứng và những triết lý rực rỡ đã làm say mê loài người và khai hóa cho nhân loại.
Những thầy mo trong đám người dã man đã được tôn vinh thành các Giáo chủ tôn giáo, giáo huấn của các vị Thánh và Đạo sư là sự gạn lọc những lời khó hiểu trong cơn cuồng thần kinh của những người mơ mộng đang một phần nào bị động kinh; tổng hợp các lực thiên nhiên – sự tổng hợp do trí năng sắc xảo của những người thực hiện – đã đượm màu xúc cảm để biến thành Thượng Đế. Đó là lời giải đáp của Thần thoại học Đối chiếu đứng trước những thắc mắc băn khoăn của thiện nam tín nữ thấy ngôi nhà tín ngưỡng của mình sụp đổ tan tành, bỏ mặc họ phơi thân ra trước ngọn gió lạnh lùng của sự nghi ngờ.
Đồng thời tính bất tử cũng bị đe dọa và mặc dù trực giác thì thào: “Không phải tất cả bản ngã đều chết đâu”, nhưng sinh lý học vẫn lấn lướt được tâm lý học và đang chứng tỏ rằng bộ óc sáng tạo ra tư tưởng – cái tư tưởng đã do bộ óc sinh ra thì ắt phải tăng trưởng theo nó, bệnh tật theo nó, hư hoại theo nó, vậy thì rốt cuộc lẽ nào lại không chết theo nó.
Thuyết bất khả tri phát triển và thịnh hành, con người liệu biết được cái gì, liệu có thể khám phá được cái gì vượt ngoài các giác quan của mình, vượt ngoài điều mà trí năng có thể lĩnh hội được? Đó là tình trạng tư duy của giới có giáo dục trong phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ 19. Thế hệ trẻ hơn khó lòng có thể thực chứng được cái giai đoạn thật sự “lu mờ đức tin” ấy.


TÔN GIÁO ĐỐI CHIẾU

Thông Thiên Học đột nhiên xuất hiện ở Âu châu, khẳng định thuyết Ngộ đạo (Gnosis) chống lại thuyết Bất khả tri, Tôn giáo Đối chiếu chống lại Thần thoại học Đối chiếu. Nó tuyên bố rằng con người chưa dùng hết khả năng của mình qua việc sử dụng các giác quan và trí năng, đó là vì vượt ngoài những quan năng này còn có trực giác và có sự chứng kiến chắc chắn của Tinh thần; sự tồn tại của những quan năng này là một sự thật có thể chứng minh được; chứng cớ về tâm thức linh thiêng cũng không thể nghi ngờ chẳng khác nào chứng cớ của trí thức và cảm thức.
Nó thừa nhận rằng mọi sự kiện do các nhà khảo cổ học và nhà sưu tầm đồ cổ phát hiện được là đúng, nhưng nó đoan chắc rằng các sự kiện ấy có thể được giải thích khác hẳn so với cách giải thích của những kẻ thù địch với tôn giáo. Và trong khi sự thật vẫn là sự thật thì cách giải thích chỉ là một giả thuyết thôi.
Để chống lại giả thuyết này, nó đưa ra một cách giải thích khác về sự kiện ấy: đó là cộng đồng các giáo huấn tôn giáo, đạo đức, chuyện kể, biểu tượng, nghi thức và ngay cả vết tích của chúng trong đám người dã man đều bắt nguồn nơi việc mọi tôn giáo đều thoát thai từ một trung tâm chung, từ một Hội đoàn Huynh đệ những Người Thiêng liêng; Hội đoàn này biệt biệt phái một trong các thành viên của mình thỉnh thoảng giáng trần để lập nên một tôn giáo mới, bao hàm cũng những sự thật cốt yếu như các tôn giáo trước đó, nhưng thay đổi về hình thức tùy theo nhu cầu của thời đại và tùy theo năng lực của dân tộc tiếp nhận vị Thiên sứ ấy.
Rõ ràng là cả hai giả thuyết đều giải thích được sự kiện mà mọi người công nhận. Vậy thì làm sao quyết định giữa đôi đàng? Thông Thiên Học viện dẫn tới lịch sử: Nó nêu rõ rằng thời đại hoàng kim của mỗi tôn giáo đều là thời kỳ đầu, giáo huấn của vị Thiên sứ chẳng bao giờ được cải tiến bởi các tín đồ sau này trong khi nếu tôn giáo là do tiến hóa mà ra thì “con hơn cha là nhà có phúc” mới đúng chứ; người Ấn Độ đều dựa vào Áo nghĩa thư [kho tài liệu xưa nhất của họ là một phần của bộ kinh Phệ đà], tín đồ Bái Hỏa giáo dựa vào giáo huấn của giáo chủ, Phật tử dựa vào lời thuyết pháp của Phật, tín đồ Do Thái giáo dựa vào lời của thánh Moses và các vị Đạo sư khác, tín đồ Ki Tô giáo, Hồi giáo cũng đều dựa vào lời giảng của bậc Đạo sư của mình.
Kho tài liệu tôn giáo sau này bao gồm những bình luận, tham luận, lập luận, chẳng phải là một đường hướng mới mang tính linh hứng nhiều hơn nguyên tác. Sự linh hứng sau này chỉ được tìm thấy qua lời giảng của bậc Giáo chủ và qua giáo huấn của những Tông đồ chân truyền.
Đức Bàn Cổ, Vyāsa, Zarathustra, Đức Phật, Đấng Ki Tô – các Đấng này đều vượt cao hơn hẳn loài người và xứng đáng được loài người yêu thương và sùng kính từ thế hệ này sang thế hệ kia.
Có nhiều Thiên sứ và thông điệp của họ chính là các tôn giáo. Thông Thiên Học nêu rõ tất cả những điều này chứng tỏ rằng giả thuyết của mình là lời giải thích chân thực về những sự kiện ấy chứ không còn là một giả thuyết nữa. Thật vậy, đó chẳng qua là một sự thật được lịch sử xác nhận. Đối chọi lại đoàn ngũ rực rỡ các Thiên sứ này với những thông điệp của các ngài, Thần thoại học Đối chiếu không thể tìm ra trong lịch sử có một tôn giáo nào chứng tỏ rằng mình tiến hóa từ mức dã man lên tới mức có tính linh và có triết lý; vậy là giả thuyết của nó đã bị lịch sử bác bỏ.
Ngày nay quan điểm của Thông Thiên Học đã được chấp nhận rộng rãi đến mức người ta không thể nhận thức được tại sao cái thuyết đối lập với nó lại có thời đắc thắng như thế. Khi Thông Thiên Học lại nhập vào diễn trường tư tưởng thế giới năm 1875, thì nó cưỡi trên lưng con ngựa mới là Hội Thông Thiên Học. Nhưng bất cứ ai có thể nhận ra được cái tình huống đang tồn tại lúc bấy giờ thì phải lần dỡ kho tài liệu Thần thoại học Đối chiếu được xuất bản trong thời kỳ trước, từ những tác phẩm đồ sộ của Dulaure và Dupuis [Bàn về Tục thờ cùng dương vật và tục thờ cúng mặt trời], qua tới tác phẩm Anacalypsis của Higgins, rồi tới những tác phẩm của Hargrave Jennings, Forlong và cả chục những người khác đều nói một cách quả quyết khiến cho bạn đọc tin rằng những phát biểu của họ là dựa vào sự thật mà không một người có giáo dục nào chối cãi được.
Những người nào đắm chìm vào cái mê lộ bàn ra tán vào ấy thời niên thiếu, những người đã lạc lỏng trong các con đường ngoằn ngoèo bất tận để thấy đức tin của mình bị ngấu nghiến bởi Ngưu ma vương của Thần thoại học Đối chiếu, chính những người ấy mới biết – và chỉ có họ mới biết được hết, sự thở phào nhẹ nhỏm khi cái sợi chỉ đỏ mới mẻ - bà Helena Petrovna Blavatsky đã từng bị hiểu lầm và chịu nhiều ác ý – đã mang lại cho họ được một manh mối, dẫn dắt họ đi qua những mê lộ của mê cung ấy, đã trang bị cho họ thanh gươm “Giáo Lý Bí Truyền” [Tác phẩm đồ sộ của bà Blavatsky xuất bản năm 1889] để giết chết con quái vật ấy.
Nhân tiện xin nói, ta cũng nên lưu ý rằng Ki Tô giáo cổ điển – vốn tin rằng cả loài người đều bắt nguồn từ Adam mới được sáng tạo ra năm 4004 trước Công nguyên – đã bảo tồn truyền thuyết về một điều khải huyền sơ khai được ban cho Adam và được hậu duệ của ông đem đi khắp mọi nơi trên thế giới; con người vốn kế thừa nguyên tội của cha ông đã làm bại hoại điều khải huyền này, nhưng vết tích của nó vẫn còn thấy nơi những hạt giống sự thật ẩn tàng trong những lớp vỏ trấu của tôn giáo “ngoại đạo”. Mặc dù có mầm mống sự thật nhưng quan điểm này lại hoàn toàn nghe không lọt tai đối với những người có giáo dục, họ biết rằng loài người đã tồn tại ít ra là cả trăm ngàn năm chứ không phải một thời khoảng là 6 ngàn năm.


SỰ THỐNG NHẤT CỦA CÁC TÔN GIÁO

Hệ quả của toàn thể lập trường nêu trên là: sự thật là cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo ấy lại có tính phá hoại đối với bất kỳ tôn giáo nào tự cho mình một địa vị cô lập độc nhất vì ở vào địa vị đó thì nó chỉ bị mọi phía đả kích, và lời rêu rao của nó sẽ dễ dàng bị bác bỏ. Nhưng cũng chính sự thật ấy lại mang tính bảo vệ khi mọi tôn giáo biết sát cánh với nhau khi họ xuất hiện là một Hội đoàn Huynh đệ, là những đứa con của một tổ tiên chung duy nhất tức Minh triết Thiêng Liêng.
Quan điểm này trở nên thỏa đáng hơn nếu ta lưu ý rằng mỗi tôn giáo đều có những nốt đặc biệt của riêng mình, đều có đóng góp đặc biệt của riêng mình cho lực lượng hoạt động vì sự tiến hóa của con người. Khi ta thấy ngoài những điều tưởng tượng ra, chúng còn có những điều khác nhau thì ta cảm thấy rằng chúng đang tiết lộ một thiên cơ để giáo dục cho con người, cũng như ta khi nghe một hợp âm hùng tráng thì ta cảm thấy rằng một bậc nhạc sư đã phối hợp được các nốt nhạc vì am tường được giá trị của mỗi nốt nhạc ấy.
Ấn Độ giáo tuyên bố trong vạn vật đều có một Sự Sống Bản Thể Nhất Như Nội Tại, vì thế cho nên vạn vật đều liên đới với nhau, đều có bổn phận đối với nhau, được tôn vinh qua một thuật ngữ không thể dịch được là Dharma [Dharma có thể dịch là tôn giáo, bổn phận, nghĩa vụ và còn nhiều hơn thế nữa. Nó biểu thị toàn thể quá trình tiến bộ của con người, tất cả những gì đã khiến cho y hiện nay là như thế và những bước sắp tới mà y phải thực hiện để bảo đảm cho sự tiến hóa nhiều thêm nữa của mình sẽ ít bị trì hoãn và gặp khó khăn hơn hết].
Bái Hỏa giáo trổi lên nốt nhạc về sự thanh khiết – thanh khiết về môi trường, về thể xác, về tâm trí.
Do Thái giáo trổi lên nốt nhạc Công chính.
Ai Cập giáo biến Khoa học thành lời quyền lực của mình.
Phật giáo khẳng định Chánh kiến.
Hi Lạp làm toát ra vẻ Mỹ lệ.
La Mã tuyên cáo về Luật lệ.
Ki Tô giáo giảng dạy về giá trị của Cá tính và đề cao sự Xả thân.
Hồi giáo trổi lên nốt nhạc về sự Đơn nhất của Thượng Đế.
Chắc chắn mỗi tôn giáo đều làm cho thế giới phong phú hơn và ta không thể bỏ qua một viên ngọc nào ta khỏi cái vương miện tôn giáo thế giới.
Do đó ta có được một viễn ảnh trung thực về vẻ đẹp đa dạng và giá trị tâm linh của sự đa dạng ấy; tâm trí ta mới nảy nở cái ý thức thực tại về Tình Huynh đệ Đại đồng lớn lao cùng với việc nó hoạt động để dẫn dắt sự tiến hóa tâm linh. Một sự đơn nhất sâu sắc như thế, một sự đa dạng kỳ diệu và đầy hiệu quả như thế không chỉ là tình cờ, chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp mà phải là thành quả của một thiên cơ đã được cố tình chọn theo và dũng mãnh thực hiện.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Vì hệ tư tưởng của Thông Thiên Học là một sự tổng hợp chân lý bao la và bao quát tất cả khi bàn về Thượng Đế, Vũ Trụ và Con Người cùng với mối tương quan của các thực thể này, cho nên ta cần chia việc trình bày nó ra thành bốn đề mục, tương ứng với một quan điểm hiển nhiên là rất hợp lý về Con Người. Ta có thể coi Con Người có một thể xác, một bản chất xúc cảm và trí năng và một Tinh thần vĩnh hằng hoạt động thông qua ba yếu tố này để biểu lộ nơi cõi hữu hoại. Ta có thể gọi ba bộ môn này của bản chất con người tương ứng với các hoạt động lớn của y là: Khoa học, Luân lý và Thẩm mỹ, Triết học.
1.- Nhờ vào các giác quan, Con người quan sát được những hiện tượng xung quanh mình, làm thí nghiệm để kiểm chứng lại các quan sát ấy; nhờ có trí óc y ghi nhận và sắp xếp các quan sát của mình, diễn dịch, nêu giả thuyết, trắc nghiệm lại các giả thuyết bằng cách nghĩ ra những thí nghiệm quyết định để đạt được sự hiểu biết về Thiên nhiên, thông hiểu các định luật thiên nhiên: thế là y dựng nên các Khoa học, là thành quả rực rỡ của việc con người đã sử dụng một cách thông minh các giác quan trong thể xác trên cõi hồng trần. Chúng ta phải nghiên cứu Thông Thiên Học với vai trò là KHOA HỌC.
2.- Bản chất xúc cảm của con người cho thấy ta có xúc cảm và ham muốn – những xúc cảm này là do ta tiếp xúc với ngoại giới, sự tiếp xúc này mang lại khoái lạc hoặc đau khổ; khoái lạc hoặc đau khổ tạo cho ta ham muốn – muốn kinh nghiệm trở lại sự khoái lạc và muốn tránh đau khổ tiếp diễn. Khi ta bàn tới đề tài này ta ắt thấy rằng cái lòng khao khát Hạnh phúc vốn thâm căn cố đế nơi mọi chúng hữu tình để cuối cùng thúc đẩy y phải sống hài hòa với thiên luật nghĩa là làm Lành lánh Dữ. Chánh Nghiệp là biểu hiện của sự hài hòa này trong cuộc sống, trong tương quan của ta với những người khác và trong việc xây dựng bản thân (Đạo đức) cùng sự biểu hiện hài hòa này nơi vật chất ắt tạo ra Hình tướng Đúng đắn tức sự Mỹ lệ (Nghệ thuật). Ta phải nghiên cứu Thông Thiên Học với vai trò là ĐẠO ĐỨC – NGHỆ THUẬT.
3.- Trí năng của con người đòi hỏi rằng môi trường xung quanh của y cả về sự sống lẫn vật chất đều phải dễ hiểu; nó yêu cầu phải có trật tự, hợp lý, có thể giải thích được. Nó không thể sống trong tình trạng hỗn mang mà không cảm thấy đau khổ; nếu nó muốn sống bình yên thì nó phải biết và phải hiểu. Chúng ta phải nghiên cứu Thông Thiên Học với vai trò là TRIẾT HỌC.
4.- Nhưng cả ba địa hạt này (Khoa học, Đạo đức - Nghệ thuật, Triết học) vẫn không hoàn toàn thỏa mãn được bản chất của ta. Ý thức tôn giáo vẫn kiên trì thôi thúc trong mọi quốc gia, mọi vùng khí hậu, mọi thời đại. Nó không chịu nằm yên và nếu bị từ chối không cho có bánh mì Chân lý thì nó đành nhấm nháp những lớp vỏ trấu mê tín dị đoan. Tinh thần vốn là Chơn nhơn ắt không ngừng mưu tìm Tinh thần Vũ trụ vốn là Thượng Đế và những lời giải đáp của Thượng Đế - chỉ một phần thôi nhưng hứa hẹn còn nhiều nữa – chính là các tôn giáo. Ta phải nghiên cứu Thông Thiên Học với vai trò là TÔN GIÁO.
Ta có thể trình bày mọi giáo huấn Thông Thiên Học quan trọng nhất cho sinh hoạt và hạnh kiểm của con người dưới bốn đề mục nêu trên. Còn có một vài chỉ dẫn về việc áp dụng thực tiễn những đề mục ấy vào các vấn đề xã hội và chỉ một phát biểu thôi – bởi vì trong khuôn khổ hạn hẹp của tập sách nhỏ này thì ta không thể làm được gì hơn nữa – về những viễn cảnh rộng lớn hơn đối với quá khứ và tương lai mà Thông Thiên Học mở ra cho ta.
Mọi sự phân chia nhằm tìm cách chia chẻ cái Tinh thần thực ra vốn không chia được – điểm linh quang của Lửa Vũ trụ - đều không thỏa đáng và có khuynh hướng làm cho ta mờ mắt đi trước cái sự đơn nhất tâm thức vốn là Chơn ngã của ta. Các giác quan, xúc động, trí năng chẳng qua chỉ là những mặt nhỏ của một viên kim cương duy nhất, những phiến diện của một Tinh thần duy nhất. Sự sống tâm linh, Tôn giáo, phải là tổng hợp của Khoa học, Đạo đức - Nghệ thuật và Triết học; đó chẳng qua chỉ là những phương diện của Tôn giáo. Tôn giáo vốn thấm nhuần mọi công trình nghiên cứu, cũng như Tinh thần thấm nhuần mọi hình tướng.
Chơn ngã vốn nhất như chứ không đa diện mặc dù sự sống tràn ngập tất cả của nó biểu hiện qua nhiều đường lối khác nhau. Vì vậy mặc dù tôi phân chia đề tài của mình ra thành nhiều phần để cho được rõ ràng, nhưng tôi xin bạn đọc nhớ cho rằng sự phân loại ấy chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh; có nhiều cách phân loại trong khi tâm thức chỉ có một; và trong khi ta có thể tránh việc làm cho người khác lẫn lộn để sự giải thích được minh bạch hơn thì ta cũng nên luôn luôn nhớ rằng ta cũng phải tránh việc phân chia bản thể.


TIẾT I

THÔNG THIÊN HỌC VỚI VAI TRÒ LÀ KHOA HỌC

Theo cách nghiên cứu thời xưa thì người ta phát biểu những điều phổ quát rồi từ đó mới dẫn xuống những điều đặc thù và đây vẫn còn là phương thức tốt nhất cho các môn sinh nghiêm túc có óc triết học. Theo phương pháp hiện đại thì người ta bắt đầu từ những điều đặc thù rồi từ đó leo lên tới những điều phổ quát; bởi vì đây là con đường dễ đi hơn đối với bạn đọc thời nay khi y chưa quyết tâm nghiêm chỉnh nghiên cứu một đề tài vì con đường ấy dành phần khó khăn nhất cho khúc sau. Bởi tập sách nhỏ này có mục đích dành cho bạn đọc phổ thông cho nên tôi chọn theo phương pháp mới.
Thông Thiên Học chấp nhận phương pháp của Khoa học; quan sát, thí nghiệm, sắp xếp những sự kiện được nhận biết để diễn dịch, nêu giả thuyết, suy luận, kiểm chứng, khẳng định sự thật đã được phát hiện – nhưng Thông Thiên Học đã gia tăng địa hạt của nó lên rất nhiều. Thông Thiên Học thấy toàn thể sự tồn tại chỉ bao gồm hai yếu tố: Sự Sống và Hình Tướng, có một số người gọi đó là Tinh Thần và Vật Chất, những người khác gọi là Thời Gian và Không Gian, vì Tinh Thần là sự vận động của Thượng Đế còn Vật Chất là sự đứng im của ngài; cả hai đều hiệp nhất nơi ngài. Vì Cội nguồn Tinh thần là Sự Sống của Thượng Đế, còn Cội nguồn Vật chất là chất ether vũ trụ, cho nên đó là hai khía cạnh của Đấng Vĩnh hằng Nhất như xét theo Không gian và Thời gian [Xem Tiết III].
Trong khi khoa học bình thường hạn chế Vật chất vào địa hạt nắm bắt được thì Khoa học của Thông Thiên Học mở rộng vật chất qua nhiều cấp mà các giác quan cõi hồng trần không nắm bắt được nhưng các giác quan siêu hồng trần vẫn nắm bắt được. Thông Thiên Học nhận thấy rằng muốn biết về vũ trụ vật lý thì phải có một thể xác sao cho một vài bộ phận của thể xác ấy đã tiến hóa thành những giác quan: mắt, tai v.v. . . nhờ đó người ta mới nhận thức được những sự vật ở bên ngoài; còn một số bộ phận khác đã tiến hóa thành các cơ quan hành động: tay, chân v.v. . . nhờ đó người ta mới tiếp xúc được với các sự vật bên ngoài.
Thông Thiên Học thấy rằng trong quá khứ, sự tiến hóa trên cõi trần đã được thực hiện do sự sống cố gắng vận dụng các quyền năng mới sinh ra của mình và sự phấn đấu để vận dụng một quan năng mới sinh ra ấy đã dần dần uốn nắn vật chất thành một cơ quan giúp cho quan năng ấy có thể được vận dụng mỹ mãn hơn.
Xin đảo ngược lại phát biểu của Bϋchner: Chúng ta không bước đi vì chúng ta có chân mà chúng ta có chân vì chúng ta muốn vận động. Ta có thể truy nguyên sự phát triển đôi chân ấy từ những giả túc của con a míp; nhờ phát triển việc thường xuyên chòi ra khỏi cơ thể nó đã tiến lên tới mức đôi chân của con người, và tất cả đều dần dần được tạo lập do do sinh vật ấy cố gắng vận động. W. K. Clifford có nói như sau về loài bò sát khổng lồ thuộc thời quá khứ: “Một số con muốn bay và chúng trở thành loài chim” (dực long). “Ý chí muốn sống” – nghĩa là ham muốn, suy nghĩ và hành động - ẩn sau mọi cơ tiến hóa.
Người Thông Thiên Học đưa nguyên lý ấy lên tới tận những cõi cao hơn (giả sử rằng nó có tồn tại); và nếu tâm thức muốn biết bất kỳ cõi nào khác [Tôi dùng từ “cõi” để biểu thị toàn thể phạm vi vật chất thuộc về một loại hình xác định, nghĩa là được kiến tạo bằng cùng một loại nguyên tử. Xem thêm mục “Nguyên tử” ở Tiết VI. Trong một cõi có thể có nhiều thế giới chẳng hạn như thế giới thiên đường thuộc cõi trí tuệ. Thuật ngữ bình diện được dùng theo nghĩa này, nhưng xét vì thiên hạ không dễ dàng lĩnh hội được ý nghĩa của nó cho nên ta dùng từ cõi] hơn cõi trần, thì nó phải có một cơ thể làm bằng vật chất thuộc về cõi mà nó muốn khảo cứu và cơ thể ấy phải có các giác quan được phát triển cũng bởi cái lòng ham muốn nhìn thấy, nghe thấy v.v. . . của Sự Sống bản thể. Việc có những cõi khác và những cơ thể khác giúp ta biết được những cõi khác không còn là một điều khó tin nữa so với việc có một cõi trần và việc có những thể xác giúp ta biết được cõi trần. Huyền bí gia – người nghiên cứu về cách thức hoạt động của Trí Thượng Đế trong Thiên nhiên – khẳng định rằng có những cõi như thế, mình có những cơ thể như thế và biết cách sử dụng chúng.
Những phát biểu sau đây – trừ một ngoại lệ mà chúng tôi sẽ lưu ý vào đúng lúc – đều được nêu ra do thành quả nghiên cứu của tác giả và các Huyền bí gia khác tiến hành trên cõi ấy bằng cách sử dụng những cơ thể như nêu trên. Tất cả chúng tôi đều tiếp nhận sự phác họa của các thành viên tiến hóa cao hơn trong nhân loại và từng bước đã chứng minh rằng nó đúng sự thật rồi dùng chính những công trình nghiên cứu của mình để lấp đầy nhiều khoảng trống trong tri thức ấy. Vì vậy chúng tôi cảm thấy rằng dựa vào kinh nghiệm trực tiếp của bản thân – trải qua một thời kỳ 23 năm trong trường hợp này và 25 năm trong trường hợp kia – mình có quyền xác nhận rằng việc nghiên cứu cõi siêu hồng trần là có thể thực hiện được và việc ấy cũng đáng tin cậy như việc nghiên cứu cõi hồng trần vì được tiến hành bằng những phương thức giống nhau; các nhà nghiên cứu đều có thể mắc sai lầm ở cả cõi hồng trần lẫn cõi siêu hồng trần và vì lý do tương tự nếu có mắc sai lầm thì cần nghiên cứu rốt ráo hơn chứ không vì thế mà bỏ dỡ gián đoạn.


Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:30 am

MỘT BẢNG NHỮNG TƯƠNG ỨNG

Bảng sau đây trình bày một quan niệm về các cõi liên quan tới và bao trùm trái đất của ta, bao gồm những cơ thể được dùng để khảo cứu các cõi và những trạng thái tâm thức mà chủ nhân ông của các cơ thể tức Chơn nhơn biểu lộ thông qua đó. Con người Vĩnh hằng, một mảnh nhỏ của Sự Sống Thượng Đế, được gọi là “Chơn thần”, “Đấng Nhất Như” [Kể cả những điều nói sau này về Chơn thần thì đây là một phát biểu mà trên kia chúng tôi có lưu ý rằng bản thân người viết chưa kinh nghiệm được qua sự quan sát của chính mình. Chơn ngã cao siêu nhất này chỉ biểu lộ cho ta trong những dịp hiếm hoi dưới dạng một luồng ánh sáng chói lòa ào ạt tuôn xuống; xét về bản chất riêng ở trên cõi riêng thì Chơn thần vượt ngoài tầm nhìn thấy của bất cứ người nào trong chúng tôi. Thế nhưng điều mà chúng ta gọi là Sự Sống bản thể của mình chính là của Chơn thần, vì Chơn thần là Chơn ngã cao nhất nơi mỗi chúng ta, là “Thượng Đế ẩn tàng” mà người Ai cập thường nói tới]. Chơn thần chính là Con Thượng Đế, được tạo ra theo hình ảnh của Ngài và biểu hiện sinh hoạt qua ba phương thức: khía cạnh Ý chí, khía cạnh Minh triết và khía cạnh Hoạt động Sáng tạo. Chơn thần sống trên cõi riêng của mình, là một đốm Lửa trong Lửa Thiêng liêng (điểm linh quang) và phóng xuống một tia, một dòng sự sống của mình để thể hiện qua năm cõi biểu lộ.
Tia này chiếm lấy một nguyên tử vật chất của mỗi một trong ba cõi cao để xuất hiện trên cương vị là Tinh thần con người, mô phỏng lại ba khía cạnh của Chơn thần là Ý chí, Minh triết và Hoạt động Sáng tạo. Vào một giai đoạn tiến hóa nào đó, Tinh thần con người này được tiết lộ dưới dạng Chơn ngã con người, tức Biệt lập Ngã tính, nó khởi sự cuộc hành hương dài mà mới đầu chỉ là một chủng tử sự sống nhưng không bao giờ mất đi cá tính ấy; khi trải qua cuộc hành trình dài dằng dặc nó bộc lộ ra mọi quyền năng của Chơn thần vốn nằm ẩn tàng bên trong nó, giống như cái cây ẩn tàng bên trong hạt giống.
Khi nó chinh phục được cõi vật chất thì Chơn thần là Thủy tổ của nó bèn tuôn xuống thêm cho nó sự sống và rút ra được từ nó càng ngày càng nhiều tri thức về những cõi mà nó sinh hoạt trong đó. Nhưng trải nghiệm trong ba cõi biểu lộ cao nhất không đủ để có được sự toàn tri và toàn năng trong Thái dương hệ; còn hai cõi thấp hơn và tiến trình chìm xuống vật chất lại tiếp tục.
Tinh thần củng cố cho công trình của mình bằng cách chiếm lấy một phân tử vật chất thô trược của cõi thấp nhất mà mình đã nhập vào cho đến nay rồi liên kết vào đó một nguyên tử thuộc vật chất của cõi biểu lộ thứ tư và một nguyên tử của cõi thứ năm là cõi thấp nhất, tức cõi hồng trần. Nó phải có những cơ thể được tạo ra xung quanh các hạt vật chất đã bị chiếm hữu thường xuyên này, có như thế thì nó mới có thể hiểu biết và hoạt động được trên năm cõi biểu lộ.
Ta thấy rằng các cơ thể thấp của y (hợp thành cái gọi là Phàm ngã) bị vứt bỏ vào lúc và sau lúc mà ta gọi là chết và lại được đổi mới trong mỗi kiếp nối tiếp. Trong khi đó cơ thể cao hơn tạo thành Chơn ngã của y vẫn còn sống sót trải qua cuộc hành hương dài dằng dặc – đây là một sự kiện quan trọng vì nó ảnh hưởng tới khả năng nhớ được quá khứ. Những sự kiện nêu trên được lập thành bảng biểu như sau:



CÁC CÕI CÁC THỰC THỂ CÁC TRẠNG THÁI TÂM THỨC CÁC THỂ
Vô hiện 1 Thiêng liêng Adi Thượng Đế Ba Ngôi Thiêng liêng (1)
2 Chơn thần Anupādaka Chơn thần Con người Ba Ngôi Chơn thần (2)
Ý chí, Minh triết, Hoạt động
3 Tinh thần Atmā Con người là [A] Tinh thần, biệt lập ngã tính thành Ý chí Nguyên tử
4 Trực giác Buddhi Tinh thần, biệt lập ngã tính thành Trực giác Trực giác
Biểu hiện 5 Thượng trí Manas Tinh thần, biệt lập ngã tính thành Trí tuệ Thể Nguyên nhân
5 Hạ trí Manas Con người có [B] Tâm trí Hạ trí
6 Dục vọng Kāma Dục vọng và Xúc động Thể Vía
7 Hồng trần Sthula Sinh lực (3) Thể Xác

[A] = một Chơn thần bất tử [B] một Phàm ngã hữu hoại

[Môn sinh có thể thấy các thuật ngữ tiếng Bắc phạn là hữu ích vì chúng đã được dùng nhiều trong kho tài liệu Thông Thiên Học và phần nêu trên là phần tương đương bằng tiếng Anh của chính tôi. 1. Adi; 2. Anupādaka; 3. Atmā tức Niết Bàn; 4. Buddhi; 5. Manas (tính từ là manasic); 6. Kāma; 7. Sthula. Thay vì dùng Adi thì Phật tử dùng Mahāparanirvāna (Đại Bát Niết Bàn) và thay vì dùng Anupādaka thì Phật tử dùng Paranirvāna (Bát Niết Bàn).

(1) Tam vị nhất thể của các tôn giáo, Ba Ngôi trong Ki Tô giáo. Khi được biểu lộ trong một Thái dương hệ và được quan sát từ bên dưới thì các Ngôi xuất hiện thành ba do có chức năng khác nhau. Trọn cả Thái dương hệ có thể gọi là Cơ thể của Thượng Đế và Mặt trời là Thể xác của Ngài, nhưng chúng chỉ thể hiện một mảnh vụn của Ngài thôi.
(2) Con người được “thực hiện theo hình ảnh của Thượng Đế”. Các Ngôi của Ngài là Ý chí, Minh triết và Hoạt động tức Quyền năng, Tri thức Bác ái và tính Sáng tạo được thể hiện mô phỏng lại nơi bản thân y là Ý chí, Trực giác và Trí tuệ.
(3) Bảy cái được đặt tên từ dưới lên trên là: chất đặc, chất lỏng, chất hơi, chất dĩ thái, chất siêu dĩ thái, chất hạ nguyên tử và chất nguyên tử.

[Vì sinh lực biểu lộ thành hai dạng chính nơi thể xác cho nên chức năng của thể xác cũng chia làm hai: Sinh lực Cấp Năng lượng hoạt động thông qua bộ phận tinh vi mà ta gọi là thể Phách bao gồm bốn chất dĩ thái hồng trần; còn Sinh lực Tự động sử dụng bộ phận thô trược bao gồm các chất đặc, chất lỏng và chất hơi. Bảy bộ phận của vật chất cõi hồng trần tạo thành cõi hồng trần].
Ta có thể thắc mắc: “Việc giáng xuống vật chất có mục đích gì? Chơn thần thu lượm được cái gì qua việc ấy?” Vốn toàn tri trên cõi của riêng mình, Chơn thần lại mù quáng trước vật chất trong các cõi biểu lộ vì không thể đáp ứng với các rung động của chúng. Cũng giống như một người không biết bơi mà bị ném xuống nước sâu thì sẽ chết đuối, nhưng có thể học cách bơi thoải mái trong đó; Chơn thần thì cũng vậy. Vào cuối cuộc hành hương, nó sẽ được tự do trong Thái dương hệ vì có thể hoạt động ở bất cứ bộ phận nào trong đó, tha hồ sáng tạo, thoải mái di chuyển. Mọi quyền năng mà nó triển khai được qua vật chất thô trược thì nó giữ mãi trong mọi hoàn cảnh, điều ẩn tàng đã trở thành hiển minh, điều tiềm tàng đã trở thành hiện thực. Chính việc nó Muốn sinh hoạt trong mọi cõi chứ không chỉ trong một cõi đã lôi cuốn nó bước vào biểu lộ.


THỂ XÁC

Ta sẽ phác họa tốt nhất việc triển khai tâm thức hiện thực từ bên dưới, vì thể xác là thể đầu tiên được tổ chức để cho tâm thức dùng làm khí cụ hiểu biết, và tâm thức phát triển nhờ vào thể xác hoạt động trong cõi hồng trần như ta đã biết. Bản chất xúc cảm kích thích các tuyến và các hạch thần kinh của thể xác, hạ trí đăng quang thành hệ thần kinh não tủy và những thứ ấy tiếp tục tiến hóa trong cõi vô hình do sự kích thích thu nhận được từ cõi trần.
Ta không cần bàn dông dài về sự tiến hóa của xác phàm vì ta có thể nghiên cứu nó trong khoa học vật lý. Tâm thức con người ở đây mang tính tự động, Chơn nhơn không cần điều khiển các quá trình thể chất vì chúng tiếp diễn theo thói quen, là kết quả do áp lực lâu dài của tâm thức.
Bộ phận tinh vi của thể xác là thể phách, nó thấm nhuần xác phàm và vượt ra ngoài một chút, phủ trên toàn bộ bề mặt xác phàm; các cơ quan cảm giác riêng của nó là các xoáy lực trên bề mặt của chính nó tọa lạc ngay trước 1- đỉnh đầu, 2- điểm ở giữa chân mày, 3- cổ họng, 4- tim, 5- lá lách, 6- tùng thái dương, 7- chót xương sống, 8, 9, 10- ở phần dưới của vùng xương chậu. Ba luân xa này không được sử dụng ngoại trừ trong pháp thuật Tà đạo.
Các xoáy lực này - gọi theo thuật ngữ chuyên môn là luân xa do dáng vẻ của chúng - được khơi hoạt trong quá trình rèn luyện huyền bí và tạo thành một cầu nối giữa cõi trần với cõi trung giới khiến cho cõi trung giới được bao gồm trong phạm vi hoạt động của ý thức tỉnh táo. Sức khỏe của xác phàm tùy thuộc vào Sinh lực trong thể phách; thể phách rút năng lượng trực tiếp từ Mặt trời và nơi bộ phận tiếp xúc với lá lách, thể phách chia năng lượng này ra thành các luồng mà nó chuyển đến cho những cơ quan khác nhau của xác phàm; phần còn dư tỏa ra bên ngoài cấp năng lượng cho mọi sinh vật trong phạm vi tiếp xúc với nó.
Môi trường xung quanh của một người tráng kiện làm tăng Sinh lực, còn một cơ thể bạc nhược lại rút Sinh lực từ xung quanh mình và thường làm cạn kiệt đáng kể Sinh lực của những người gần nó. Từ khí thể chất, quyền năng chữa bệnh v.v. . . là những cách thức giúp ta tiêu tốn Sinh lực dư thừa này một cách hữu ích.
Ta có thể dùng thần nhãn dĩ thái – tầm nhìn trên cõi trần sắc xảo hơn tầm nhìn bình thường – để khảo sát những vật nhỏ xíu chẳng hạn như nguyên tử hóa học hoặc nghiên cứu các tinh linh thiên nhiên vốn sử dụng chất dĩ thái làm cơ thể thấp nhất của mình: các vì tiên, thổ địa, thần lùn và các sinh linh thuộc loại ấy. Chỉ cần gia tăng chút ít sự căng thẳng thần kinh do kích thích, kém sức khỏe hoặc uống rượu cũng có thể thấy được các sinh linh này.
Bộ phận dĩ thái của bộ óc đóng một vai trò tích cực trong các giấc mơ nhất là các giấc mơ do ấn tượng từ ngoại cảnh hoặc do bất kỳ áp lực bên trong nào từ các mạch máu trong bộ óc. Các giấc mơ ấy thường mang đầy kịch tính và có thể thêu dệt bất kỳ kỷ niệm nào trong các diễn biến sự vật hoặc con người nào thuộc quá khứ. [Xem nhiều trường hợp được trình bày trong quyển Triết lý Thần bí của Du Prel].
Nơi con người khỏe mạnh bình thường thì bộ phận dĩ thái của thể xác không tách rời khỏi xác phàm, nhưng phần lớn thể phách bị thuốc mê trục xuất ra và trong trường hợp những người vốn là đồng cốt thì thể phách có thể dễ dàng xuất ra, thường được dùng làm cơ sở để hiện hình trên cõi trần.
Chết là việc triệt thoái hoàn toàn tâm thức ra khỏi xác phàm cùng với các thể cao rút theo tâm thức; thể phách vẫn còn bám vào các thể cao trong một thời kỳ biến thiên – thông thường vào khoảng 36 tiếng đồng hồ sau khi chết – để rồi bị Chơn nhơn vứt bỏ không sử dụng nữa; nó tan rã song hành với xác phàm.


CÕI TRUNG GIỚI, CÁC THẾ GIỚI VÀ CƯ DÂN CỦA NÓ

Cõi trung giới liên quan tới trái đất bao gồm cả hai bầu hành tinh mà ở đây ta không cần quan tâm đến, nó cũng gồm có thể giới dục vọng và các cư dân cũng như thế giới trung ấm (một bộ phận của cõi trung giới) và các cư dân của cõi trung ấm thông thường ở tình trạng đặc biệt.
Trọn cả cõi trung giới thuộc về trạng thái tâm thức biểu lộ thành ra các xúc cảm, ham muốn và xúc động; những thay đổi về tâm thức này có kèm theo những rung động trong vật chất trung giới, và vì vật chất trung giới vốn tinh vi, chuyển động rất nhanh cho nên thần nhãn trung giới thấy các rung động đó dưới dạng màu sắc.
Cơn giận dữ gây ra những rung động làm lóe lên màu đỏ tía, còn xúc cảm sùng tín hoặc yêu thương làm tràn ngập thể vía bằng một sắc thái xanh lơ hoặc màu hồng. Mỗi xúc cảm đều có màu sắc riêng vì mỗi xúc cảm đều có kèm theo một tập hợp các rung động bất di bất dịch.
Thể vía con người dĩ nhiên bao gồm chất trung giới và khi đi kèm theo thể xác, thấm nhuần và vượt ngoài phạm vi của thể xác thì nó hiện ra thành một đám mây hoặc một hình trái xoan xác định tùy theo chủ nhân ông phát triển nhiều hay ít.
Sự tiến hóa cao được đánh dấu bằng màu sắc trong trẻo, sáng sủa và tinh tế, hình dáng xác định và kích thước tăng trưởng. Khi Chơn nhơn trong các thể cao rút ra khỏi thể xác – mỗi đêm trong khi ngủ thường xảy ra như vậy – thì thể vía có dáng vẻ giống như thể xác.
Vật chất trung giới rất mềm dẻo trước ảnh hưởng của tư tưởng, một người xuất hiện trên cõi trung giới giống như chính y, tự nhìn thấy mình đang mặc quần áo mà mình tưởng tượng. Một người lính tử trận xuất hiện bằng thể vía trước một người bạn ở xa sẽ mang theo cả các vết thương; một người chết chìm sẽ xuất hiện với quần áo ướt sũng.
Trong khi con người ở cõi trung giới thường mang hình dáng con người thì cư dân của cõi trung giới mà không có thể xác – các vị tiên cao cấp, các tinh linh thiên nhiên dính dáng tới cơ tiến hóa của sinh hoạt thực vật và động vật v.v. – lại mang những cơ thể thường xuyên thay đổi đường nét và kích thước.
Các tinh linh đùa bỡn – người ta thường gọi các tinh linh thiên nhiên là như thế - đôi khi lợi dụng tính mềm dẻo này của chất trung giới để căng phồng mình lên thành những hình dáng khổng lồ khiếp đảm nhằm đe dọa những kẻ thiếu kinh nghiệm xâm nhập vào thế giới của mình. Một số loại thuốc như cần sa, thẩu, á phiện và ngộ độc rượu cực độ có thể ảnh hưởng tới dây thần kinh làm cho chúng bén nhạy với các rung động của trung giới để rồi nạn nhân thoáng thấy một số cư dân của cõi trung giới.
Những điều khủng khiếp hành hạ một người bị mê sảng rung rẩy phần lớn là do họ thấy những tinh linh ghê tởm tụ tập xung quanh những nơi bán rượu và bu lấy những hơi rượu túa ra từ cái thể xác nồng nặc mùi rượu.
Mọi xúc cảm khoái lạc và đau khổ trong thể xác là do có mặt thể vía lồng vào thể xác và nếu thể vía bị thuốc mê hoặc thuật thôi miên mesmer trục xuất ra khỏi thể xác thì xúc cảm bèn bị biến mất khỏi thể xác.
Khi ngủ - trong lúc thể phách chưa rời khỏi xác phàm – thì thể vía có thể nhanh chóng được triệu hồi khi có bất kỳ sự quấy nhiễu nào đối với thể xác; nhưng khi đa số chất dĩ thái đã bị trục xuất ra khỏi thể xác thì cái cầu thông thương bị cắt đứt gây ra tình trạng xuất thần; trong tình huống đó ta có thể cắt xẻ xác phàm một cách nghiêm trọng mà không gây ra đau đớn. Tuy nhiên sự đau đớn sẽ xuất hiện trở lại ngay khi thể vía len lỏi lại vào trong thể xác và “ý thức lại phục hồi”.
Nhân tiện xin nói, trọng tâm bình thường của tâm thức con người trong giai đoạn tiến hóa hiện nay vốn đặt nơi thể vía, từ đó nó hoạt động trên cõi trần. “Ý thức của xác phàm” hiện nay mang tính chất tiềm thức – nếu ta tạm dùng một sự chơi chữ như thế.
Tình trạng của con người trong khi ngủ biến thiên theo trình độ tiến hóa của y.
Kẻ chưa phát triển khi rời bỏ xác phàm ở trong các thể cao thì chỉ lượn lờ xung quanh nơi mà mình quen thuộc, người thường trôi lửng thửng về phía những người thu hút mình nhưng chú tâm của y xoay vào bên trong và y chỉ giao tiếp với bạn bè trong trí mình thôi; ở trình độ cao hơn một chút, tâm trí y hoạt động rất tích cực và dễ tiếp thu, nó có thể giải quyết những vấn đề mà mình gặp phải dễ dàng hơn trong khi ngự nơi thể xác; bằng chứng là người ta thường nói: “giấc ngủ mang lại sự cố vấn”, “ngủ sẽ giải quyết được vấn đề đó hay hơn” v.v. . .
Một vấn đề được yên lặng đặt trước tâm trí sắp đi ngủ thường thường sẽ được giải đáp vào lúc sáng mai khi tỉnh dậy. Tất cả những người nêu trên đều không hoạt động một cách hữu thức trong cõi trung giới; vì muốn hoạt động hữu thức trong đó thì sự chú tâm phải xoay ra bên ngoài chứ không phải hướng vào bên trong. Khi người ta thanh khiết và tự chủ, và tỏ ra hữu ích trên cõi trần thì y thường được một người tiên tiến hơn “đánh thức dậy” trên cõi trung giới.
Quá trình này chỉ cốt ở việc khiến cho y nhớ tới những gì diễn ra xung quanh mình thay vì cứ đắm chìm trong tư tưởng riêng của mình; thể vía của y đã tiến hóa và được các hoạt động đạo đức, tâm trí tổ chức lại cho nên y chỉ cần thức tỉnh trước môi trường xung quanh của cõi trung giới.
Người phò trợ sẽ giải thích mọi vấn đề cho y và kèm cặp y trong một thời gian; người phò trợ cho y thấy vật chất cõi trung giới tuân theo tư tưởng của y, y có thể thoải mái di chuyển với bất cứ vận tốc nào mà mình muốn, y có thể đi xuyên qua những tảng đá, lặn xuống biển, đi qua ngọn lửa đang bốc cháy, leo qua một vực sâu hoặc lơ lửng trên không miễn là y không sợ sệt và tin tưởng, nếu y mất can đảm thì chỉ lúc bấy giờ y mới bị nguy hiểm và sự tổn thất tưởng tượng mới có thể “phản kích” nghĩa là biểu lộ trên thể xác thành ra một vết bầm dập, một vết xước, một vết thương v.v. . .
Khi y đã học được những bài học sơ cấp này, có thể nhìn thấy và nghe thấy chính xác trên cõi trung giới, thì y bắt đầu làm việc giúp cho “người còn sống” và “người đã chết”, bấy giờ ta gọi y là kẻ phò trợ vô hình; mỗi đêm y mất thời giờ trợ giúp cho những người đang gặp rắc rối, dạy dỗ cho kẻ dốt nát, tiếp dẫn những kẻ mới bước qua cửa tử nhập vào cõi trung giới. Bây giờ ta chuyển sang cõi trung giới bên kia cửa tử.


DỤC GIỚI TỨC LUYỆN NGỤC

Đây là một bộ phận của cõi trung giới mà tình huống được dành đặc biệt cho những sinh linh đã thoát xác; trừ phi có hiểu biết thì những kẻ này thường không được tự do trên cõi trung giới mà theo lời thánh Peter là “những vong linh bị giam cầm”. Họ bị chính những ham muốn của mình giam giữ trong trạng thái bị giam cầm và vì thế nơi cư trú của họ được gọi là dục giới.
Ta đã thấy rằng khi chết, Chơn nhơn khoác lấy những thể tinh vi, rút ra khỏi thể xác mà mình đã khoác lấy trong buổi sinh thời, đây là “lớp áo bằng da” mà “con người bản sơ” đã khoác lấy sau khi nó bị “sa đọa” vào vật chất nguyên nhân là vì tò mò “muốn hiểu biết”. Thánh Paul có nói về câu chuyện Abraham, Sarah và Hagar: “những chuyện đó là ẩn dụ”.
Sau khi đã vứt bỏ lớp áo bằng da, Chơn nhơn vẫn cứ giống như mình lúc đang mặc áo bằng da và Chơn nhơn “đi tới chỗ riêng của mình” trên cõi trung giới, chỗ nào thích hợp với mình. Một sự sắp xếp lại vật chất trong thể vía sẽ tự động xảy ra nếu Chơn nhơn không có đủ kiến thức để ngăn chận điều ấy.
Trong buổi sinh thời của thể xác, các hạt chất trung giới từ bảy cảnh vật chất trung giới di chuyển tự do lẫn lộn với nhau và một số hạt thuộc đủ loại đều luôn luôn hiện diện trên bề mặt thể vía; việc nhìn thấy trọn cả cõi trung giới tùy thuộc về việc trên bề mặt thể vía có hiện diện hay không các hạt xuất phát từ bảy cảnh tương ứng với chất đặc, chất lỏng, chất hơi và bốn chất dĩ thái trên cõi trần.
Các hạt này không tụ tập lại và được tạo thành một cơ quan thị giác giống như mắt phàm; khi Chơn nhơn xoay chuyển chú tâm ra bên ngoài thì y thấy “hết mọi thứ” thông qua tất cả các hạt hoặc thông qua những hạt ở trong hướng của đối tượng mà y chú tâm tới. [Những kẻ chân ướt chân ráo nhập vào cõi trung giới luôn luôn nhìn qua một đôi mắt giả bằng chất trung giới vì họ có thói quen chú ý ra bên ngoài theo kiểu đó, cũng giống như họ phải cử động chân khi bước đi. Cả hai động tác này đều không cần thiết]. Nếu sự sống sắp xếp lại vật chất của thể vía mà xảy ra thì vật chất của mỗi cảnh bèn tụ tập lại với nhau tạo thành một loạt những lớp vỏ đồng tâm mà lớp vỏ thô nhất lại ở ngoài cùng.
Vì thế cho nên Chơn nhơn chỉ thấy được bộ phận (cảnh) của cõi trung giới có cùng vật chất với lớp vỏ ngoài cùng; số lượng mỗi loại vật chất tùy thuộc vào loại ham muốn và xúc động mà y đã trau dồi trên trần thế.
Nếu những xúc động và ham muốn ấy thuộc loại thấp thì vật chất trung giới thô nhất sẽ được tiếp sinh lực nhiều nhất và lớp vỏ ngoài cùng – nó khiến y chỉ tiếp xúc với cảnh thấp nhất của cõi trung giới – sẽ tồn tại lâu dài; nó chỉ tan rã do từ từ bị bỏ đói nghĩa là dứt bỏ việc thỏa mãn do thói quen. Vì thế cho nên một người nghiện rượu, phàm ăn, đa dâm, một người có những đam mê tàn bạo và mãnh liệt vốn được cấp sinh lực mạnh mẽ do khi còn sống đã buông thả theo những tổ hợp vật chất trung giới thô nhất, người này chỉ có thể ý thức được môi trường xung quanh qua những loại vật chất ấy, chỉ thấy những người giống như mình và những phẩm chất tồi tệ nhất của những người thực ra thuộc loại khá hơn. Cơn đam mê điên rồ của y không được thỏa mãn vì y đã mất những cơ quan thể xác giúp y xưa kia được thỏa mãn; hơn nữa những cơn đam mê này còn mạnh hơn trước kia nhiều vì trong buổi sinh thời, hầu hết sức mạnh của những rung động trung giới đều bị tận dụng chỉ để làm rung động các hạt vật chất nặng nề trên cõi trần và chỉ có phần tàn dư mới được cảm nhận thành khoái lạc hoặc đau khổ. Vì thế cho nên mọi đam mê trên cõi trần đều mờ nhạt và yếu ớt khi so với sự mãnh liệt của chúng trên cõi trung giới, ở đây sau khi dễ dàng khởi động các hạt nhẹ nhàng trên cõi trung giới thì phần còn lại của toàn bộ sức lực biểu lộ thành khoái lạc hoặc đau khổ, nghĩa là một cơn đam mê ngây ngất hoặc một sự oằn oại thống khổ mà trên trần thế không tài nào tưởng tượng nổi.
Các tôn giáo gọi trạng thái thống khổ ấy là “địa ngục” và đây quả thật là địa ngục vì đó là sự đau khổ mà chính con người tạo ra cho nơi mà mình trú ngụ. Nhưng nó chỉ tạm thời thôi; vì vậy các Ki Tô hữu và các tín đồ Hồi giáo chính thống có thể gọi nó là “luyện ngục” thì thích hợp hơn. [Cả hai tôn giáo nêu trên trong khi bình thường nói địa ngục là đời đời thì lại có những đoạn văn trong Kinh điển cãi lại ý tưởng này. Kinh Tân Ước có nói tới một thời kỳ mà “Thiên Chúa sẽ ngự nơi tất cả”, còn kinh Al Qurān nói rằng: “Vạn vật đều hư hoại ngoại trừ Thánh dung của Thượng Đế”.
Khi lớp vỏ dày đặc bằng vật chất thô nhất đã mòn mỏi đi và con người quên mất cái sinh hoạt trên cõi trung giới này để bắt đầu cảm nhận được sinh hoạt kế tiếp thì qua những bài học cay đắng đáng buồn như vậy y đã học được rằng những khoái lạc mà mình đánh giá cao trên trần thế thật ra lại là “cửa dẫn vào đau khổ”.
Người bình thường không phải trải nghiệm cái tình trạng bất hạnh này sau khi chết vì buổi sinh thời y không thu hút vào thể vía của mình nhiều vật chất thô nhất và cái gì mà y không cấp sinh lực mạnh mẽ thì nó không thể kềm giữ được y. Nếu lúc sinh thời y chỉ quan tâm tới những chuyện tầm thường – quanh quẩn nơi công việc ở sở làm hoặc ở nhà, hoặc việc lao động tay chân, xen kẽ với những lúc giải trí tầm phào mặc dù không phải là thói xấu – thì y chỉ quan tâm tới điều gì có tầm mức lớn lao thuộc về cộng đồng và quốc gia; bấy giờ y thấy mình khoác lớp vỏ bằng vật chất thuộc cảnh thứ 6 của cõi trung giới, và trong khi xung quanh y có những đối thể bằng vật chất trung giới của các vật trên cõi trần thì y lại không có khả năng ảnh hưởng tới chúng hoặc tham gia vào sinh hoạt trần tục diễn ra trong bối cảnh ấy; vì vậy nói theo kiểu dân gian thì y thấy mình rất buồn chán và là nạn nhân của một ý thức buồn chán không thể chịu đựng nổi.
Người ta có thể nói rằng chuyện này thật khó chịu vì hầu hết mọi người đã mưu sinh bằng một loại công việc vất vả nào đó, lẽ nào sau khi chết họ lại cảm thấy buồn chán vì trước đó mình đã từng lao động vất vả? Đúng vậy, nhưng chỉ cần hiểu biết chút ít thì cũng ngăn ngừa được điều ấy và chính vì lý do đó mà Thông Thiên Học mới cần được phổ biến rộng khắp.
Công việc diễn ra trên cõi trần không nhất thiết là chuyện vất vả và những người có tâm mộ đạo sâu sắc ngay cả hiện nay cũng không thấy mình lao động vất vả; vì mọi công trình hữu ích đều là một phần trong hoạt động của Đấng Thiêng liêng và mọi cộng tác viên đều là bộ phận của Hoạt động ấy, là những Bàn tay giúp cho đấng Thao tác Thiêng liêng hoàn thành công trình của mình. Việc sản xuất và phân phối – nông nghiệp, ngành khai thác khoáng sản, ngành chế biến công nghiệp, thương mại, tiểu thương – đều là những phương cách mà Thượng Đế dùng nuôi dưỡng loài người và là những phương tiện để tiến hóa.
Khi một thiện nam tín nữ thấy nhiệm vụ nho nhỏ hằng ngày của mình là một bộ phận không thể chia lìa khỏi công trình vĩ đại duy nhất thì họ không còn là những lao dịch nữa mà là những người cộng tác với Thượng Đế. [Xem Ứng dụng Thông Thiên Học vào những vấn đề xã hội, Tiết V, trang 77].
George Herbert có ca tụng qua bài hát như sau:
“Một người phụng sự trong chính nghĩa này,
Biến công việc lao động vất vả thành ra chuyện thiêng liêng.
Khi y quét một căn phòng dường như thể thiên luật,
Đã khiến cho hành động đó trở nên tốt đẹp”.
Những người làm việc như thế ắt không thấy buồn chán sau khi chết mà sẽ hoạt động vui vẻ và mới mẻ. Vả lại họ dần dần sẽ thích ứng với tình huống mới và được trợ giúp để làm như thế; họ thấy mình đã dứt bỏ được nhiều chuyện khó chịu trên trần thế và có thể sống một sinh hoạt hoàn toàn dễ chịu; họ tiếp xúc được với bạn bè trên trần thế và nhận thấy rằng những người này quả là bạn của mình trong khi cõi trần là ban đêm nhưng lúc ban ngày thì lại thờ ơ một cách dễ giận. Ông Leadbeater có nói ngắn gọn như sau: “Người chết chưa một lúc nào có cảm tưởng rằng mình đã mất người sống”, tuy nhiên đa số người còn sống lại khóc than vì mất người chết mà mình đã yêu thương.
Con người chuyển sang các cảnh thứ 6, thứ 5 và thứ tư thì càng ngày càng liên kết với những người mà mình yêu thương cho đến khi y chuyển vào các cảnh cao hơn tức là các cõi thiên đường vật chất của những nhà tôn giáo ít học nhất trong mọi tín ngưỡng, tên vùng dành cho nghệ thuật, văn chương, khoa học, lòng nhân ái và những quyền lợi lớn lao trong cuộc sống mà người ta theo đuổi trên trần thế với một sự ích kỷ nào đó; ở đây người ta theo đuổi chúng qua những đường lối quen thuộc và dùng những mô phỏng trên cõi trung giới của các khí cụ và phương tiện trên cõi trần. Cũng những công trình theo đuổi ấy mà được tiến hành vì những động cơ thúc đẩy vị tha sẽ nâng Chơn nhơn lên thế giới thiên đường, là nơi chốn thực sự của những công trình ấy và những người theo đuổi chúng một cách ích kỷ sẽ chuyển sang đó khi họ đã mỏi mệt với chúng trên cõi trung giới thì họ sẽ ngủ thiếp đi để thức tỉnh trên cõi thiên đường.
Người ta đã vứt bỏ thể vía hết lớp vỏ này đến lớp vỏ kia và sớm muộn gì nó cũng trở lại với các yếu tố cấu thành mình giống như trường hợp thể xác. Một số linh hồn thanh khiết và cao cả ắt lướt qua cõi trung giới mà không tham dự vào nó vì tâm trí của họ chú trọng tới những chuyện cao siêu hơn. Những người khác hoàn toàn tỉnh táo không để cho vật chất thể vía sắp xếp lại mà vẫn giữ được sự tự do để hoàn thành việc phụng sự có ích. Ngoại trừ hạng người vừa nêu này – họ ở lại trung giới tùy theo các nguyên nhân khác – qui tắc chung là sinh hoạt trên cõi trung giới sau khi chết ắt lâu dài đối với người chậm phát triển và ngắn ngủi đối với người tiên tiến, trong khi sinh hoạt trên cõi thiên đường ắt lâu dài đối với người tiên tiến và ngắn ngủi đối với người chậm tiến.


CÕI TRÍ TUỆ, CÁC THẾ GIỚI VÀ CƯ DÂN CỦA NÓ

Cõi trí tuệ liên quan tới trái đất ta bao gồm cả hai bầu hành tinh mà hiện nay ta không quan tâm tới. Nó cũng bao gồm hai thế giới, thế giới thượng trí (thượng thiên) và thế giới hạ trí (hạ thiên); mỗi thế giới đều có các cư dân của mình; một phần thế giới hạ trí được đặt vào tình huống đặc biệt để cho những người thoát xác sử dụng; bộ phận ấy chính là thế giới thiên đường. Trọn cả cõi trí tuệ thuộc về trạng thái tâm thức mà ta gọi là tư tưởng tức là hoạt động trí tuệ, vật chất của nó đáp ứng với những sự biến đổi tâm thức do suy tư diễn ra, bảy cảnh của nó mặc dù tinh vi hơn nhiều lại vẫn tương ứng với bảy cảnh thuộc cõi hồng trần và cõi trung giới.
Cõi trí tuệ cũng giống như cõi hồng trần được chia làm hai phần: phần hạ trí (hạ thiên) và phần thượng trí (thượng thiên), phần hạ trí bao gồm bốn cảnh thô trược còn phần thượng trí bao gồm ba cảnh tinh vi; có hai thể thuộc về cõi này: thể hạ trí bao gồm tổ hợp của các cảnh thô trược và thể thượng trí bao gồm tổ hợp các cảnh tinh vi. Thế giới này rất đáng chú ý chẳng những vì Chơn nhơn sống ở đây gần hết thời gian sinh hoạt của mình sau khi tâm trí đã phát triển khả quan và chỉ lặn xuống cõi hồng trần một nhúm thời gian ngắn ngủi sinh hoạt hữu hoại giống như con chim lặn xuống biển để bắt cá; mà nó còn đáng chú ý vì đó là nơi hội tụ của tâm thức cao và tâm thức thấp.
Sau khi Chơn thần đã tạo ra Tinh thần bằng cách xạ ra một tia của mình, thì Chơn ngã bất tử khi giáng từ trên xuống phải chờ đợi ở cõi Thượng thiên trong khi các hạ thể được tạo thành xung quanh các nguyên tử gắn liền với y; y ngẫm nghĩ về chúng trải qua hàng thời kỳ dài tiến hóa chậm chạp; khi chúng đã tiến hóa đúng mức thì y mới sà xuống chiếm hữu chúng để sử dụng chúng cho mục đích tiến hóa của riêng mình. Nơi cư trú của Tinh thần trên cương vị là Trí tuệ - bản chất của nó là tri thức – chính là cõi thượng thiên tức ba cảnh cao của thế giới trí tuệ. Các cảnh này cung cấp cho y thể thượng trí là cơ thể vẫn sống sót và hằng tiến hóa xuyên suốt hàng loạt kiếp lâm phàm dài dằng dặc nơi vật chất thô trược. Thế giới và cơ thể này được gọi là thế giới nguyên nhân và thể nguyên nhân vì ở nơi chúng có các nguyên nhân mà ta thấy được các hậu quả thể hiện nơi các thế giới thấp. Khi sà xuống như nêu trên, thể thượng trí mới đầu chỉ giống như một lớp màn vật chất hình cái trứng, tương tự một lớp vỏ bao xung quanh các hạ thể; các hạ thể ở bên trong cũng giống như con gà con ở trong quả trứng.
Có một mạng lưới tinh tế xạ ra từ nguyên tử trường tồn trong thể nguyên nhân đi tới mọi bộ phận của lớp màng mỏng hình cái trứng này, nguyên tử chói sáng như một hạt nhân rực rỡ; liên kết với thể nguyên nhân ta có các nguyên tử trường tồn của thể xác, thế vía và thể hạ trí.
Trong buổi sinh thời, thể nguyên nhân bao trùm hết thảy các hạ thể và khi hạ thể nào chết thì nó bảo tồn chủng tử trường tồn ấy của hạ thể cùng với mọi khả năng rung động được cẩn vào trong chủng tử, vốn là “chủng tử hằng sống” cho mỗi thể liên tiếp. Trong bao nhiêu thời đại, thể nguyên nhân chẳng khác gì hơn là cái mạng lưới tinh vi và bề mặt tinh vi này vì nó chỉ có thể tăng trưởng qua các hoạt động cao siêu của con người, chỉ những hoạt động ấy mới khơi hoạt được vật chất tinh vi của nó đáp ứng bằng một rung động yếu ớt, khi phàm ngã càng ngày càng trở nên biết suy tư, vị tha hơn và dấn thân nhiều hơn vào chánh nghiệp thì nó sẽ gặt hái một vụ mùa càng ngày càng phong phú.
Phàm ngã giống như những chiếc lá mọc ra từ một cái cây; chúng thu hút vật liệu từ bên ngoài, biến hóa nó thành ra chất hữu ích, gởi nó xuống cái cây để làm chất nhựa nguyên, rồi chiếc lá héo tàn và rung đi; nhựa cây biến thành thức ăn nuôi dưỡng cây để cây mọc ra những lá mới; rồi lập lại chu kỳ như cũ.
Tâm thức thu lượm được kinh nghiệm qua các thể hạ trí, thể vía và thể xác; khi vứt bỏ thể xác và thể vía giống như những chiếc lá úa bị rụng đi thì tâm thức chuyển hóa những kinh nghiệm này thành các phẩm chất của thể hạ trí trong lúc sinh hoạt trên thế giới thiên đường. Vụ mùa ấy được thu rút vào trong thể nguyên nhân sau khi thể hạ trí cũng bị vứt bỏ giống như các hạ thể kia để rồi được hòa lẫn với Tinh thần; Tinh thần đã sinh ra nó làm cho nó gặt hái vụ mùa phong phú; nó đã phục vụ Tinh thần giống như một bàn tay đưa ra để lấy thức ăn.
Tinh thần đã được phong phú hóa tức là Chơn nhơn tạo ra xung quanh các nguyên tử trường tồn cũ một thể hạ trí mới và thể vía mới có thể biểu lộ những phẩm chất đã được nâng cấp. Nguyên tử trường tồn của thể xác được người cha gieo cấy vào cơ thể người mẹ, bà mẹ cung cấp thể xác mà luật nhân quả bất di bất dịch yêu cầu và ba hạ thể của bào thai được nuôi dưỡng và tô điểm bằng ba hạ thể tương ứng của bà mẹ; thế là phàm ngã mới được gieo trồng vào thế giới hữu hoại.
Trong khi Trí tuệ có hiện thể là thể nguyên nhân tức là bản sao của nó nơi vật chất thô trược thì Tâm trí lại có công cụ là thể hạ trí; một đằng hoạt động bằng cách suy tư trừu tượng còn một đằng bằng cách suy tư cụ thể. Tâm trí thu lượm kiến thức bằng cách sử dụng quan năng quan sát, các huấn điều, để rồi tác động lên chúng, xây dựng chúng thành ra những khái niệm; quan năng của tâm trí gồm có: chú ý, ghi nhớ, lý luận bằng cách qui nạp và diễn dịch, tưởng tượng v.v. . .
Trí tuệ hiểu biết do ngoại giới được hài hòa với bản chất của chính mình, quan năng của nó là Sáng tạo tức là sắp xếp vật chất thành ra các hiện thể dành cho các sản phẩm tự nhiên của mình là Ý tưởng. Khi nó phóng một tia chớp lóe vào Hạ trí để soi sáng cho các khái niệm của Hạ trí và gợi linh hứng cho óc tưởng tượng của Hạ trí thì ta gọi tia chớp lóe ấy là Thiên tài.
Trong những giai đoạn tiến hóa sau này, cả thể thượng trí lẫn thể hạ trí đều biểu lộ vẻ rực rỡ lộng lẫy nhất gồm ánh sáng nhiều màu chói sáng huy hoàng khi tương đối yên tĩnh và phóng ra những luồng lấp lánh chói mắt nhất khi đang hoạt động cao độ. Cả hai thể này đều lồng vào các thể thấp hơn, mở rộng vượt quá mức bề mặt của các thể thấp cũng giống như ta đã từng nói về thể phách và thể vía. Bộ phận của các thể cao làm bằng vật chất tinh vi vượt qua ngoài xác phàm tạo thành tập thể “hào quang” của con người, tức là đám mây màu sắc chói sáng vây quanh xác phàm.
Ta có thể thấy phần nào hào quang thể phách bằng dụng cụ của bác sĩ Kilner; [Xin bạn đọc hãy tham chiếu bản đính kèm theo] một nhà thần nhãn bình thường thông thường thấy được phần nào hào quang thể phách và hào quang thể vía; một nhà thần nhãn tiên tiến hơn thấy được cả phần hào quang thể phách, thể vía lẫn phần hào quang thể hạ trí. Ít người có thể thấy được phần hào quang thể thượng trí và còn ít người hơn nữa thấy được vẻ hiếm có của thể trực giác và ánh sáng chói lòa của thể tinh thần.
Trình độ tiến hóa của chủ nhân ông nói chung được biểu hiện qua sự trong sáng và tinh tế, rực rỡ trong màu sắc của hào quang so với sự mờ đục, thô trược và tối xỉn của người chậm tiến. Những sự thay đổi xúc động làm tràn ngập hào quang thể vía bằng những màu sắc thoáng qua, chẳng hạn như màu hường của yêu thương, màu xanh lơ của lòng sùng tín, màu xám của sự sợ hãi, màu nâu của sự tàn bạo, màu xanh lục bệnh hoạn của lòng ghen tuông. Màu vàng thuần khiết của trí tuệ, màu cam của lòng kiêu hảnh, màu xanh lục trong sáng của sự thiện cảm và linh hoạt về tâm trí cũng rất thông dụng. Những vạch, dải màu, đường vằn, tia chớp lóe v.v. . . cung cấp cho ta vô số dạng để nghiên cứu, tất cả đều biểu hiện một vài phẩm tính trong tính tình xét về đạo đức và trí tuệ. Vả lại hào quang của trẻ con khác hẳn hào quang của người lớn. Nhưng chúng ta phải đổi đề tài vì khuôn khổ có hạn.
Tâm trí khi hoạt động thông qua thể hạ trí tạo ra những kết quả là tư tưởng biểu hiện qua thể vía và thể xác; khi biểu hiện qua thể xác nó sử dụng công cụ là hệ thần kinh não tủy. Ở trên cõi của riêng mình thì nó phóng ra những “hình tư tưởng” xác định (hình tư tưởng là tư tưởng được thể hiện nơi vật chất cõi hạ trí); các hình tư tưởng ấy gia nhập vào thế giới hạ trí và có thể tham gia vào thể hạ trí của người khác; các rung động của chính nó cũng tỏa ra những làn sóng rung động theo mọi hướng, khiến cho thể hạ trí của người khác cũng rung động tương tự như nó. Ở giai đoạn tiến hóa hiện nay, tương đối có ít người hoạt động thoải mái trên thế giới trí tuệ mà chỉ khoác lấy thể thượng trí và thể hạ trí tách rời khỏi thể xác và thể vía.
Nhưng những người có thể hoạt động như vậy ắt có thể tường thuật về những hiện tượng của nó; đây là một vấn đề quan trọng vì thế giới thiên đường – mà sách vở cũ của Thông Thiên Học gọi là cõi Devachan tức cõi Cực lạc – là một bộ phận của thế giới trí tuệ được bảo vệ không cho những kẻ quấy phá đột nhập vào. Cư dân của thế giới này thuộc hàng ngũ tinh linh thiên nhiên cao cấp mà phương Đông gọi là Chư thiên tức các Đấng Quang minh, còn tín đồ Ki Tô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo gọi là Thiên thần tức là Cấp sinh linh thông tuệ thấp nhất. Họ có những hình tướng chói sáng, màu sắc vi tế thay đổi luôn; ngôn ngữ của họ là màu sắc còn sự vận động của họ là âm nhạc du dương.


THẾ GIỚI THIÊN ĐƯỜNG

Bộ phận thiên đường của thế giới trí tuệ chứa đầy những người đã thoát xác, họ đào luyện các kinh nghiệm hữu ích mà mình thu lượm được trong kiếp sống trần thế thành ra các quan năng trí tuệ và đạo đức.
Ở đây ta thấy có những tín đồ tôn giáo đê mê ngây ngất khi chiêm ngưỡng sùng bái Hình tướng Thiêng liêng mà mình yêu quí trên cõi trần vì Thượng Đế biểu lộ qua bất kỳ hình tướng nào mà lòng người tha thiết. Ở đây nhạc sĩ làm cho bầu không khí đầy tràn các âm thanh du dương để trau dồi năng lực của mình thành ra quan năng cao cấp hơn; ở đây mọi người đang yêu thương đều kề vai sát cánh với đối tượng mà mình yêu thương, và tình yêu thương ấy có thêm sức mạnh thấm thía được biểu hiện trọn vẹn nhất; ở đây các nghệ sĩ gồm điêu khắc và hội họa thể hiện ra quan niệm huy hoàng thông qua vật liệu mềm dẻo đáp ứng với tư tưởng của mình; ở đây các kiến trúc sư thiết kế những mô hình để thực hiện khi lại trở về cõi trần.
Mọi hoạt động cao cấp được đeo đuổi trên cõi trần, mọi tư tưởng và hoài bão cao siêu đều tăng trưởng thành những đóa hoa ở đây, các đóa hoa ấy hàm chứa bên trong mình những hạt giống sau này sẽ được gieo trồng trên trần thế. Khi còn sống nơi hạ giới mà con người biết được như vậy thì y có thể chuẩn bị các hạt giống kinh nghiệm sẽ nở thành hoa trên thế giới thiên đường.
Việc trau dồi mọi năng khiếu văn chương và nghệ thuật, vun bồi tình thương, nhẫn nại và bền chí, cúc cung phụng sự loài người một cách vị tha, hết lòng sùng tín Thượng Đế, những điều ấy sẽ mang lại vụ gặt phong phú và đầy hoa trái trên cõi thiên đường. Người nào gieo ít thì sẽ gặt ít; trong khi cái chén hạnh phúc của mọi người đều được đầy tràn thì chính chúng ta sẽ làm cho chén của mình lớn hay nhỏ trên cõi thiên đường. Thời gian sinh hoạt trên cõi thiên đường tùy thuộc vào vật liệu mà ta có thể mang theo sau khi chết; những vật liệu này là tư tưởng tốt đẹp và xúc động thanh khiết. Nó có thể kéo dài tới 1500 năm hoặc hai ngàn năm, nó cũng có thể chỉ mất vài thế kỷ, thậm chí còn ngắn ngủi hơn nơi những người rất chậm tiến.
Khi toàn bộ kinh nghiệm đã được hun đúc thành năng khiếu thì Chơn nhơn vứt bỏ thể hạ trí để rồi thực sự là chính mình sinh hoạt trong thể thượng trí và hai thể cao hơn. Nếu tiến hóa cao thì Chơn nhơn có thể sinh hoạt một thời gian trên các bộ phận cao của thế giới trí tuệ; thường thường thì nó chỉ ở lại đây một thời gian rất ngắn đủ để cho nó thoáng thấy được trọn cả quá khứ và lén nhìn vào kiếp sống vị lai; thế rồi nó nhanh chóng bắt đầu giáng xuống trở lại vì bị thôi thúc bởi sự háo hức muốn có nhiều kinh nghiệm hơn. Các mầm mống của những năng khiếu trí tuệ tiên tiến được gieo trồng vào vật chất của cõi hạ trí để tạo thành một thể hạ trí mới; các mầm mống của năng khiếu tiên tiến về đạo đức và xúc cảm được gieo trồng vào vật chất trung giới để tạo thành một thể vía mới; những mầm mống ấy chính là “các năng khiếu bẩm sinh” hoặc “tính tình” mà đứa bé mang theo khi đầu thai nhập thế.

CÁC CÕI CAO

Ở đây ta có thể miêu tả rốt ráo hai cõi cao tức cõi Trực giác (bản chất Ki Tô bộc lộ nơi Chơn nhơn qua cõi này) và cõi Tinh thần. Trực giác là cái sự đốn ngộ về bản chất của sự vật, vì thông hiểu được Chơn ngã nhất như nơi vạn vật cho nên diệt trừ được óc chia rẽ; đó là cái quan năng của bản chất Minh triết tức là tầm nhìn tối cao của tâm linh trong đó Thiên nhiên không còn che phủ bức màn nào trên các giới của thiên nhiên. Cõi Tinh thần là cõi mà ý chí của con người thực hiện được sự hiệp nhất với ý chí của Thượng Đế, đó là cõi cuối cùng và cõi cao nhất trong hệ thống biểu lộ hiện nay vì cho đến bây giờ cõi Chơn thần và cõi Thượng Đế còn chưa biểu lộ.
Vòng sinh tử luân hồi của cơ tiến hóa bình thường trong nhân loại chỉ xoay chuyển trong tam giới: cõi hồng trần, cõi trung giới (trung ấm) và cõi thiên đường; ở cõi hồng trần chúng ta thu lượm được kinh nghiệm; ở cõi trung ấm chúng ta đau khổ hoặc vui mừng tùy theo thành quả sinh hoạt của mình trên cõi trần; ở cõi thiên đường, chúng ta an hưởng hạnh phúc không bị quấy phá và chuyển hóa kinh nghiệm thành ra năng lực, biến đau khổ thành sức mạnh. Rồi chúng ta lại mang những thứ ấy trở lại cõi trần để tăng trưởng và tiến hóa hết đời này tới đời khác.
Ta có thể nghiên cứu mỗi giai đoạn tiến hóa a tăng kỳ kiếp này bằng cách đẩy nhanh sự phát triển tâm thức và xúc tiến sự tăng trưởng của các cơ thể thuộc về các thế giới khác nhau. Trong Tiết này – ngoại trừ phần nói về Chơn thần – mọi phát biểu đều được đưa ra không phải chỉ dựa vào đức tin mà dựa vào công trình nghiên cứu đã được kiểm chứng đầy đủ, công trình ấy cũng cực nhọc như bất cứ công trình nào về toán học cao cấp hoặc thiên văn học. Tuy nhiên, chỉ cần tiến hóa hơn mức bình thường một chút cũng giúp cho ta khảo sát được các sự kiện trên cõi dĩ thái và cõi trung giới; kinh nghiệm ấy có thể khích lệ môn sinh theo đuổi nhiệm vụ này thêm nữa.


CÁC NGHI LỄ VÀ NGHI THỨC TÔN GIÁO

Thông Thiên Học với vai trò là khoa học có thể phục vụ rất nhiều cho đủ thứ tôn giáo qua việc đưa ra lời giải thích về nhiều nghi thức và nghi lễ tôn giáo. Thoạt tiên các Huyền bí gia lỗi lạc đã chế định ra các nghi lễ này để truyền thụ cho các thiện nam tín nữ những ảnh hưởng của các cõi cao. Trong Vấn đáp Giáo lý của Giáo hội Anh quốc có định nghĩa “một phép bí tích” là “dấu chỉ bên ngoài của một thiên ân tâm linh bên trong”; đâu phải đó chỉ là dấu hiệu cho thấy thiên ân đang hiện diện mà còn là một phương tiện để truyền thụ hồng ân ấy cho tín đồ. Theo qui tắc xưa cũ thì một phép bí tích phải bao gồm: một Vật bên ngoài trên cõi trần, một Ấn chỉ và một Thần chú, và phải có một Chức sắc đầy đủ bản lĩnh tuân theo các giáo luật.
Như vậy, trong phép Rửa tội của Ki Tô giáo, Nước là Vật trên cõi trần, Ấn là Thập tự giá, Chú là công thức của phép rửa tội: “Ta rửa tội cho con, Nhân danh Cha, Con và Thánh thần”; Chức sắc phải là một thừa tác viên đã được phong chức thực thụ. Hồng ân tâm linh trong nội giới là sự ban phúc mà các Thiên thần xung quanh tuôn đổ vào đứa trẻ khi cộng đồng đã nhận y vào thế giới Ki Tô hữu trong cõi này và các cõi khác, là sự hoan nghênh mà các giáo hội Ki Tô hữu hình và vô hình dang rộng vòng tay đón tiếp nó. Trong Thánh lễ Hiệp thông người ta cũng tuân theo nguyên tắc ấy; bất cứ nhà thần nhãn nào khi quan sát buổi lễ đều thấy ánh sáng lóe lên tiếp theo sau thần chú hiến tế, ánh sáng ấy chói rực khắp nhà thờ và tín đồ đắm mình trong ánh sáng đó; người nào thực sự sùng tín sẽ chiếm hữu được và rút được ánh sáng ấy; chính vì truyền thống về “sự Hiện diện chân thực” này của đạo binh thiên thần cho nên Giáo hội Công giáo La Mã mới duy trì nó và nhờ đó mà quả thật thường xuyên tỏa ra một sự ban phúc.
Các nghi lễ để trợ giúp những người quá cố (cái gọi là người chết) cũng đều dựa trên sự hiểu biết các sự thật thuộc cõi trung ấm (the intermediate world) mặc dù những người dự lễ ngày nay biết rất ít về ảnh hưởng thực sự của nó đối với những người dự lễ. Bổn phận của mọi tín đồ Ấn giáo là hằng ngày phải cầu nguyện và tham thiền với mục đích thu rút xuống và ban ra xung quanh cái ảnh hưởng của hồng ân thiêng liêng, lôi kéo Chư thiên – đội thừa tác viên Thiên thần – ban phúc cho môi trường xung quanh đối với chúng sinh thuộc giới nhân loại, giới động vật và giới thực vật.
Người hiện đại bình thường ngày nay trên thế giới coi tất cả những điều ấy là “mê tín dị đoan”. Thế nhưng vì cõi vô hình thấm nhuần và bao xung quanh cõi hữu hình cho nên đâu có gì phi lý khi cõi vô hình tác động lên cõi hữu hình. Vào cuối thế kỷ thứ 18, người ta coi là điều mê tín dị đoan khi ai đó tin rằng có một lực làm cho chân ếch co giật khi mắc vào sợi dây; người ta cười nhạo Galvani khi ông chăm chú quan sát chân ếch nhảy múa trong lúc chúng chờ đợi bị bỏ vào chảo để chiên và người ta gọi ông là “vũ sư của loài ếch”. Tuy nhiên dòng điện sinh học một chiều đã nối liền các châu lục lại với nhau. Nhiều điều “mê tín dị đoan” lại chỉ đường soi lối cho việc phát hiện ra các lực mà người thường chưa biết. Kẻ khôn ngoan cứ quan sát và khảo cứu và sau khi nghiên cứu kỹ mới bác bỏ.


TIẾT II

THÔNG THIÊN HỌC VỚI VAI TRÒ
LÀ ĐẠO ĐỨC VÀ NGHỆ THUẬT

Người ta đã định nghĩa đạo đức rất hay ho là: “Khoa học về những mối quan hệ hài hòa giữa mọi sinh linh” (Sách Giáo khoa Sanātana Dharma, Phần III, Luân lý). Các định luật đạo đức cũng giống như các định luật Thiên nhiên về mặt ảnh hưởng tới các hiện tượng trên cõi trần; ta phải mưu tìm chúng theo một phương cách cũng vất vả như vậy và phải xác lập chúng cũng bằng những phương pháp như thế. Cũng giống như các nhà lập pháp thời xưa chế định phép vệ sinh thể xác là một bộ phận của tôn giáo. [Chẳng hạn như trong luật Bàn Cổ và luật của thánh Moses]; cũng vậy, họ cũng chế định phép vệ sinh đạo đức. Cả hai phép vệ sinh ấy đều được tín đồ chấp nhận là một phần của “sự khải huyền”, nhưng cả hai đều dựa trên những sự thật trong Thiên nhiên mà những người tiến hóa cao đã biết còn dân chúng thì chưa biết.


KHÍA CẠNH SỰ SỐNG CỦA ĐẠO ĐỨC

Ta đã thấy rằng một phần của Thông Thiên Học có giảng dạy về Sự Sống bản thể nhất như hiện diện khắp mọi nơi; Đạo đức vốn dựa vào sự thật này. Làm hại cho người khác chính là làm hại bản thân, vì mỗi người là một bộ phận của một tổng thể đơn nhất. Khi chất độc có thể được đưa vào cơ thể qua bất cứ bộ phận nào của nó thì cơ thể nói chung bị ngộ độc, và mọi cơ quan sống của cơ thể đều bị hại do một cơ quan nào đó bị hại. Sự Sống nhất như này biểu hiện qua vạn vật nơi việc mưu tìm hạnh phúc ở mọi lúc mọi nơi không trừ ngoại lệ nào; Sự Sống bản thể mưu cầu hạnh phúc và nó không tự nguyện chịu đau khổ nếu như đó không phải là con đường dẫn tới một sự hoan lạc thấm thía và bền vững hơn.
Chẳng ai mưu cầu sự đau khổ vô ích chỉ cốt để đau khổ thôi; người ta chỉ chịu đựng đau khổ coi đó là phương tiện dẫn tới cứu cánh. Mọi tôn giáo đều công nhận Thượng Đế là Cực lạc vô lượng và mọi tôn giáo đều mưu tìm sự hiệp nhất với Thượng Đế nghĩa là sự Cực lạc toàn bích. Vì con người vốn thiêng liêng cho nên bản chất của Chơn nhơn cơ bản là cực lạc; vì vậy y chấp nhận hạnh phúc là đương nhiên và việc hạnh phúc đến với y được coi như không cần biện minh; y chẳng bao giờ thắc mắc: “Tại sao tôi lại được vui sướng như thế?” Nhưng bản chất của y ắt nổi loạn chống lại sự đau khổ, coi đó là thiếu tự nhiên và cần được biện minh; theo bản năng thì y thường thắc mắc: “Tại sao tôi lại đau khổ như vậy?” Mục đích của Sự Sống là Cực lạc bền bỉ, thấm thía, không bị quấy nhiễu; hoàn toàn thỏa mãn được mọi bộ phận của bản thể. Cái bóng ma chập chờn của khoái lạc trần gian thường bị hiểu lầm coi là tia sáng rực rỡ của Mặt trời Cực lạc, để rồi phàm nhơn chịu đau khổ và qua đó học hỏi.
“Đó là vì Thượng Đế có một Thiên cơ và Thiên cơ ấy là tiến hóa”. [Dưới Chơn Thầy của J. Krishnamurti tức Alcyone, trang 7]. Nếu bộ phận mưu toan chống lại tổng thể thì nó phải chịu đau khổ và mọi đau khổ của loài người là do họ vô minh về bản chất của chính mình, do coi thường (vì vô minh) những định luật của Thiên nhiên mà mình sống trong lòng Thiên nhiên ấy.


ĐÚNG VÀ SAI

Nếu Thiên cơ là tiến hóa thì ta có thể có được một tiêu chuẩn xác định về Đúng và Sai. Nhà Khoa học ắt bảo rằng: Điều gì trợ giúp cho sự tiến hóa là Đúng, điều gì ngăn cản sự tiến hóa là Sai. Nhà tôn giáo ắt bảo rằng: Điều gì thuận theo thiên ý là Đúng, điều gì nghịch lại thiên ý là Sai. Cả hai đều đang phát biểu cùng một ý tưởng vì thiên ý là tiến hóa.
Khi nghiên cứu về tiến hóa, ta thấy nửa đầu tiên của nó đã được triển khai qua việc càng ngày càng chia cách – mục tiêu là tạo ra sự Cá biệt; ta thấy rằng giờ đây khi bắt đầu nửa thứ nhì thì ta đang tiến về sự tích hợp, những điều Cá biệt ấy thành ra Đơn nhất. Người Ấn gọi quá trình này là Con đường Nhất bổn tán Vạn thù và Vạn thù qui Nhất bổn, không còn một danh xưng nào diễn tả hay hơn thế. Bản năng sâu kín nhất của con người biểu lộ qua những người tiến hóa nhất trong nhân loại – bản năng là Tiếng nói của Sự Sống bản thể - giờ đây ta đang mưu cầu Tình Huynh đệ mà phía bên kia phương tiện ấy là cứu cánh Đơn nhất tức việc xây dựng nhiều bộ phận thành ra một tổng thể toàn bích. Vì thế cho nên mọi điều dẫn tới sự đơn nhất là Đúng, mọi điều đi ngược lại sự đơn nhất là Sai.


CÁC XÚC ĐỘNG VÀ ĐỨC TÍNH

Bước kế tiếp cho thấy Hạnh phúc có bản chất là một Xúc cảm; đó là do có một ý thức gia tăng sự sống nơi bản thể chúng ta; ta thấy hạnh phúc khi sự sống bản thể của ta tăng trưởng, khi nó trở nên nhiều hơn; ta thấy đau khổ khi sự sống bản thể của ta suy giảm, khi nó trở nên ít hơn.
[Xét về trọn cả đề tài này, không có một tác phẩm nào hay hơn quyển Khoa học về Xúc động của Bhagavān Dās, một tác giả Thông Thiên Học nổi tiếng].
Yêu thương mang lại sự hiệp nhất, do đó nhiều hơn; thù ghét gây ra sự chia ly, do đó ít hơn. Ở đây ta có hai Xúc động Căn bản là Yêu thương và Thù ghét, cả hai đều biểu hiện Dục vọng – là biểu lộ của khía cạnh cõi Ý chí – mà ta thấy thể hiện trên khắp thế giới thành ra lực Hút và lực Đẩy, Đấng Kiến tạo và Đấng Hủy diệt các vũ trụ, thái dương hệ và thế giới cũng như các quốc gia, gia đình và cá nhân. Mọi Đức tính và Thói xấu đều bắt nguồn từ hai Xúc động Căn bản này; mọi Đức tính đều là một biểu hiện của Thương yêu đã trở nên phổ quát hóa và được xác lập bởi đúng lý thành ra một phương thức thường xuyên của tâm thức; mọi Thói xấu đều là một biểu hiện của Thù ghét đã được phổ quát hóa và được xác lập bởi tà lý thành ra một phương thức thường xuyên của ý thức; ta đã định nghĩa được “đúng” và “sai”.
Ta sẽ tức khắc hiểu được điều này qua một sự minh họa rút ra từ gia đình; ta có thể giả định rằng mỗi người trong chúng ta, nơi Xã hội cũng như trong gia đình, đều được bao quanh bởi ba và chỉ ba lớp người thôi; lớp thượng cấp, lớp ngang hàng và lớp hạ cấp; y có quan hệ với mỗi một lớp người ấy. Trong một gia đình hạnh phúc, Tình thương hợp nhất mọi thành viên lại; Tình thương đối với người gia trưởng là xúc cảm kính mến; Tình thương đối với các anh chị em là xúc cảm luyến ái; còn Tình thương đối với nhóm người tùy thuộc vào mình là xúc cảm lòng tốt.
Ba xúc cảm này tự phát tạo ra được một gia đình “hạnh phúc”, trong gia đình ấy xúc cảm “đúng đắn” chiếm ưu thế và “tình thương đã làm tròn được thiên luật”. Khi Tình thương ngự trị thì không cần tới luật lệ nữa. Bên ngoài gia đình, khi con người bước vào giao thiệp với công chúng thì thái độ mà y tự phát thể hiện nơi gia đình là Tình thương ắt phải được mô phòng nơi ngoại giới qua Đức tính. Đối với cấp trên, chẳng hạn như Thượng Đế, ông Vua, người già; thì xúc cảm Yêu thương dưới dạng kính mến trở thành Đức tính Kính trọng.
Sự Vâng lời, Trung thành, Tôn kính v.v. . . mọi thái độ cố định của tâm trí hoặc mọi phương thức nhận biết thường xuyên đối với người khác cho dù họ là ai đi chăng nữa khi họ được công nhận là cấp trên đối với mình về mặt tâm linh, trí thức, đ
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:39 am


Sự Vâng lời, Trung thành, Tôn kính v.v. . . mọi thái độ cố định của tâm trí hoặc mọi phương thức nhận biết thường xuyên đối với người khác cho dù họ là ai đi chăng nữa khi họ được công nhận là cấp trên đối với mình về mặt tâm linh, trí thức, đạo đức, xã hội, tuổi tác. Đối với những người ngang hàng với mình thì xúc cảm Yêu thương dưới dạng luyến ái trở thành Đức tính Trọng vọng, Lịch sự, Công bình, Thân hữu, Ưa giúp đỡ v.v. . . đó cũng là những thái độ cố định của tâm trí đối với mọi người cũng giống như trước. Đối với những hạ cấp của mình thì xúc cảm Yêu thương dưới dạng lòng tốt trở thành Đức tính Che chở, Tử tế, Niềm nở, Sẵn sàng giúp đỡ ân cần và chia ngọt xẻ bùi v.v. . . Một khi ta lĩnh hội được nguyên tắc này thì môn sinh có thể đạt được vô số ứng dụng. Sự Thù ghét với ba phân bộ chính của sợ hãi; Kiêu căng và Khinh bỉ cũng có thể được bàn luận tương tự.
Mỗi người sống trong xã hội do chính sự kiện mình sống trong đó tất yếu phải có liên quan tới mọi người xung quanh mình; và điều này khiến cho y trở thành trung tâm của một mạng lưới các nghĩa vụ và bổn phận, đối xử tử tế với mỗi người có liên quan tới mình thì y là một người “tốt” và là một cội nguồn của sự thống nhất xã hội; còn không chịu thực hiện nghĩa vụ thì y là một người “xấu” và là nguồn gốc của sự phân ly trong xã hội. Vì thế cho nên biết Phận sự và làm phận sự là điều thiện, còn biết phận sự theo trực giác và làm một cách hồn nhiên là toàn bích.
Trong khi Sự Sống bản thể biểu hiện thành Tình thương về phương diện xúc cảm thì xét về mặt trí thức nó lại là Chân lý. Chính vì không hiểu được điều này cho nên người ta mới tranh cãi liệu Tình thương hay Chân lý sẽ là nền tảng của đạo đức. Nhưng xét về bản thể thì chúng chỉ là một vì Sự Sống vốn nhất như. Bhisma, là một bậc thầy về Thiên chức, có bảo rằng các đức tính là “những hình thức của Chân lý” và điều này chắc chắn đúng như vậy; Chân lý là nền tảng của tính tình xét theo trí thức, cũng như Tình thương là nền tảng của tính tình xét về đạo đức. Bởi vì Tình thương đòi hỏi phải có sự hiện diện của người khác thì nó mới biểu hiện ra được trong khi Chân lý không cần điều đó; cho nên Tình thương tự nhiên là chi phối khoa học về mối quan hệ hài hòa với những người khác và như vậy nó nở hoa thành đức tính. Ki Tô hữu nói: “Thiên Chúa là Tình thương”; tín đồ Ấn giáo bảo: “Brahman là Chân lý”. Cả hai đều nói lên cùng một sự thật; khi nhìn từ bên dưới thì Tình thương và Chân lý có thể khác nhau, nhưng khi quan sát từ bên trên thì chúng chỉ là một.


LÝ DO TỒN TẠI CỦA CÁC HUẤN ĐIỀU ĐẠO ĐỨC

Các bậc Đạo sư của loài người đã phát biểu thành công thức một vài huấn điều luân lý phổ quát, chẳng hạn như: “Làm lợi cho người khác là đúng, làm hại cho người khác là sai”. “Hãy làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình; không làm những gì mình không muốn họ làm cho mình”. “Hãy yêu thương nhau”. “Thiên Chúa có đòi hỏi bạn điều gì đâu ngoại trừ việc hãy sống công chính, ưa làm việc từ thiện và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa”. [Ta có thể tìm được phần lớn những đoạn trích dẫn từ Kinh điển của các tôn giáo lớn trong Sách giáo khoa phổ quát về Tôn giáo và Đạo đức, phần 2]. Mọi giáo huấn đạo đức được linh hứng theo tinh thần ấy đều là một phần của Minh triết Thiêng liêng tức Thông Thiên Học. Ta không cần phải biện minh chúng đối với tâm trí vì hiển nhiên là chúng có khuynh hướng mang lại hạnh phúc.
Nhưng ta phải minh giải nhiều hơn về lý do tồn tại của những huấn điều kém hiển nhiên hơn trong Thông Thiên Học; chẳng hạn như thoạt nhìn thì lấy đức báo oán thì không hợp lý. Khổng tử thắc mắc: “Nếu thế thì ta lấy gì để báo đức?”. Nhưng điều này cũng đúng thôi. Chúng ta đã thấy rằng những sự thay đổi trong tâm thức đều có kèm theo những rung động của vật chất và những rung động ấy lại được mô phỏng đồng cảm nơi các cơ thể lân cận. Nếu một người cảm thấy giận dữ, ngã lòng hoặc ưa báo oán thì thể vía của y sẽ rung động đồng thanh với tâm trạng của y. Thể vía của bất cứ người nào đến gần y cũng bị tác động bởi những rung động ấy và nó sẽ bắt đầu rung động cùng nhịp với các rung động kia, thế là những rung động này khiến cho người thứ nhì cũng có thể cảm thấy giận dữ, ngã lòng hoặc ưa báo oán theo người thứ nhất. Vậy là y làm cho những rung động trong thể vía mình được tăng cường rồi củng cố chúng bằng cách đáp trả lại cho người thứ nhất; cái sự trao đổi rung động này cứ tiếp diễn thật chết người chỉ làm tăng thêm điều ác.
Nhưng nếu người thứ nhì hiểu được thiên luật và dùng ý chí khống chế thể vía của mình, ngăn cản không cho nó mô phỏng các rung động tác động lên nó; hơn nữa y còn tác động lên nó một tập hợp các rung động ngược lại, những rung động đi kèm theo xúc cảm dịu dàng, hoan hỉ hoặc tha thứ, thì y sẽ làm yên lặng những rung động do xúc cảm ác gây ra. Và bây giờ y lại biến nó thành điều đối nghịch. Vì vậy Đức Phật có dạy: “Dĩ oán báo oán không bao giờ hết oán, chỉ có tình thương mới làm hết oán thù”. Điều này cũng chắc chắn giống như một tia sáng màu đỏ hóa giải một tia sáng màu xanh lục chỉ để lại sự im lặng, tức là không có rung động của ánh sáng. Đây là một định luật Thiên nhiên mà ta có thể dễ dàng kiểm chứng lại bằng thực nghiệm. Nếu ta tuân theo định luật này, nghĩa là thay thế một mối quan hệ bất hòa bằng một mối quan hệ hài hòa thì đó âu cũng là đạo đức vậy.
Thông Thiên Học xác nhận những huấn điều phổ quát của các Đại sư là một pháp điển và nghiên cứu chúng có lý do tồn tại hợp khoa học như nêu trên; về mặt lịch sử, chúng đã để lại những hiệu quả đối với sự tiến hóa và hạnh phúc của loài người. Thông Thiên Học kiểm chứng được sự thật ấy qua những tai họa nảy sinh vì người ta lơ là với những huấn điều ấy, và nếu tuân thủ chúng thì sẽ được an toàn và thoải mái cho dù việc tuân thủ ấy chưa bao giờ đạt được quá mức một phần, ngoại trừ những gương mà các bậc Đại sư đã nêu ra. Vì vậy đạo đức của Thông Thiên Học mang tính chất chiết trung; trong vườn hoa thế giới nó hái những đóa hoa thơm ngát và đẹp nhất mà các Đại sư đã gieo trồng rồi buộc chúng lại thành một bó hoa tuyệt đẹp được gọi là “Thông Thiên Học với vai trò là đạo đức”.


CÁC LÝ TƯỞNG

Để gây cảm hứng cho các Thông Thiên Học giả hành xử theo đạo đức, Thông Thiên Học nêu ra các bậc Đại sư là những Tấm gương, từ đó trau dồi lý tưởng đạo đức và thực hành tham thiền. Lý tưởng là sự tổng hợp các ý tưởng chân chính cố định với mục đích trở thành đối tượng để suy tư chăm chú và bền bỉ nhờ thế mà ảnh hưởng tới hạnh kiểm. Theo luật của tư tưởng – mà ta sẽ bàn ở Tiết III – tư tưởng như thế có tác dụng biến người tư tưởng thành ra giống như lý tưởng và nhờ vậy xây dựng được tính tình cao thượng. Đi theo đường lối tiến hóa đạo đức này các nhà Thông Thiên Học tìm cách dẫn dắt mọi người tầm đạo “không tin vào luật lệ của những điều răn theo xác thịt mà tin vào quyền năng của sự sống đời đời”. Chúng ta ngước mắt nhìn đăm đăm lên các Đại sư Thế giới (đấng Chưởng giáo) và tìm cách sống sao cho một tia sáng chói đạo đức của các ngài có thể được thực hiện nơi bản thân ta và trong mức độ khiêm tốn của mình ta có thể soi sáng cho thế giới vô minh.


KHÍA CẠNH HÌNH THỨC CỦA NGHỆ THUẬT

Trong thế giới thời xưa, điều Mỹ lệ được đặt ngang hàng với Chân và Thiện, và cuộc sống của loài người trở nên tốt đẹp nhờ biết tôn trọng Vẻ đẹp. Pythagore nói Nghệ thuật tạo ra “sự khác nhau giữa kẻ dã man và người có văn hóa”; Nghệ thuật và Văn chương thuần túy là những phương tiện của văn hóa; chúng đánh bóng cho tảng đá sau khi Khoa học và Triết học đã đẽo gọt được sản phẩm thô từ mỏ đá thành ra hình dạng một viên đá. Ở xa hơn về phương Đông so với Hi lạp, Mỹ thuật cũng giữ một địa vị tương tự trong nền văn minh nhân loại chẳng hạn như ở Ai cập và nền văn minh Atlantis thuộc Châu Mỹ La tinh.
Thật ra mãi cho tới thế kỷ 19 chưa có một nền văn minh nào mà thế giới đã từng biết đến lại coi điều Mỹ lệ là một sự xa xỉ dành cho giới giàu sang thay vì phổ biến nó sâu rộng trong quãng đại quần chúng, coi đó là một trong những điều nhu yếu bình thường cho sinh hoạt đàng hoàng của loài người. Ở hầu hết mọi xứ Âu Tây thì nghệ thuật và thủ công nghiệp của giới nông dân hầu như đã bị diệt vong, quần áo của họ vốn thích đáng và đứng đắn đã bị lỗi thời để bị thay đổi bằng những sự mô phỏng khốn khổ theo các thời trang lố lăng được chế ra ở Paris và Luân đôn.
Hậu quả là giai cấp lao động tay chân đã hoàn toàn bị dung tục hóa, đã mất đi óc thẩm mỹ bẩm sinh – những công trình nghệ nhân được thực hiện vào những giờ rảnh rổi để làm thú tiêu khiển trong quá khứ đã hùng hồn chứng minh cho điều ấy – và khi đánh mất óc thẩm mỹ đó thì họ đã trở nên thô tục và cư xử vụng về một cách đáng thương. Việc lan tràn cái thói xấu của văn minh cũng đe dọa vẻ Mỹ lệ còn sót lại trên thế giới qua đời sống bình thường của miền Viễn đông; sự thay đổi mang tính cách phá hoại ấy có thể được tổng kết chỉ nội qua một sự kiện là cái thùng dầu lửa đã xài hết hiện nay thế chỗ cho cái bình chứa bằng sành sứ hoặc đồng thau được tạo tác rất công phu để cho người ta gánh nước từ giếng về nhà.
Khi một cô gái quê đang đội trên đầu cái thùng thiếc tàn bạo ấy, lại bỏ luôn cả cái xà rông thướt tha của mình được nhuộm tuyệt hảo bằng màu thực vật để khoác lấy cái váy kệch cỡm được nhuộm bằng chất aniline và cái áo blouse của phương Tây thì cô đã hoàn tất việc dung tục hóa chính mình và nền văn minh phương Tây đã đắc thắng.


SỰ MỸ LỆ ĐƯỢC COI LÀ ĐỊNH LUẬT CỦA SỰ BIỂU LỘ

Theo quan điểm của Thông Thiên Học thì óc Thẩm mỹ là một bộ phận vô giá của bản chất xúc cảm và óc thẩm mỹ đối với xúc cảm cũng giống như Chân lý đối với Trí năng và điều Thiện đối với Trực giác; Thông Thiên Học coi Mỹ lệ là Định luật của sự Biểu lộ mà mọi vật đều phải tuân theo. Sự Xấu xí vốn phản Thiên nhiên, thiếu tự nhiên và không thể dung thứ được. Thiên nhiên bao giờ cũng tốt phơi ra xấu che đi để còn biến hóa cái xấu. Nó che đi mọi điều Xấu xí bằng cái kho Mỹ lệ phong phú của mình; nó trồng cây leo trên một đống xỉ thép bị bỏ mặc, nó trang trí một cái tường bị nứt bằng những cành leo kim ngân hoa, vắt vẻo trên đó là một tràng hoa hồng khoe sắc; nó trồng những dây đổng thảo ngát hương thơm nơi cái rãnh bên vệ đường và phủ một lớp bạch đầu ông cùng với hoa dạ hương lan dại trên những nơi còn bỏ trống trong khu rừng. Qua muôn vàn tiếng nói, nó rao giảng sự Mỹ lệ là điều kiện cốt yếu của đấng thiêng liêng và do đó mọi công trình được hoàn chỉnh.
Tôn giáo xưa nay đều là mẹ nuôi của nghệ thuật, tín ngưỡng Ai cập đã cung cấp cho thế giới Philæ [Nền văn minh hiện đại đã làm cho nó chìm xuống]; Ấn Độ giáo cung cấp các đền thờ hùng vĩ Madura và Chidambaran; Hi lạp cung cấp đền thờ Chư thần và nhiều viên ngọc quí khác nữa; Hồi giáo cung cấp Alhambra, đền thờ Hồi giáo bằng ngọc trai và đền Taj Mahal; Ki Tô giáo cung cấp các nhà thờ chính cao siêu theo nghệ thuật gô tích; chứ đừng nói tới âm nhạc, hội họa, điêu khắc, thuật hùng biện đã từng làm vinh danh cuộc sống của con người. Ta không thể nghĩ tới nghệ thuật nếu không có tôn giáo; người ta đã chế ra khoa kiến trúc hoành tráng nhất để dùng cho các đền thờ và mọi dinh thự khác đều lấy đó làm mô hình. Nếu nghệ thuật bị suy vong thì đó là vì tôn giáo đã tách rời khỏi sinh hoạt bình thường, cho nên khi không còn được linh hứng thì Nghệ thuật đâm ra mang tính bắt chước thay vì là sáng tạo. Sức thôi thúc mới của Thông Thiên Học sẽ khiến cho Nghệ thuật lại nở hoa và hương thơm ngào ngạt của nó đã được ngọn gió hiu hiu từ tương lai thổi tới.


SÁNG TẠO CHỨ KHÔNG BẮT CHƯỚC

Theo quan điểm của Thông Thiên Học thì cho dù hoàn chỉnh và thú vị đến đâu đi chăng nữa, bắt chước vẫn không phải là Nghệ thuật tối thượng. Các tinh linh thiên nhiên và các Thiên thần cấp thấp kiến tạo nên hình tướng từ vật chất đã thấm nhuần Sự Sống của Thượng Đế; họ kiến tạo vật chất xung quanh hình tư tưởng của Ngài để thể hiện ý tưởng của Ngài. Khi nhìn vào một đóa hoa xinh đẹp, loài người chúng ta có thể thấy được một chút tư tưởng thiêng liêng trong đó nhiều hơn mức loài tinh linh thiên nhiên kém tiến hóa có thể thấy và thể hiện được. Nhưng Nghệ sĩ còn có thể thấy được nhiều hơn chúng ta, y thấy được tư tưởng đa diện mà hình tướng của đóa hoa chỉ là một khía cạnh; y thấy được lý tưởng và đó là điều mà ta yêu cầu y chỉ cho ta thấy. Rafaelle vẽ một thiếu phụ ẳm đứa con, ta đã từng thấy nhiều phụ nữ ẳm con mình. Nhưng người họa sĩ vẽ về đức thánh mẫu Madonna đã thấy một người Mẹ và một đứa Con lý tưởng; Mẹ thì vô cùng âu yếm che chở cho con, Con thì hết sức chất phác, ngây thơ, cực kỳ ngoan ngoãn.
Ông không chỉ thấy một bà mẹ và một đứa con mà là thấy Tình Mẫu tử, cái sự toàn bích vĩnh hằng của Ý tưởng đó cho nên ông mới vẽ nó ra để cho mọi thế hệ sau này phải lấy làm cảm kích và ngưỡng mộ. Và những kẻ mù quáng như chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy Đức Mẹ Madonna và Chúa hài đồng nơi mọi bà mẹ và đứa con, trọn cả thế giới này tốt đẹp hơn chính nhờ Rafaelle đã sống và thấy được điều đó.
Nếu Thông Thiên Học không thể mang lại một nguồn cảm hứng mới cho Nghệ thuật thì nó đã phần nào thất bại trong mục đích của mình; vì vẻ đẹp là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để đẩy nhanh tiến hóa và sự hài hòa – nếu không có nó thì chẳng thể sống hạnh phúc – được biểu hiện một cách tự nhiên nhất qua Nghệ thuật. Sự hoàn hảo về hình tướng phải đi kèm theo sự hoàn hảo về tư tưởng.


TIẾT III

THÔNG THIÊN HỌC VỚI VAI TRÒ LÀ TRIẾT HỌC

Triết học là cách giải thích Cuộc Sống do Tâm trí kiến tạo nên và được trí năng chấp nhận là đúng sự thật. Nếu không có một lời giải thích thỏa mãn được lý trí thì con người vẫn cứ bồn chồn và bất mãn. Kẻ biết suy tư bị tra tấn vì không hiểu được cuộc sống, người ta không thể yên nghỉ giữa một cơn lốc xoáy các lực lượng và diễn biến sôi sục tình trạng hỗn mang làm cho các mảnh vụn cứ lung tung lên không thể ăn khớp vào nhau thành ra một tổng thể hữu lý. Cái Trí nôn nóng muốn có trật tự, sự liên tiếp, những mối quan hệ nhân quả, nhịp điệu nghiêm chỉnh của những sự vận động có chủ đích, hiện tại quan hệ với quá khứ và tương lai ra sao. Thông hiểu là bản năng sâu kín nhất của nơi Tâm trí Con người và trí người chẳng bao giờ thỏa mãn chừng nào nó chưa hiểu. Người ta có thể kiên nhẫn chịu đau khổ, kiên trì phấn đấu, nhẫn nhục một cách anh hùng nếu y cảm thấy bên trong mình có một chủ đích, nếu y nhìn thấy một mục tiêu trước mắt. Nhưng nếu y không thấy đường, không biết đâu là cứu cánh, bị những nguyên nhân mà mình không hiểu vùi dập, bị những lực lượng từ trong bóng tối ùa ra đập vào mình rồi lại một lần nữa chạy vào bóng tối, thì y có khuynh hướng bung ra nổi loạn một cách cuồng bạo và phí sức mình vào những cú đấm không có mục đích. Ajax khi chiến đấu trong bóng tối với lời cầu khẩn nhiệt thành chư Thần linh:
“Nếu số phận chúng con phải chết”,
Thì xin hãy cho con sáng mắt ra để được chết”;
đó là biểu tượng của loài người, phấn đấu trong đêm đen vô minh và cuồng nhiệt kêu gào bất cứ Thần linh nào có mặt nơi đó hãy cho mình sáng mắt ra mặc dù sáng mắt nghĩa là chết.


BA TIÊU CHUẨN CỦA TRIẾT HỌC

Loài người đã phấn đấu tìm hiểu các điều bí nhiệm của sự hiện hữu bằng cách tiếp cận chúng theo một trong ba quan điểm loại trừ lẫn nhau như sau:
[1] Tất cả đều bắt nguồn từ vật chất, tức Thực tại Hằng hữu Duy nhất; do năng lượng cố hữu của mình thực tại này tạo ra mọi hình tướng và thông qua các hình tướng tạo ra sự sống; trong bài diễn thuyết nổi tiếng ở Belfast, giáo sự Tyndall có nói, ta phải “thấy vật chất là điều hứa hẹn và là uy lực của mọi hình thức sống”. Tư tưởng là thành quả do hoạt động bày trí vật chất theo một kiểu nào đó; Karl Vogt có nói: “Bộ óc sản xuất ra tư tưởng cũng giống như gan tiết ra mật”. Khi hình tướng tan rã thì sự sống biến mất và thật là hoài công khi thắc mắc xem sự sống đang ở đâu; cũng như khi thắc mắc xem ngọn lửa ở đâu khi ngọn nến tắt phụt. Ngọn lửa chỉ là kết quả của sự cháy và khi không còn sự cháy nữa thì ngọn lửa tất nhiên cũng chẳng còn. Mọi triết lý duy vật đều được xây dựng trên căn bản này.
[2] Mọi thứ đều thoát thai từ Tinh thần, tâm trí thuần túy, Thực tại Hằng hữu Duy nhất; còn vật chất chỉ là sự sáng tạo của Tinh thần khi dấn thân vào việc suy tư. Thật ra không có vật chất, đó chỉ là ảo tưởng và nếu Tinh thần mà vươn lên vượt khỏi ảo tưởng này thì nó sẽ tự do, tự túc tự cấp, toàn năng. Nếu nó tưởng tượng là mình riêng rẽ thì nó sẽ riêng rẽ; nếu nó tưởng tượng ra các sự vật thì các sự vật sẽ vây xung quanh nó; nếu nó tưởng tượng ra đau khổ thì nó sẽ bị đau khổ; nếu nó tưởng tượng ra khoái lạc thì nó sẽ hưởng lạc. Nếu nó đắm chìm vào bản thân mình thì trọn cả vũ trụ sẽ mờ nhạt đi như một giấc mơ “chẳng để lại dấu vết gì”. Mọi triết lý duy tâm đều được xây dựng trên cơ sở này và đã triển khai nó đến mức ít nhiều rốt ráo.
[3] Tinh thần và Vật chất là hai khía cạnh của một Thực tại Hằng hữu Nhất như, vốn là Tổng thể cùng nhau phát sinh từ một Cội nguồn và trong khi biểu lộ hợp nhất không thể tách rời giống như hai mặt của một đồng tiền và đến lúc cuối chu kỳ biểu lộ chúng lại hòa lẫn vào Đấng Nhất Như. Nơi Tổng thể ấy tồn tại cùng một lúc mọi điều đã tồn tại, đang tồn tại và có thể tồn tại dưới dạng Hiện tại Vĩnh hằng Nhất như. Nơi cái Tổng thể viên dung này xuất phát ra một Diệu âm, tức Ngôi Lời, nghĩa là Thượng Đế tự biểu lộ ra. Ngôi Lời ấy tách ra khỏi Tổng thể những ý tưởng được tuyển chọn cho vũ trụ tương lai rồi bày chúng theo Ý chí của mình. Ngôi Lời dùng tư tưởng của chính mình để tự hạn chế lấy mình do đó tạo ra “Vòng Giới Hạn” (Ring-Pass-Not) của vũ trụ hiện hữu cho dù đó là một Thái dương hệ, một tập đoàn Thái dương hệ hoặc một tập đoàn của các tập đoàn Thái dương hệ v.v. . . Trong nội bộ Vòng Giới Hạn ấy có các Ý tưởng, sự Vận động không ngừng đời đời sinh ra vốn là Sự Sống Nhất Như ở bên trong sự đứng im vốn là đối cực của nó và nâng đỡ nó. Vận động là Cội rễ của Tinh thần, khi hiển hiện thì đó là Thời gian tức sự thay đổi trong tâm thức; đứng im là Cội rễ của vật chất, là “Hỗn nguyên khí” hiện diện khắp nơi, bất động, nâng đỡ tất cả, thấm nhuần tất cả và khi hiển hiện ra thì đó là Không gian. Mọi triết lý Thông Thiên Học đều được xây dựng trên cơ sở này khi Tinh thần và Vật chất được coi là hai khía cạnh biểu lộ trong Không gian và Thời gian của Đấng Tuyệt đối Nhất như.
Phương pháp nêu ra các sự thật này khác nhau rất nhiều tùy theo những nhà tư tưởng. H. P. Blavatsky đã mạnh mẽ trình bày chúng nơi phần mở đầu của tác phẩm Giáo Lý Bí Truyền nhưng dùng một ngôn từ khá mơ hồ. Bhagavān Dās cũng phát biểu một cách sâu sắc và đặc biệt sáng sủa về chúng trong tác phẩm Khoa học về sự Thái bình, trong đó ông nêu vấn đề Ngã, phi Ngã – tức Tinh thần và Vật chất – cùng với mối quan hệ giữa chúng hợp thành Tam vị Nhất thể vĩ đại, là Tột đỉnh của Tư tưởng để rồi đổ sụp vào thành ra Nhất Như.


BA NGÔI

Ngôi Lời biểu lộ trong vũ trụ hoặc hệ thống của mình qua Ba Ngôi – Tam vị Nhất thể trong Ki Tô giáo – đó là Ý chí, Minh triết (tức Trí thức-Tình thương) và Sáng tạo (tức Hoạt động). Chơn thần người là một mảnh của Thủy tổ thiêng liêng cho nên cũng mô phỏng ba ngôi này nơi bản thân, biểu lộ thành Con người trên cương vị là Tinh thần. Vì thế cho nên Ý chí tâm linh của con người (vốn là một phần của Ý chí nhất như) là một Quyền năng vô địch khi Tinh thần đã hiệp nhất được với Ngôi Lời. Vì thế cho nên đối với Minh triết tâm linh của con người thì không một điều gì trong Thiên nhiên có thể bị che giấu đi được. Vì thế cho nên nhờ sự Sáng tạo tâm linh của con người, người ta có thể thành tựu được mọi thứ.
Chính cái khía cạnh Sáng tạo này nơi Ba Ngôi của con người có thể xây dựng nên mọi thứ mà Minh triết có thể quan niệm được và mọi thứ mà Ý chí xác định được. Với vai trò là trí năng trong các cõi tinh vi cũng như là Hạ trí trong cõi thấp, nó vươn ra khỏi vũ trụ để tìm hiểu. Nhờ vào nó (bản chất nó là tri thức) Chơn nhơn mới biết được mọi thứ bên ngoài mình tức là “Phi Ngã” theo cách nói của Ấn Độ. Ta đã thấy rằng nhờ sử dụng các hạ thể, Chơn nhơn có thể biết được vũ trụ ngoại giới và tâm thức có thể biết được môi trường xung quanh; nói theo cách nói của Myer thì khi bắt đầu bằng tri thức trên trái đất với tư cách là tâm thức hành tinh, nó có thể vươn ra tri thức về vũ trụ với tư cách là tâm thức vũ trụ.
Lý trí đòi hỏi đây là một sự thật thiết yếu chẳng những vì mọi thiên tài vĩ đại về tâm linh đều chứng nhận điều đó mà còn vì trong tâm thức hành tinh có những diễn biến không thể hiểu nổi, không có nguyên nhân và chẳng biết dùng làm gì nếu không có một tâm thức vũ trụ tỏa sáng xuống tâm thức hành tinh để cho tâm thức hành tinh hướng lên nó. Tôn giáo, Nghệ thuật, Tình thương xả thân vị kỷ (chúng được gọi như vậy) đều chỉ là những bán thành phẩm và những chuyện điên rồ nếu ta chỉ là những muỗi mòng phù du sống một ngày, nhảy múa dưới ánh mặt trời để rồi bị cơn bão quét cho tan tác; nếu ta xây dựng các nền văn minh cực nhọc và đau khổ xiết bao để rồi chúng bị hủy hoại, nếu mọi thứ được để lại thành ra một sử liệu lờ mờ về loài người sống trên một hành tinh băng giá quay cuồng trong vũ trụ cho đến khi tan tác thì cái công trình lao động mệt nhọc vô mục đích ấy rồi sẽ được đổi mới vì các thành quả của nó chẳng bao giờ bị hủy diệt. Theo triết lý của Thông Thiên Học thì Chơn thần là một Đấng thông tuệ tâm linh vĩnh hằng có gốc rễ nơi Thượng Đế và hằng hà sa số hoạt động của nó đã phát triển được các quyền năng cố hữu của riêng mình mà không ai có thể tiêu diệt được trừ phi đích thân y vứt chúng đi không còn dùng tới nữa; và ngay cả khi đó thì chúng ta vẫn còn trong Ký ức Vĩnh hằng.
Đối với một Thực thể như vậy thì các vũ trụ chẳng qua chỉ là những đồ chơi để giáo huấn, phục vụ cho việc dạy dỗ y và chúng có tan ra thành mảnh vụn thì cũng chẳng làm xao xuyến sự bình tâm thanh thản của y, vì chúng chỉ là phương tiện để đạt tới cứu cánh. Vũ trụ mà giống như cái cối xay khổ sai không nghiền được cái gì thì chỉ khiến cho đời là gánh nặng, là một sự trừng phạt miên viễn khiến cho ta thậm chí phải áp đặt lên một gánh nặng mà người ta có thể cất đi nhờ vào sự tội nghiệp hoặc nhờ vào sự khoan hồng của một phán quan mà người ta có thể xin kháng án nhằm giảm nhẹ hình phạt. Thông Thiên Học coi Chơn nhơn là một Quyền năng đang biểu hiện, đi từ sức mạnh này sang sức mạnh khác, có sai lầm thì mới học hỏi được, có đau khổ thì mới đâm ra kiên cường, đó là một Sự Sống khải hoàn, huy hoàng, hỉ lạc mà “sự tăng trưởng và rực rỡ thật là vô lượng”.
Cũng như mọi thứ khác, xét về mặt triết học, Chơn nhơn bao gồm hai yếu tố Tinh thần và Vật chất. Theo quan điểm triết học thì đủ thứ hạ thể mà Khoa học huyền bí miêu tả chính là lớp vỏ vật chất của nó. Toàn bộ chúng chỉ là Cơ thể của nó. Chơn nhơn là một Đấng thông tuệ tâm linh ngự trong một Cơ thể. Thành phần cấu tạo của phần sắc tướng này – các dạng vật chất vật lý, xúc động, tâm trí, trí tuệ, trực giác, tinh thần – cũng liên quan tới việc nghiên cứu chẳng khác gì chất đặc, chất lỏng, chất hơi và chất dĩ thái cấu thành thể xác của con người.


QUYỀN NĂNG CỦA TƯ TƯỞNG

Tư tưởng là sự biểu lộ của tính Sáng tạo, là Ngôi Ba trong ba Ngôi của con người; triết lý Thông Thiên Học ứng dụng nó để đẩy nhanh sự tiến hóa của con người. Ở phương Đông, cái được gọi là khoa Yoga chính là việc ứng dụng những định luật tổng quát trong sự tiến hóa tâm trí để đẩy nhanh sự tiến hóa của một tâm thức đặc thù. Yoga có nghĩa là “hiệp nhất” và từ ngữ này được dùng để biểu thị sự hiệp nhất hữu thức của Chơn ngã đặc thù (tiểu ngã) với Chơn ngã vũ trụ (đại ngã) cùng với mọi nỗ lực đưa tới thành tựu ấy.
Phương pháp Yoga hoàn toàn mang tính khoa học, người ta biết được các định luật về sự tiến hóa tâm trí và trí tuệ nhờ vào việc quan sát, và dùng thí nghiệm để xác lập chúng. Người ta đã chứng tỏ và có thể chứng tỏ trở lại rằng tư tưởng khi tập trung chăm chú vào bất cứ ý tưởng nào, cũng đều xây dựng ý tưởng ấy thành ra tính tình của chủ thể tư tưởng và nhờ đó người ta có thể tạo ra nơi bản thân bất kỳ đức tính đáng mong muốn nào qua việc suy tư bền bỉ và chăm chú tức là tham thiền.
Chỉ cần cẩu thả suy nghĩ tới những ý tưởng và phẩm chất bất hảo thì cũng gây ra một nguy cơ có thực, tạo ra một khuynh hướng nhắm vào những điều bất hảo ấy và dẫn tới hành động thể hiện chúng. “Tác động” bao gồm ba phần: ham muốn quan niệm ra nó, tư tưởng hoạch định nó và hành vi cuối cùng thể hiện cả hai yếu tố kia. Vì thế cho nên hành vi cuối cùng thường được hoàn cảnh thuận lợi phóng hiện khi ham muốn đã đủ mạnh và tư tưởng đã phác họa đầy đủ được việc thi hành ham muốn. Tác động trong tâm trí có trước tác động trong thể chất, và khi người ta đeo đẳng tư tưởng về một ý thiện hoặc một ý ác thì y thấy mình sẽ thực hành ý đó nơi ngoại giới ngay cả trước khi y nhận thức được mình đang làm gì; khi cánh cổng cơ hội đã mở toang thì tác động tâm trí ùa ra thành hành động thể chất.
Hoạt động tâm trí tập trung có thể được điều khiển hướng về thể hạ trí, thể vía và thể xác, tái tạo cho chúng một phần năng lượng đáng kể tỉ lệ với sự kiên trì và sự tập trung mà ta vận dụng.
Mọi trường phái chửa bệnh - phái Khoa học Ki Tô và Khoa học Tâm trí – đều sử dụng tác nhân đầy quyền năng này để đạt được kết quả; công dụng của chúng tùy thuộc vào việc nhà thực hành có biết về thần lực mà mình đang sử dụng hay chăng cũng như biết môi trường mà mình sử dụng năng lực trong đó – môi trường này phần lớn là các cơ thể của bệnh nhân.
Vô số sự thành công chứng tỏ rằng thần lực được vận dụng là có tồn tại, còn những thất bại không chứng tỏ rằng chẳng hề tồn tại thần lực ấy mà chỉ chứng tỏ việc điều khiển nó là thiếu khôn khéo và không khơi dậy được đủ thần lực cho nhiệm vụ trước mắt. Triết lý Thông Thiên Học công nhận quyền năng của tư tưởng là Đấng Sáng tạo duy nhất, ta thấy nó hoạt động thông qua Cơ tiến hóa và hoạch định cho sự tiến hóa trong tâm thức con người một phương pháp đáng hâm mộ là Luân Hồi theo Luật Tác động và Phản tác động mà Đông phương gọi là Nhân Quả.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:41 am

LUÂN HỒI

Ta đã giải thích mục đích của Chơn nhơn khi chiếm dụng các hạ thể tức lâm phàm; ta đã thấy rằng ba thể cao của Chơn nhơn tạo thành lớp vỏ thường trụ của nó; các thể này tăng trưởng khi tâm thức của Chơn nhơn phát triển. Ta cũng thấy rằng ba hạ thể chỉ tạm bợ, tồn tại trong một chu kỳ sống nhất định mà Chơn nhơn trải qua trong ba cõi (cõi trần, cõi trung ấm và cõi thiên đường); khi y trở lại trần thế thì y chiếm dụng những hạ thể mới và đây chính là sự Luân Hồi. Điều này là tất yếu vì vật chất cấu thành các thế giới thấp vốn có mật độ tương đối lớn, các hạ thể được cấu tạo bằng vật chất ấy chỉ có thể tăng trưởng và bành trướng trong phạm vi nào đó eo hẹp hơn phạm vi của các thể tinh vi; khi vượt quá mức này do tâm thức thường xuyên bành trướng, các hạ thể không còn dẻo dai nữa và không dùng được nữa; vả lại khi thường xuyên bị căng thẳng và mòn mỏi thì chúng bị lão hóa.
Vào cuối một chu kỳ tăng trưởng khi tâm thức đã dứt khoát xác lập được một trình độ tiến hóa mới thì nó cần có những cơ thể mới được uốn nắn để biểu hiện các quyền năng đã được nâng cấp của nó. Nếu Thiên cơ không an bài điều này thì chúng ta chẳng khác nào những đứa trẻ mặc áo giáp bằng sắt, và cái áo ấy sẽ làm thui chột sự tăng trưởng của đứa trẻ vì nó không bành trướng được. Trẻ con “lớn nhanh như thổi so với quần áo” và chúng ta lại may cho chúng những bộ quần áo mới; bản thân của chúng ta cũng lớn nhanh hơn các hạ thể của mình và cha của chúng ta là Thượng Đế cũng ban cho chúng ta các hạ thể mới.
Phương pháp tương đối cũng đơn giản; một hạt giống tâm thức thiêng liêng được gieo trồng trong mảnh đất sinh hoạt đời người; nhờ mảnh đất ấy nuôi dưỡng tức là kinh nghiệm, được ánh sáng mặt trời (tức là niềm vui) kích thích, cơn mưa (tức là sự phiền não) làm cho tăng trưởng, hạt giống lớn nhanh lên nẩy mầm thành cái cây, đóa hoa và trái cho đến khi nó giống như cái cây đã sinh ra nó. Nếu trình bày mà không cần ẩn dụ thì: Tinh thần con người là một sự sống còn phôi thai nhập vào đứa trẻ sơ sinh còn dã man, nó hầu như chưa có trí thông minh, chưa có ý thức đạo đức; nó sống trong đó chừng 4 – 50 năm bị những sự ham muốn, sự cướp bóc, sự chém giết ngự trị để rồi cuối cùng bị giết chết.
Nó chuyển sang cõi trung ấm gặp nhiều kẻ thù cũ của mình, đau khổ và lờ mờ thấy rằng thể xác mình bị giết chết là hậu quả của việc mình giết chết người khác và nó đạt được một kết luận mơ hồ bất lợi cho việc chém giết; điều này được ghi khắc rất yếu ớt lên tâm thức của nó. Nó vui hưởng các thành quả của bất cứ tình thương ấu trĩ nào mà nó có thể cảm thấy; nó trở lại trần thế và hơi có chút ít hiểu biết hơn so với lần sinh ra đầu tiên. Điều này cứ được lập đi lập lại mãi cho đến khi nó dần dần nhưng dứt khoát đạt tới kết luận rằng sự chém giết và trộm cắp là một trong những tác động gây ra bất hạnh, còn tình thương và lòng tử tế mang lại hạnh phúc; thế là nó có được một lương tâm nhưng bất kỳ ham muốn mạnh mẽ nào đều dễ dàng đè bẹp lương tâm ấy.
Thời khoảng giữa hai lần sinh ra thoạt đầu rất ngắn nhưng nó dần dần dài ra khi quyền năng tư tưởng tăng lên, cho đến lúc việc luân hồi trong ba cõi đã được xác lập chính qui. Ở cõi thứ nhất tức là cõi trần, nó thu lượm kinh nghiệm; ở cõi thứ nhì tức cõi trung ấm, nó chịu đau khổ vì những lầm lỗi của mình; ở cõi thứ ba tức cõi thiên đường, nó vui hưởng thành quả của những tư tưởng và xúc động tốt đẹp; cũng ở đây nó đào luyện toàn bộ kinh nghiệm tâm trí và đạo đức tốt đẹp của mình thành ra các năng khiếu đạo đức và trí tuệ; hơn nữa ở cõi thiên đường nó còn nghiên cứu được kiếp sống đã qua của mình và những đau khổ của mình do sai trái; điều đó giúp cho nó hiểu biết và nhờ vậy có được quyền năng: “Mọi đau khổ mà tôi phải chịu đựng trong một cơ thể này trở thành một quyền năng mà tôi sẽ vận dụng trong cơ thể kế tiếp”. [Tác phẩm Hướng về sự Dân chủ, “Sự Phấn đấu của Con người chống lại quỉ Sa tăng” của Edward Carpenter]. Thời gian lưu trú nơi thế giới thứ ba gia tăng về độ dài và kết quả gặt hái khi y càng ngày càng tiến bộ.
Cuối cùng thì y gần đạt tới đích của cuộc hành hương dài; y gia nhập Thánh đạo, trải qua các cuộc Điểm đạo lớn và đạt được sự hoàn hảo nơi con người. [Xem Tiết IV, Con đường dẫn tới sự Hoàn hảo và các Đấng Thiêng liêng]. Ngài không còn luân hồi nữa, vì ngài đã vận dụng được vật chất, đã tâm linh hóa và trong khi ngài khoác lấy nó thì thì nó không còn làm ngài mù quáng hoặc chế ngự được ngài nữa.
Khi nhìn vào cái vòng Sinh Tử luân hồi dài dằng dặc này, con người có thể cảm thấy mỏi mệt. Nhưng ta phải nhớ rằng mỗi chu kỳ sống đều mới lạ đối với sinh linh trải qua nó; nhờ vào sự an bài minh triết phàm nhơn nơi cõi trần đã quên hết quá khứ, ít ra thì cũng cho đến khi y đủ mạnh để gánh vác gánh năng ấy, và Goethe có nói vui như sau: chúng ta “trở lại nhưng được tắm mát”. Nơi đứa trẻ sơ sinh không hề có ý thức mỏi mệt, nó vui vẻ chào đời trong một cuộc sống mới nhưng nó có một ý thức về sinh lực mới mẻ được hưởng thụ háo hức với những niềm vui luôn luôn mới lạ. Một linh hồn đã mòn mỏi trên đường đi nhập vào thể xác một trẻ sơ sinh bị oằn nặng bởi một ký ức về những sự phấn đấu và lầm lẫn xưa kia, bởi yêu và ghét trong quá khứ, thì đó ắt là sự đổi chác đáng buồn đối với sự vui vẻ của tuổi ấu thơ tràn đầy nhựa sống.
Mỗi kiếp sống là một cơ hội mới và nếu chúng ta đã lãng phí một kiếp thì chúng ta luôn luôn có “một cơ may mới”. Luân hồi cốt yếu là một Phúc âm, một tin mừng vì nó chấm dứt được sự thất vọng, khích lệ được sự cố gắng, khuyến khích người ta bằng cách tuyên cáo sự thành công tối hậu và bảo đảm được tính trường cửu của mọi mảnh vụn vun quén, mọi mầm mống tốt nơi chúng ta và có đủ thời gian cho kẻ kém tiến hóa nhất nở rộ thành ra mức hoàn hảo.
Ta không thể tả xiết giá trị của nó trong việc giải thích cuộc đời. Kẻ tội phạm, mẫu người thấp nhất, đê tiện nhất, nghèo nàn nhất, dơ dáy nhất trong loài người chúng ta, chỉ là một linh hồn mới chào đời, mới nhập vào một thể xác dã man và được đưa vào một nền văn minh không thích hợp nếu bị bỏ mặc để xuôi theo các bản năng; nhưng nền văn minh ấy cũng cung cấp cho nó một môi trường tiến hóa nhanh chóng nếu các bậc trưởng thượng nắm lấy tay nó dẫn dắt một cách dịu dàng và kiên quyết. Hiện nay nó đang ở mức mà người bình thường đạt được cách đây khoảng một triệu năm và trong tương lai nó cũng tiến hóa giống như người bình thường đã tiến hóa trong quá khứ.
Không có một sự thiên vị nào ưu đải những kẻ ở vị trí khác nó, chẳng qua chỉ là sự khác nhau về tuổi tác. Sự bất bình đẳng bẩm sinh nơi con người không còn làm ta bối rối nữa – sự bất bình đẳng giữa kẻ có thân hình đẹp tốt và kẻ què quặt, người khỏe mạnh và kẻ ốm đau, thiên tài và kẻ đần độn, vị thánh và kẻ phạm tội, người anh hùng và kẻ hèn nhát. Thật vậy, họ sinh ra đã thế rồi và mang theo mình những điều bất bình đẳng để nhập thế mà họ không thể vượt qua được. Nhưng họ còn trẻ trung quá nên thiếu kinh nghiệm và đã tạo nên những bất bình đẳng ấy theo đúng luật thiên nhiên; sớm muộn gì thì mọi yếu kém ấy cũng biến mất, hết cơ hội này đến cơ hội kia sẽ xảy ra cho họ, mọi đỉnh cao đều chờ đón họ leo lên miễn là họ có đủ sức leo lên cao.
Như ta sẽ thấy ở Tiết V bàn về vấn đề xã hội, việc hiểu biết về Luân Hồi dẫn dắt ta được nhiều lắm. Nó cũng cho ta thấy các bản năng xã hội đã tiến hóa ra sao, vì sao sự xả thân lại là định luật tiến hóa dành cho con người, ta có thể hoạch định như thế nào về cơ tiến hóa tương lai của chính mình theo các định luật thiên nhiên. Luân Hồi dạy ta biết rằng các phẩm tính do kinh nghiệm trên trần thế triển khai ra lại trở về trần thế để phục vụ cho con người, và theo định luật không thể sai lầm thì mọi nỗ lực đều mang lại kết quả mĩ mãn. Chỉ cần cung cấp cho con người đầy đủ thời gian thì y sẽ được trang bị khả năng vận dụng số mệnh của mình theo ý muốn và sáng tạo bản thân theo lý tưởng. Luân Hồi vạch ra một tương lai với quyền năng và minh triết ngày càng gia tăng, nó hợp lý hóa được hi vọng của ta về tính bất tử. Nó khiến cho cơ thể là công cụ của Tinh thần thay vì là chủ nhân ông của Tinh thần; nó xua tan nỗi sợ hãi là Tinh thần vì cần một thể xác để đầu thai cho nên rất có thể Tinh thần sẽ bị tiêu diệt khi thể xác ấy chết đi. Hume có nói rõ rằng đó là thuyết bất tử duy nhất mà triết gia có thể quan niệm được.
Việc nhớ được các kiếp đã qua vốn ở nơi Trí tuệ chứ không ở nơi Tâm trí, ở nơi Chơn ngã thường tồn chứ không ở nơi phàm nhơn hữu hoại. Trong Tiết I, ta thấy rằng các hạ thể chết đi vào lúc thể xác chết và sau đó; các cơ thể mới lại được kiến tạo khi người ta bước vào một chu kỳ sinh hoạt mới. Các cơ thể mới này đâu có trải qua những kinh nghiệm trong kiếp quá khứ, thế thì làm sao chúng nhớ được những gì xảy ra trong kiếp trước? Người nào nhớ được kiếp trước ắt phải có ý thức nơi thể nguyên nhân, vì phương tiện ghi nhớ vốn ở nơi thể này rồi y còn phải học thêm nữa để biết cách gởi những ký ức tàn trữ nơi thể nguyên nhân xuống cho tâm thức đang hoạt động qua bộ óc. Ta có thể làm được như vậy nhờ thực hành Yoga, bấy giờ ta có thể quay ngược lại để đọc cuộn phim bất diệt của quá khứ.
Ta có thói quen xem xét Luân Hồi theo quan điểm bản chất hữu hoại nơi con người, do đó ta thấy một loạt các kiếp sống mà ta mô tả là “kiếp luân hồi”. Nhưng đôi khi ta nên xét vấn đề này theo quan điểm của Con người Vĩnh hằng, tức Chơn thần biểu lộ thành Tinh thần tam bội. Khi quan sát như thế thì ta thấy Luân Hồi biến mất, trừ phi ta bảo rằng một cái cây luân hồi vào mỗi mùa xuân khi nó mọc ra một đợt lá mới hoặc một người luân hồi khi y khoác lấy một lớp áo mới. Cái phàm ngã vốn lù lù ra dưới đây chỉ là một đợt lá mới hoặc một lớp áo mới của Chơn nhơn.
Chơn nhơn biết mình là trước sau như một, tuyệt nhiên không hề bị gián đoạn tâm thức, chỉ có một lai lịch đơn nhất và một ký ức miên viễn. Các ngày trong sinh hoạt hữu hoại của Chơn nhơn đối với nó cũng chẳng mệt mỏi gì hơn sự nối tiếp lâu dài các ngày hữu hoại đối với tâm thức ta khi hoạt động qua thể xác; mỗi buổi sáng khi ta thức dậy với những hứng thú luôn luôn đổi mới, và những ngày mới mẻ ấy mang lại những khoái lạc và đau khổ mà ta trải qua một cách hào hứng.
Sự kiện thể xác ta luôn luôn biến đổi không làm ta bối rối chút nào vì ta vẫn là ta khi ở bên trong nó. Và cũng như thế trong sinh hoạt lớn lao hơn, ta vẫn cứ là Tinh thần hằng sống hằng hoạt động. Khi ta nhận thức được điều này thì đau khổ và mệt mỏi sẽ rơi rụng mất vì ta thấy những điều ấy không thuộc về bản thân ta. Đứng ở tâm điểm cố định và quan sát vòng luân hồi từ điểm ấy là một điều mang lại sự thoải mái và rất hữu ích. Nếu bất kỳ bạn đọc nào cảm thấy mệt mỏi, tôi xin mời họ hãy thử mưu tìm một lúc cái Nơi chốn Yên bình này.


LUẬT TÁC ĐỘNG VÀ PHẢN TÁC ĐỘNG

Luân Hồi được tiến hành theo Luật Tác Động và Phản Tác Động tức là Nhân Quả. Thuật ngữ Karma có nghĩa là tác động và trên kia ta đã thấy rằng mọi tác động đều gồm có ba phần. Người Ấn Độ vốn đã nghiên cứu tâm lý học cả ngàn năm cho nên phân tích tác động ra làm ba yếu tố: ý chí (tức dục vọng) thu hút năng lượng tâm trí lại, điều khiển chúng hướng về sự hoàn thành; thế là hành vi được hình thành trong cõi hạ trí. Bấy giờ nó sẵn sàng biểu lộ và có thể nói là nó hối hả nhắm vào sự thể hiện; nó sẽ được thực hiện trên cõi trần thế ngay khi chủ thể tư tưởng dùng quyền năng ý chí để tạo ra một cơ hội hoặc khi có một cơ hội xảy ra.
Bấy giờ nó được phóng hiện thành ra một hành vi rành rành ai cũng thấy. Trọn cả tiến trình này được người Ấn Độ coi là một bộ ba hiệp nhất và gọi là “Nhân Quả” tức tác động. Việc hiểu rõ điều này rất cần để lĩnh hội được ba định luật thứ yếu có ảnh hưởng tới vận mệnh tương lai của ta.
Nhưng trước hết ta cần nhận thức ra rằng nhân quả là một định luật thiên nhiên chứ không phải là một sự ban hành tùy tiện rồi có thể bị thay đổi theo ngẫu hứng, và nó tạo ra kết quả mà chẳng thưởng hay phạt gì hết. Một định luật thiên nhiên không phải là một mệnh lệnh mà là một mối quan hệ, một chuỗi diễn biến bất di bất dịch. Nó không thưởng hay phạt mà chỉ tạo ra những kết quả bất di bất dịch và do đó ta có thể tiên đoán được.
Nói chung thì ta có thể phát biểu như sau: khi A và B có một quan hệ nào đó với nhau thì tiếp theo sau sẽ là C. Giả sử ta phản đối C, thế thì ta phải giữ sao cho A và B không quan hệ được với nhau. Thiên nhiên không ra lệnh: “Bạn phải có C”. Bạn phải có C nếu A và B giữ được một quan hệ nào đó đối với nhau; nhưng nếu bằng một công cụ nào đó – bằng cách chen vào một lực nào đó, một chướng ngại nào đó – ta có thể giữ cho A và B không quan hệ với nhau theo kiểu ấy thì C sẽ không xuất hiện được. Vì thế cho nên ta càng hiểu rành rẽ về Thiên nhiên thì ta càng có thể đi theo đường lối của riêng mình trong cái rừng định luật của nó. Mọi định luật của Thiên nhiên đều là một lực trợ giúp cho con người hiểu biết nhưng lại là một lực áp chế kẻ thiếu hiểu biết. Ta hoàn toàn được tự do dùng lực này hóa giải lực kia, làm trung hòa những lực ngược lại chủ đích của ta và ta có quyền tự do tác dụng những lực chỉ hoàn thành chủ đích của ta. Quả thật đúng là: “Thiên nhiên đã bị chinh phục qua sự ngoan ngoãn vâng lời”. Kẻ vô minh là nô lệ cho thiên nhiên và là trò đùa của thiên nhiên; người minh triết là kẻ đã chinh phục được thiên nhiên và là vua của thiên nhiên.
Nhân Quả là một Định luật của Thiên nhiên, nó cưỡng chế kẻ vô minh nhưng nó mang lại tự do cho người minh triết. Ba hệ luận của nó có ảnh hưởng nhiều nhất tới vận mệnh của ta là: 1- “Tư tưởng kiến tạo nên tính tình”. 2- “Dục vọng thu hút đối tượng của mình, tạo ra cơ hội để nắm bắt đối tượng”. 3- “Hành động gây ra một môi trường thuận lợi hoặc bất lợi tùy theo việc nó mang lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người khác”.
[1] Ta đã thấy hệ luận đầu tiên khi bàn về quyền năng tư tưởng; bất cứ người nào tự nguyện dành mỗi buổi sáng năm phút kiên trì tư duy về bất cứ đức tính nào mà mình còn thiếu sót, ắt thấy rằng đức tính đó biểu hiện ra qua tính tình của mình sau một thời gian dài hay ngắn tùy theo sự kiên trì và sức mạnh của tư tưởng.
[2] Một sự ham muốn mãnh liệt và kiên quyết ắt mang lại thành tựu; ta rất thường thấy điều này xảy ra chỉ nội trong giới hạn của một kiếp sống; việc duyệt lại nhiều kiếp liên tiếp ắt khiến ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự tồn tại của hệ luận này.
[3] Những người nào làm cho người khác hạnh phúc thì bản thân mình cũng gặt hái được hạnh phúc; hạnh phúc không tìm mà đến và luôn luôn tránh né kẻ nào bám víu lấy nó một cách si mê nhất. Hệ luận này cũng thể hiện mạnh mẽ nhất qua việc duyệt lại một loạt các kiếp sống kế tiếp; người nào đã mang lại hạnh phúc rộng lớn thì sẽ sinh ra trong một hoàn cảnh thịnh vượng, còn kẻ nào gây ra bất hạnh thì sẽ sinh ra trong một môi trường bất hạnh. Nhưng định luật tác động thật chính xác, vì “Tư tưởng kiến tạo nên Tính tình”, cho nên kẻ nào gây ra hạnh phúc do một động cơ thúc đẩy ích kỷ thì lòng ích kỷ của y mang lại cho y một bản tính khốn khổ ngay cả khi môi trường xung quanh y là dễ chịu.
“Mặc dù cái Cối xay của Thượng Đế chỉ nghiền chầm chậm thôi, nhưng chúng nghiền rất mịn;
Mặc dù ngài kiên nhẫn đứng chờ, nhưng ngài nghiền nát tất cả một cách chính xác”.
Và bất kỳ lúc nào thì Nghiệp báo cũng là kết quả tổng hợp của mọi tư tưởng, ham muốn và hành động trong quá khứ biểu lộ qua tính tình, cơ hội, môi trường xung quanh của ta; những yếu tố này hạn chế hiện tại của ta. Nếu chúng ta vốn trì độn về tâm trí thì chúng ta chẳng thể đột nhiên trở nên thông minh; nếu chúng ta có ít cơ hội thì chúng ta không phải lúc cũng tạo ra được cơ hội; nếu chúng ta què quặt thì chúng ta không thể nào tráng kiện được. Nhưng khi ta sáng tạo thì ta có thể thay đổi được điều ấy và cứ ngày này sang ngày khác, những tư tưởng, ham muốn và hành động đương thời của ta sẽ làm thay đổi Nghiệp Quả tương lai của ta. Hơn nữa ta nên nhớ rằng – nhất là khi ta đang giáp mặt với một tai họa sắp xảy ra – nhân quả đằng sau ta cũng vàng thau lẫn lộn giống như tư tưởng, ham muốn và hành động đương thời của ta vậy.
Việc duyệt lại bất cứ một ngày sinh hoạt nào cũng cho thấy rằng nó bao gồm một số tư tưởng tốt và một số tư tưởng xấu; một số ham muốn cao thượng và một số ham muốn thấp hèn; một số hành động tử tế và một số hành động không tử tế. Mỗi loại đều có tác dụng trọn vẹn; điều tốt tạo ra Nghiệp tốt còn điều xấu tạo ra Nghiệp xấu. Vì thế cho nên khi ta đương đầu với hoạn nạn thì đằng sau ta có một luồng thần lực sẽ giúp ta xoay chuyển được tình hình và một luồng tà lực khác làm ta yếu đuối đi. Một trong các lực này có thể cực kỳ mạnh mẽ trong việc trợ giúp hoặc cản lối ta; nếu thế thì nỗ lực hiện nay của ta chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong kết quả cuối cùng; nhưng rất thường xuyên là hai lực ấy hầu như thăng bằng với nhau và một sự tinh tấn mạnh mẽ hiện tại sẽ xoay được cán cân lực lượng. Như vậy việc hiểu biết về Nhân Quả có thể củng cố được sự tinh tấn chứ không làm tê liệt nó – đôi khi trường hợp đáng buồn này đã xảy ra với những kẻ biết quá ít về Nghiệp Quả. Ta không bao giờ được quên rằng Nhân Quả vốn là một Định luật Thiên nhiên cho nên nó dành cho ta đầy đủ sự tự do trong mức độ ta có thể đạt được. Nói tới việc “can thiệp vào Nghiệp Quả” chỉ là nói chuyện tầm phào ngoại trừ theo nghĩa ta có thể nói can thiệp vào luật hấp dẫn trọng trường.
Theo một ý nghĩa nào đó ta có thể can thiệp vào cả hai luật này đến mức tối đa có thể được. Nếu cơ bắp của ta bị yếu đi vì sốt thì ta không thể leo lên cầu thang chống lại luật hấp dẫn trọng trường; nhưng nếu ta đang khỏe mạnh thì ta có thể vui vẻ chạy ùa lên lên cầu thang, thách đố luật hấp dẫn trọng trường muốn giữ ta lại ở cái phòng dưới đất. Đối với Nhân Quả thì cũng thế. Một lần nữa, Thiên nhiên không ra lệnh cho bất cứ ai làm điều này hoặc điều kia; nó chỉ đặt ra những điều kiện bất di bất dịch theo đó ta có thể hoặc không thể thực hiện những sự việc. Chính chúng ta phải tìm ra những điều kiện giúp ta có thể thành công để rồi mọi lực lượng của Thiên nhiên sẽ hoạt động theo ta và hoàn thành mong muốn của ta. Emerson có nói: “Hãy gắn cái toa xe của bạn vào đó”, thế rồi lực của ngôi sao sẽ kéo toa xe của bạn tới nơi mà bạn muốn.
Có một điều thực tiễn khác có tầm quan trọng đặc biệt. Trong quá khứ, chúng ta có thể đã thực hiện một nghiệp lực đặc biệt nào đó về điều ác mạnh đến nỗi ngày nay chúng ta không thể khắc phục được nó bằng bất cứ lực nào đương đầu với nó. Trong hoàn cảnh ấy, chúng ta bị thúc đẩy làm bậy ngay cả khi chúng ta muốn làm điều tốt và cảm thấy mình chới với như một cọng rơm trong cơn gió vô tình.
Đừng quan tâm. Chúng ta vẫn còn những nguồn lực. Khi sự cám dỗ làm điều xấu xảy ra thì chúng ta có thể đương đầu với nó theo hai cách. Nếu cảm thấy rằng chúng ta phải chịu đầu hàng thì chúng ta có thể đầu hàng một cách nhu nhược, và như vậy rèn luyện ra một mắt xích mới trong cái chuỗi dây xích chết người là thói quen làm điều xấu. Nhưng người biết về Nhân Quả tự nhủ rằng: “Tôi đã tạo ra cái khuyết điểm dễ ghét này bằng cách biết bao nhiêu lần chiều theo ham muốn thấp hèn; tôi sẽ chống lại nó bằng một dạng ham muốn cao hơn, tức là Ý chí và không chịu đầu hàng”. Khi chiến đấu chống lại sự cám dỗ, con người bắt buộc bị lùi lại từng bước cho đến khi y ngã xuống vực sâu và chiều theo hành vi ấy mặc dù không cố tình.
Dưới mắt thế gian, y đã sa đọa, là một nạn nhân chới với trong sự nô lệ tuyệt vọng. Dưới mắt người biết về Nhân Quả thì nhờ vào sự phấn đấu dũng cảm, y đã giũa đi nhiều dây xích vẫn còn quấn quanh tay chân mình; còn một số “những sự sa đọa” khác nữa thì sợi dây xích sẽ bị gãy răng rắc và y sẽ được tự do; một thói quen mà nhiều ham muốn sai trái không thể bị hủy diệt bởi một nỗ lực ham muốn đúng đắn, ngoại trừ trong những trường hợp hiếm có mà Thượng Đế nội tâm thức dậy; chỉ cần một chút Ý chí tâm linh mãnh liệt cũng đủ đốt cháy được những sợi dây xích. Người ta ghi nhận được những trường hợp “cải đạo” như thế, nhưng hầu hết mọi người đều bước trên con đường dài hơn.
Ta càng hiểu Nhân Quả thì nó càng trở thành một quyền năng trong tay ta, thay vì là một quyền năng trói tay ta. Ở đây có lẽ hơn bất kỳ điều nào khác, “tri thức là sức mạnh”.


TIẾT IV

THÔNG THIÊN HỌC VỚI VAI TRÒ LÀ TÔN GIÁO

Chúng ta đã thấy rằng Tinh thần với vai trò là Chơn nhơn có ba Ngôi, biểu lộ thành Ý chí, Trực giác và Trí năng qua ba thể tinh vi nhất. Nhưng từ ngữ này cũng được dùng theo một ý nghĩa hẹp hòi hơn, biểu thị điều đầu tiên trong ba Ngôi vốn biểu lộ nơi cõi cao nhất trong hệ thống ngũ bội của ta, tức cõi tâm linh hoặc cõi Niết bàn nơi sự biểu lộ ấy là Ý chí tức Quyền năng. Thường thì từ ngữ này được dùng để biểu thị hai ngôi cao hơn bằng cách khiến cho nó bao trùm Trực giác và người ta không thể phản đối điều ấy. Hai ngôi này quả thực biểu diễn “bản chất tâm linh” của con người cũng giống như Trí tuệ và Tâm trí biểu diễn Trí thông minh của y, còn Xúc động biểu diễn Xúc cảm của y và Cơ thể biểu diễn công cụ Tác động của y. Ta đã thấy rằng vì sự đa nghĩa này đánh dấu bốn bộ môn lớn trong tư tưởng con người – khoa học, đạo đức nghệ thuật và tôn giáo – cho nên đó là một điều thuận tiện. Nhưng để được hoàn toàn rõ ràng thì tôi sẽ dùng từ “Tinh thần” để biểu thị Chơn thần khoác lấy một nguyên tử thuộc cõi biểu lộ cao nhất, còn từ “Trực giác” để biểu thị Chơn thần khoác lấy thêm một nguyên tử nữa của cõi kế tiếp thấp hơn.
Từ ngữ “Tôn giáo” gói ghém việc Con người mưu tìm lời giải đáp của Thượng Đế đối với sự mưu tìm ấy. Lời giải đáp của Thượng Đế là việc Ngài tự Khải huyền cho Tinh thần đang tìm kiếm vốn là Chơn nhơn cũng giống như bầu không khí bao xung quanh ta và xuyên thấu ta, nhưng ta vẫn còn không có ý thức về sự hiện diện của nó mặc dù chính cuộc đời ta tùy thuộc vào nó; cũng vậy, Tinh thần Vũ trụ bao xung quanh và thấm nhuần Tinh thần cá biệt hóa thế mà Tinh thần cá biệt hóa không biết được Đấng mà sinh mệnh mình tùy thuộc vào đó: “Ngài gần gũi hơn hơi thở, gần cận hơn tay chơn”.
Do đó “biết được Thượng Đế” là bản thể của Tôn giáo như ta đã thấy mọi tôn giáo chứng nhận: mọi thứ khác nữa đều phụ thuộc và con người biết được Thượng Đế chính là Thần bí gia, nhà Ngộ đạo, nhà Thông Thiên Học. Các tên gọi này quả thật do nhiều người đã xưng danh, nhưng chỉ người nào “biết được Thượng Đế” mới xứng đáng với ý nghĩa trọn vẹn của nó. “Thượng Đế vốn nội tại nơi vạn vật”; đó là phát biểu sự thật trong Thiên nhiên khiến cho ta có thể hiểu biết được như thế. “Thượng Đế ở nơi tất cả và trong tất cả” là cách mà Ki Tô giáo diễn tả cũng sự thật ấy; mặc dù thánh Paul trình bày nó trong tương lai còn Thần bí gia trình bày nó trong hiện tại. Liệu câu này có nghĩa là gì?


SỰ NỘI TẠI CỦA THƯỢNG ĐẾ

Điều này có nghĩa là bản thể của Tôn giáo vốn ghi nhận được Thượng Đế ở khắp mọi nơi. Nhà Thông Thiên Học chân chính thấy ở mỗi thứ đều có một phần sự Vinh quang Thiêng liêng. Trong sự ổn định của núi non, trong sức mạnh của sóng cả đè bẹp, trong cơn lốc gió xoáy, y thấy được Sức mạnh của Ngài. Trong ngôi sao rải rác ở tận không gian sâu thẳm, trong sa mạc trải dài ra ngút ngàn, y thấy được sự Bao la của Ngài. Trong màu sắc của những cánh đồng cỏ lấp lánh hoa, trong tiếng róc rách của những suối nhỏ, trong chiều sâu thẳm xanh ngát của núi rừng, trong khoảng rộng lớn lóng lánh của những đỉnh núi đầy tuyết phủ, trong ngọn lúa vàng trĩu phất phơ trước ánh nắng, trong ánh trăng lung linh như bạc, y thấy được Vẻ đẹp của Ngài.
Trong nụ cười e ấp của cô gái được chàng trai theo tán tỉnh lúc tuổi thanh xuân, trong nụ hôn nồng thắm của người tình xin cưới nàng làm vợ, trong đôi mắt âu yếm của người vợ khi nhìn thấy người chồng, trong cái thoáng nhìn đáp trả của người chồng vuốt ve người vợ, trong đôi môi cười phá lên của đứa trẻ vui đùa, trong sự chăm sóc che chở cảnh báo của cha và mẹ, trong sự tận tụy trung kiên của bạn với bạn, trong lòng thành thực trung kiên của đồng chí với đồng chí, y thấy được Tình thương của Ngài. Đây chính là “chánh niệm” (recollectedness) của Thần bí gia và là chân ý nghĩa của từ ngữ đã bị dịch sai lầm: “biết e sợ Thượng Đế” là bắt đầu Minh triết. Để thực chứng được điều này và như vậy biết mình hiệp nhất với Thượng Đế, là mục đích của Thông Thiên Học cũng chẳng khác gì mọi Tôn giáo chân chính. Mọi thứ khác đều chỉ là phương tiện đạt tới cứu cánh này.


GIÁO HUẤN CỦA THÔNG THIÊN HỌC

Những giáo lý chung của các Tôn giáo mà đâu đâu cũng tin theo, ai ai cũng tin theo vào mọi thời đại, đều tạo thành một tập hợp các giáo lý mà Thông Thiên Học phổ biến. Đó là: Đấng Tự tại Nhất như – Thượng Đế Nhất như – biểu lộ trong Vũ trụ theo ba Ngôi (“Ngôi” có từ nguyên là persona tức mặt nạ); các huyền giai Thực thể siêu nhân loại – Chư thiên, Thiên thần và Tổng Thiên thần; sự Lâm phàm của Tinh thần nơi vật chất mà Luân Hồi là giai đoạn làm người; Luật Tác động và Phản Tác động; “Con người gieo gì thì gặt nấy”; “sự tồn tại của Con đường Toàn bích và những Người thiêng liêng. Ba Cõi – cõi trần, cõi trung ấm và cõi thiên đường – cũng như các cõi trời cao hơn; Tình Huynh đệ trong Nhân loại. Đây là những giáo lý nổi bật trong Tôn giáo Đại đồng Thế giới. Khoa học rộng lớn hơn chứng tỏ rằng chúng có thể đúng khi nó nghiên cứu các cõi biểu lộ, không loại trừ bất cứ cõi nào trong cuộc nghiên cứu của mình ở chừng mực mà các công cụ có thể đạt tới.
Vì thế cho nên ở bất cứ nơi đâu, Thông Thiên Học cũng là người bảo vệ và trợ giúp tôn giáo, phục vụ cho mỗi tôn giáo trong địa hạt của riêng mình, vạch ra cho mỗi người điều cần thiết với đức tin của chính mình, thúc đẩy y đào sâu thêm nữa và tâm linh hóa tín ngưỡng của mình hơn là đả kích những hình thức mà người khác ưa thích. Như vậy, đó là một người mang lại hòa bình trong những sự xung đột tín điều, là người mang lại thiện chí, tình thân hữu và sự khoan dung ở bất cứ nơi đâu mà nó đi tới. Khi biết rằng mọi tôn giáo đều xuất phát từ một nguồn cội duy nhất tức là Quần Tiên Hội (the White Brotherhood), nó xóa bỏ được những tình cảm cay đắng giữa các nhà tôn giáo và việc người này đả kích cay độc người kia. Vì thế cho nên chúng tôi nói tới Hội Thông Thiên Học là phương tiện của Quần Tiên Hội như sau: “Khẩu hiệu của nó là Hòa Bình, còn mục tiêu của nó là Chơn lý”.


CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ HOÀN THIỆN
VÀ NHỮNG NGƯỜI THIÊNG LIÊNG

Đây là một giáo huấn, mặc dù có trong mọi tôn giáo; nhưng thời nay đã bị quên lãng đi nhiều cho đến khi Thông Thiên Học tuyên cáo nó trở lại và do đó có thể phác họa nó một cách thích đáng ở đây. Nó được miêu tả một cách rất trọn vẹn trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, Ki Tô giáo Công giáo La mã và phái Sufi (phái thần bí của Hồi giáo) và đặc điểm chính yếu của nó đều đồng nhất như nhau. Người nào gia nhập Thánh đạo phải nhận thấy mục tiêu của mình là sự Đơn Nhất, ta đạt được điều này bằng cách sùng tín sâu sắc Thượng Đế và phụng sự Chơn nhơn không mệt mỏi.
Giai đoạn đầu tiên được gọi là Tẩy trược trong sách vở Ki Tô giáo, là Con đường Dự bị trong các sách vở khác. Tên gọi Ki Tô giáo trình bày khía cạnh tiêu cực tức là dẹp bỏ các khuyết điểm; người không theo Ki Tô giáo trình bày khía cạnh tích cực tức là đạt được bốn tiêu chuẩn: 1- Phân biệt giữa điều thực và điều không thực, 2- Diệt lòng ham muốn đối với điều không thực, 3- Sáu điều quí báu tức là hạnh kiểm tốt bao gồm Tự chủ về tư tưởng, Tự chủ về hành động, Khoan dung, Nhẫn nhục, Tin tưởng vào Thượng Đế nội tâm và Bình tâm tức Thăng bằng, 4- Muốn được Hợp nhất tức Bác ái.
Chỉ cần ứng viên đạt được một phần nhất định của những tiêu chuẩn này thì y cũng có thể nhập vào Con đường Giác ngộ tức dùng thuật ngữ Ki Tô giới là Con đường Thánh đức hoặc “Thánh đạo” khi dùng thuật ngữ không phải của Ki Tô giáo. Thông Thiên Học theo danh pháp xưa và chia Thánh đạo ra thành bốn giai đoạn, mỗi cuộc “Điểm đạo” giúp nhập vào một giai đoạn. Điểm đạo là một nghi thức nhất định mà các Thành viên Hoàn hảo của Quần Tiên Hội cử hành theo sự phê chuẩn của thủ lãnh; nó ban cho tân Điểm đạo đồ một sự mở rộng tâm thức và nhận y vào một hàng ngũ nhất định trong Hội đoàn Huynh đệ; y đã tuyên thệ Phụng sự và xét theo chuyên môn được gọi là “an toàn mãi mãi” nghĩa là thậm chí y cũng không thể bị tạm thời loại ra khỏi vòng tiến hóa trong chu kỳ hoạt động.
Mỗi cuộc điểm đạo kế tiếp mang theo nó một vài nhiệm vụ nhất định mà người ta phải hoàn thành trọn vẹn thì mới có thể tiến bước kế tiếp. Cuộc điểm đạo thứ năm làm “hoàn hảo” Chơn nhơn khiến cho cơ tiến hóa của con người chấm dứt. Nhờ đó ngài trở thành một Tinh thần đã giải thoát, ngài đã “đạt tới bờ bên kia”. Một số đấng này vẫn còn ở lại trên trái đất, giám sát, xúc tiến cơ tiến hóa của loài người; một số đi tới điền vào những chức vụ khác nhau cần thiết để trợ giúp cho hành tinh chúng ta cũng như các hành tinh khác, và vì sự dẫn dắt nói chung của Thái dương hệ. Những người mà chúng ta gọi là “Chơn sư” chính là các đấng còn ở lại trên trái đất của ta; các ngài tạo thành cấp năm trong Quần Tiên Hội, trên các ngài còn những cấp khác mãi cho đến khi ta đạt tới đấng thủ lãnh của trọn cả Quần Tiên Hội.


Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:42 am


CHÍNH PHỦ THIÊNG LIÊNG CỦA THẾ GIỚI CHÚNG TA

Thế giới được chia ra thành nhiều miền; mỗi miền có một Chơn sư đứng đầu; ngài hướng dẫn các hoạt động của nó, tuyển lựa một số người làm công cụ cho mình, sử dụng chúng, lặng lẽ dẹp chúng sang một bên khi vô dụng; các ngài bao giờ cũng tìm cách gợi linh hứng, dẫn dắt, thu hút, kiểm soát nhưng không bao giờ khống chế ý chí của con người. Ta phải tiến hành Thiên cơ nhưng ta phải thực hiện nó bằng cách sử dụng những tác nhân tự do vốn thEo đuổi một vài mục tiêu hấp dẫn mình như quyền lực, danh vọng, của cải v.v. . . Khi mục tiêu của con người thực hiện nhằm xúc tiến Thiên cơ thì có những cơ hội được đưa ra cho y trên đường tiến bộ và y đạt được điều mình muốn, vô hình trung đạt được một chút xíu trong Thiên cơ.
“Cả thế giới là một sân khấu còn mọi người nam và nữ chỉ là những diễn viên”; nhưng Người viết kịch thiêng liêng viết ra Kịch bản; con người chỉ có thể chọn vai đóng của mình, bị hạn chế khi chọn lựa do nghiệp quả mà mình đã tạo ra trong quá khứ bao gồm cả những năng lực của mình. Hơn nữa, những bộ môn lớn trong chính quyền thế giới bao gồm trọn cả hành tinh. Bộ môn hành chính, bộ môn quản trị những sự thay đổi về động đất làm cho các lục địa dâng lên hoặc chìm xuống, sự tiến hóa của các giống dân chính, giống dân phụ và các quốc gia v.v. . . có vị chức sắc thủ lãnh của mình là các đấng Bàn Cổ; một đấng Bàn Cổ là một Chơn nhơn kiểu mẫu và mỗi giống dân chính đều có một đấng Bàn Cổ của mình, thể hiện loại hình ấy ở mức hoàn hảo cao nhất. [Xem Tiết VI: “Một vài chi tiết về các hệ thống và các thế giới” trang 87, 88].
Bộ môn giáo huấn có đấng lãnh đạo là Đức Bồ Tát, tức đấng Ki Tô, Thầy Tối Cao của Chư thiên và loài người; ngài dựng nên các tôn giáo trực tiếp hoặc thông qua các thiên sứ của mình và đặt mỗi tôn giáo dưới sự che chở của một Chơn sư; bản thân ngài giám sát và ban phúc cho tất cả. Khi ngài trở thành một Đức Phật thì ngài rời bỏ trần thế và được kế vị bởi một Đức Bồ Tát khác.
Các Đấng Đại Hùng này là các phó vương trên trần thế của đấng Chúa tể Tối cao, NGÔI LỜI tức Thượng Đế biểu lộ. Các ngài là “thừa tác viên của Ngôi Lời, làm vừa ý Ngôi Lời”. Như vậy thì thế giới của ngài khi nó từ từ tiến lên phía trước qua con đường tiến hóa dài dằng dặc đều được trợ giúp, bảo vệ và dẫn dắt để đến Chân Ngài.


TIẾT V

THÔNG THIÊN HỌC ÁP DỤNG VÀO CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Bạn đọc có thể hiểu được giá trị của Thông Thiên Học khi nó tác động tới Sự Sống, nếu ta xét xem nó có thể được áp dụng ra sao để giải quyết một số vấn đề đau khổ hơn mà chúng ta phải đương đầu trong tình trạng Xã hội hiện nay. Ta có thể rút ra được nhiều gợi ý từ những nền văn minh mà các thành viên của Quần Tiên Hội đã sáng lập ra và quản trị, mặc dù do những thay đổi về hoàn cảnh lớn lao đang thịnh hành hiện nay, ta phải tạo ra những ứng dụng mới cho các nguyên tắc căn bản. Nền móng của một Xã hội bền vững phải là Tình Huynh Đệ; mọi người đều cần được hạnh phúc và cần có những điều kiện thuận lợi cho sự tiến hóa của mình và bổn phận của Xã hội là phải cung ứng một môi trường mang lại những điều kiện ấy.
Việc một con người sinh ra trong một Xã hội có tổ chức khiến cho y có quyền đòi hỏi và Xã hội có bổn phận: một đứa trẻ có quyền đòi hỏi với cha mẹ mình và cha mẹ có bổn phận đối với con cái. Người trẻ hơn tự nhiên là có quyền đòi hỏi thích đáng với người lớn hơn; điều này đã bị bại hoại thành ra giáo lý mang tính hiếu chiến về “các quyền lợi”; con thú, trẻ con, người đau ốm, người dốt nát, người bơ vơ, tất cả đều có quyền, đó là quyền được sử dụng tử tế, được che chở, được nuôi dưỡng, được dạy dỗ, được bảo vệ; người khỏe mạnh, người trưởng thành chỉ có bổn phận thôi.
Xã hội có tổ chức tồn tại vì hạnh phúc và phúc lợi của các thành viên, và khi các thành viên không có được những phúc lợi thì chính do sự kiện ấy xã hội đó phải bị kết án. “Chính quyền chỉ tồn tại vì ích lợi của người được cai trị”. Pythagore nói như thế khi rao giảng trên đồi Tauromenion và câu này đã vang vọng suốt nhiều thế kỷ, đã trở thành khẩu hiệu của những người đang mưu tìm sự cải thiện hoàn cảnh xã hội. Chỉ khi nhà nước mưu cầu và bảo đảm được phúc lợi của người bị trị thì nó mới xứng đáng với lời miêu tả hùng hồn mà bậc đại sư Hi lạp dùng để kết luận trong một diễn từ của ngài với kiều dân Hi lạp ở Naxos khi các công dân ấy tụ tập xung quanh ngài trên đồi.
“Hỡi các con, hãy lắng nghe nhà nước sẽ như thế nào đối với những công dân tốt. Nhà nước còn hơn là cha hoặc mẹ, còn hơn là chồng hoặc vợ, còn hơn là con cái hoặc bạn bè. Nhà nước là cha và mẹ của tất cả, là vợ của người chồng, là người chồng của vợ. Gia đình có tốt đẹp là ở chỗ người đàn ông thấy vui vẻ với vợ con mình. Nhưng nhà nước còn lớn hơn thế, nhà nước bảo vệ cho tất cả bằng không thì căn nhà sẽ bị hủy hoại và tàn phá. Danh dự của người phụ nữ sinh ra người đàn ông thật đáng quí đối với y, danh dự của người vợ mà các đứa con bám lấy đầu gối của y thật là thân thương; nhưng danh dự của nhà nước vốn bảo đảm an toàn cho vợ và con ắt còn đáng quí hơn nữa. Xuất phát từ nhà nước mới có mọi thứ khiến cho cuộc đời của bạn thịnh vượng, mang lại cho bạn sự mỹ lệ và an toàn. Các Nghệ thuật đã được kiến tạo nên trong lòng nhà nước, khiến cho người dã man khác với người văn minh. Nếu người dũng cảm vui lòng chết vì hòn đá lát lò sưởi thì y còn vui lòng hơn nữa khi chết vì Nhà nước”.
Pythagore đã trở thành Chơn sư rất nổi tiếng với Hội Thông Thiên Học và ngài nói lên lý tưởng Thông Thiên Học về nhà nước vốn là cha mẹ của dân, là người Bảo vệ tất cả.
Bổn phận của Nhà nước, của Xã hội có tổ chức là bảo đảm được cho mỗi một thành viên của mình ít ra là phần tối thiểu về phúc lợi – lương thực, quần áo, chỗ ở, giáo dục, giải trí – điều này khiến cho mỗi công dân có thể phát triển được đến mức tối đa những năng khiếu mà y có được bẩm sinh khi chào đời. Không thể có việc đói khát và nghèo khổ, làm việc quá sức và không được giải trí, thiếu tiện nghi và phương tiện thụ hưởng. Bộ óc con người hoàn toàn khôn khéo đủ để phác họa một hệ thống xã hội trong đó mọi công dân đều có đủ nhu cầu để được một cuộc sống hạnh phúc; trở ngại duy nhất là lòng ích kỷ và thiếu ý chí.
Nó đã được thực hiện từ lâu rồi dưới sự trị vì của các Thánh vương nơi Kim Môn Thành và ở Peru. Nó cũng được thực hiện vào thời vua Rāmachandra mà ta có thể đọc thấy trong Rāmāyana. Nó được thực hiện khi Đức Bàn Cổ cai trị Kiều đô (the City of the bridge). [Ta có thể thấy nhiều điều thú vị và có giá trị về chính sách của Đức Bàn Cổ trong Khoa học về Tổ chức Xã hội của Bhagavān Dās]. Nhưng nó phải được hoạch định bằng minh triết chứ không phải do vô minh, được tạo ra do tình thương và sự hi sinh của phần Chơn ngã chứ không phải do sự tiếm quyền của phần phàm ngã. Quần chúng có thể làm cách mạng nhưng họ không thể xây dựng một Nhà nước.


CÁC NGUYÊN TẮC CỦA TRẬT TỰ MỚI

Dựa trên việc nghiên cứu quá khứ, Thông Thiên Học có thể nêu ra một vài nguyên tắc mà ta thể hiện thành các chi tiết nhờ vào những người có kinh nghiệm và có giáo dục cao. Những nguyên tắc này là: chính quyền phải ở trong tay các bậc huynh trưởng, nghĩa là người minh triết nhất, người có kinh nghiệm nhất và người có đạo đức nhất. Chính việc có năng lực và có quyền uy mới áp đặt được bổn phận phục vụ lên người hạ cấp; tự do chỉ mang lại hạnh phúc cho người có giáo dục và biết tự chủ; chừng nào người ta còn vô minh và chưa biết tự chủ thì y không nên được chia xẻ quyền cai trị người khác và y chỉ có được tự do phù hợp với phúc lợi của cộng đồng; cuộc sống của một người như thế sẽ trở nên hạnh phúc và hữu ích tối đa khi bị khép vào kỷ cương cho đến khi y thích hợp để “đơn thương độc mã” sao cho y có thể đẩy nhanh được cơ tiến hóa của mình; sự hợp tác, hỗ trợ phải được thay thế cho sự cạnh tranh, đấu tranh với nhau; con người càng có bên trong mình ít nguồn tài nguyên thì các phương tiện để hưởng thụ bên ngoài càng cần được đặt trong tầm với của y thông qua Xã hội.


NHỮNG ĐIỀU GỢI Ý

Những điều gợi ý sau đây là kết quả công trình nghiên cứu của chính tôi [Annie Besant] về những gì đã được thực hiện trong quá khứ và suy nghĩ của chính tôi về tình hình hiện nay. Chúng chỉ là những điều gợi ý và nhiều nhà Thông Thiên Học có thể bất đồng với chúng. Tôi chỉ có một mong muốn là vạch ra một đường lối thay đổi phù hợp với những lý tưởng của Thông Thiên Học. Tình Huynh Đệ mạnh mẽ đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong Xã hội và sự tăng trưởng nhanh chóng về bất ổn được biện minh qua tình cảnh các giai cấp sống bằng lao động tay chân chẳng bao lâu nữa sẽ bắt buộc phải thay đổi. Vấn đề duy nhất ấy là liệu sự thay đổi ấy có được mang lại bằng minh triết của đôi mắt đã sáng ra hoặc bằng sự đau khổ của đôi mắt nhắm nghiền. Hiện nay Hội đang dấn thân vào việc thử làm kế hoạch vừa nêu.
Đất đai của một xứ phải được dùng để hỗ trợ cho:
1- Nhà Cai trị, các Ủy viên Hội đồng, các Chức sắc thuộc mọi giai cấp, việc quản trị Công bằng, việc duy trì Trật tự trong nội bộ và nền Quốc phòng.
2- Tôn giáo, Giáo dục, Giải trí, Hưu trí và việc Chăm sóc người đau ốm.
3- Tất cả những người không bao gồm trong loại 1 và loại 2 mà mưu sinh bằng lao động chân tay trong lãnh vực phân phối và sản xuất.
Giáo dục miễn phí và phổ cập phải là công việc duy nhất trong thời kỳ từ 7 tới 21 tuổi, sao cho khi tới tuổi trưởng thành thì các thanh niên thiếu nữ cả hai giới tính sẽ sẵn sàng trở thành các công dân hữu ích và biết làm tròn bổn phận với những năng khiếu đã được phát triển trọn vẹn, sao cho chúng có thể sống một cuộc đời biết tự trọng, tự lo liệu được cho bản thân và biết trọng danh dự.
Đời làm việc – và mọi thứ hoạt động trong ba phân bộ nêu trên – nên kéo dài từ 21 tới 50 tuổi trừ phi ta thấy được một hạn kỳ ngắn hơn cũng đủ để nâng đỡ quốc gia. Trong phần còn lại của cuộc đời, công dân phải nhận được một lương hưu trí, là kết quả của phần thặng dư tích lũy được trong những năm làm việc, do đó là việc hoàn trả chứ không phải cho không; y được tự do dành trọn tâm hồn mình theo đuổi bất cứ điều gì mà mình thích.
Những người như thế nên được tổ chức cho sản xuất và phân phối để khiến cho các tài sản khổng lồ càng ngày càng nhiều, rồi sau khi cung cấp cho mọi người hữu quan trong công tác sản xuất và phân phối ấy, phần lợi nhuận thặng dư sẽ được dành cho phân bộ 1 và phân bộ 2; chủ yếu là phân bộ 2. Việc tổ chức công nghiệp phải được quản trị theo ý tưởng lao động trở nên ít nặng nhọc đến mức tối đa cho tình hình sức khỏe và việc thay đổi máy móc đối với những người làm việc nguy hiểm và khó chịu – hầm mỏ, cống thoát nước v.v. . . , khi những dạng lao động khó chịu cần thiết vì phúc lợi của cộng đồng, thời giờ làm việc phải được rút ngắn tỉ lệ với mức độ khó chịu của nhiệm vụ ấy mà không làm giảm tiền công. Chẳng hạn như một người phu quét đường sống một cuộc đời đầy nhân cách thì phần lớn công việc của y nên được thực hiện bằng máy móc; phần công việc còn lại sẽ có số giờ làm việc rất ngắn với tiền công hậu hỉ - vì sức khỏe của cộng đồng tùy thuộc vào y – và sự giải trí, một số mang tính giáo dục nâng cao óc thẩm mỹ, một số thuần túy để tiêu khiển mà y dễ dàng với tới được. Y là một bàn tay tích cực của Thiên nhiên, giúp Thiên nhiên thường xuyên thực hiện nhiệm vụ biến điều dơ dáy và nguy hiểm thành ra một sự nuôi dưỡng cuộc sống mới và vẻ đẹp mới. Như ta có nói ở trang 34, không nên coi y là người làm việc nặng nhọc mà nên coi y là một người cộng tác với Thượng Đế. Nếu bảo rằng y thật thô lỗ và ghê tởm thì chúng ta, những người hấp dẫn và thanh lịch vốn lợi dụng công việc của y lấy làm xấu hổ xiết bao vì đã khiến cho y nên nông nỗi ấy do lòng ích kỷ, sự thờ ơ và bỏ bê của chúng ta.
Giáo lý về luân hồi ứng dụng vào giáo dục khiến cho ta thấy nơi đứa trẻ cũng có một Chơn ngã đã đến để cho ta chăm sóc trong thời kỳ nó còn đang tăng trưởng về thể xác, được trợ giúp để rèn luyện nó; chính vì mục đích ấy mà Chơn ngã mới trở lại trần gian. Khi công nhận rằng nơi Chơn ngã của chính y có đầy đủ mọi quyền năng tích lũy được trong các kiếp quá khứ và mầm mống của những thứ này được gieo trồng nơi thể trí mới mẻ, thì ta cảm thấy câu nói mới mẻ của Plato: “Mọi kiến thức chỉ là việc nhớ lại” mới có sức hấp dẫn đầy đủ, vì đó chỉ là việc tìm cách rút ra từ Chơn ngã điều mà Chơn ngã đã biết; Chơn ngã có thể kích thích những năng khiếu trí tuệ còn ấu trĩ và ghi dấu nó lên bộ óc mềm dẻo.
Các bậc phụ huynh hoặc thầy cô không được coi thể xác của đứa trẻ là thuộc về chúng ta mà phải thấy nó thuộc về Chơn ngã; lúc đó thì mới hiểu được mình có bổn phận giúp cho nó thu được trọn vẹn quyền sở hữu thể xác, hoạt động từ bên ngoài trong khi Chơn ngã hoạt động từ bên trong và theo đuổi bất kỳ chỉ dẫn nào giúp nó có được đường lối nghiên cứu hay nhất, là con đường dễ nhất dẫn tới tiến bộ. Chúng ta cung cấp cho đứa trẻ sự tự do thoải mái nhất phù hợp với mức độ an toàn về thể chất, đạo đức và trí tuệ của nó, và chuyện gì cũng cố gắng tìm hiểu giúp đỡ nó chứ không cưỡng bách nó. Ta có thể ứng dụng đầy đủ những nguyên tắc này nơi một quyển sách nhỏ đáng hâm mộ bàn về Giáo dục và Phụng sự của Alcyone.
Thuyết luân hồi ứng dụng vào việc đối xử với kẻ tội phạm và giai cấp chậm phát triển vốn chỉ lăm le phạm tội, gợi ra một chính sách khác hẳn chính sách trong Xã hội hiện nay, khiến cho chúng được hoàn toàn tự do làm điều mà chúng muốn, trừng phạt chúng khi chúng phạm pháp, trả lại tự do cho chúng sau một kỳ hạn ngồi tù thay đổi tùy trường hợp; thế là tạo cho chúng một cuộc đời cứ luân phiên hết được trả tự do rồi lại ngồi tù, biến chúng thành những kẻ quen thói phạm tội và cuối cùng phó mặc chúng cho “lòng từ bi của Thượng Đế” vì con người chẳng làm được gì tốt đẹp cho chúng. [Điều sau đây là sự đối xử ngay trước mắt đối với kẻ tội phạm. Chúng tôi hi vọng sau này sẽ bỏ đi được loại hình ấy].
Dưới ánh sáng của thuyết luân hồi tôi gợi ý rằng kẻ tội phạm bẩm sinh là một kẻ dã man đến học với chúng ta; ta có nhiệm vụ đối xử với nó giống như một thiếu nhi về mặt đạo đức và trí tuệ khiến cho con thú hoang nơi y bị chế ngự không gây thiệt hại. Những người này và hầu hết giai cấp phạm tội bên trên chúng đều có thể nhận diện được từ lúc sơ sinh và chúng phải được cách ly trong những trường nhỏ giáo huấn đặc biệt, được giáo dục ở cấp tiểu học trong mức độ mà chúng có thể tiếp thu, được đối xử một cách tử tế và kiên quyết, được chơi nhiều trò chơi, được dạy dỗ một dạng tay chân thô thiển. Những thầy cô ở các trường này phải là người chí nguyện từ giai cấp xã hội cao hơn, sẵn sàng giảng dạy và chơi đùa với lũ trẻ, có thể khơi dậy nơi chúng một xúc cảm ngưỡng mộ, quyến luyến và trung thành; điều này sẽ mang lại sự ngoan ngoãn vâng lời.
Chúng phải được kề cận với những người rõ rệt là thượng cấp của mình nếu điều này cần được thực hiện. Khi tốt nghiệp ở các trường này, chúng phải được biên chế vào các nhóm người nho nhỏ, những làng mạc tươi sáng dễ chịu với những cửa hiệu, sân chơi, phòng trình diễn âm nhạc, nhà hàng do những người thuộc loại nêu trên cai quản; chúng phải có được mọi thứ khiến cho cuộc đời dễ chịu ngoại trừ việc tự do khiến cho nó đầy ác ý và khốn khổ; những nhóm dân này phải cung cấp đội ngũ công nhân cho mọi loại công việc nặng nhọc: hầm mỏ, phu khuân vác, công nhân quét đường v.v. . . để cho những người hiện nay đang được dùng làm công việc ấy được nâng cấp lên những nhiệm vụ cao hơn. Một số người, cũng những kẻ phạm tội bẩm sinh ấy, kẻ dã man thuần túy cũng phải chịu sự câu thúc tử tế này đối với sinh hoạt, nhưng khi chúng lìa trần thì chúng ít dã man hơn lúc chào đời.
Một số người nên đáp ứng với cách đối xử ấy và có được đầy đủ tài khéo cũng như sự tự chủ để cuối cùng được phóng thích. Những khó khăn chủ yếu là thói phá phách bẩm sinh và thói lêu lỏng, vì kẻ phạm tội là một người phất phơ lang bang không thể làm việc đều đều. Trường cải tạo phải làm được một điều gì đó để cải thiện nó và làm tốt được điều khiến cho nó dễ chịu trong khi việc lêu lỏng và ăn không ngồi rồi làm cho nó khó chịu; “kẻ nào không làm thì không được ăn” là một câu châm ngôn lành mạnh vì thực phẩm là do lao động mà có và kẻ nào có khả năng làm việc nhưng lại từ chối không làm việc thì không có quyền đòi hỏi thực phẩm. Người ta có thể kiểm soát mỗi giờ làm việc, luân phiên trao đổi ở cửa hiệu và nhà hàng dành cho những thứ nhu yếu phẩm, và con người được làm nhiều hay ít tùy theo mình muốn; y được phép chọn lựa giữa mức tương đương về nhu yếu phẩm và những thứ xa xỉ. Ở đây ta chỉ có thể nêu ra những đường lối tổng quát để giải quyết vấn đề này và những phương pháp tương tự ắt sẽ được dùng trao đổi lẫn nhau đối với các thiếu nữ và phụ nữ thuộc loại tương xứng.
Nhân Quả ứng dụng vào xóm nhà ổ chuột ắt cho thấy nó là một nam châm thu hút những loại thấp kém nhất trong các Tinh thần đi đầu thai; ta có bổn phận minh triết phải giải tỏa những nơi ô nhiễm này vốn chỉ thu hút đám bất hảo nhất trong đám đông sắp tới. Dưới ánh sáng của Thông Thiên Học, nhiệm vụ của các huynh trưởng là phải hoạch định và dần dần kiến tạo nên những khu cư dân có đầy đủ khoảng trống ở giữa để ghép những người trong xóm nhà ổ chuột vào ở trong khu cư dân ấy; những địa điểm độc hại này phải bị giải tỏa, đất đai ô nhiểm đầy thứ rác rưởi phải được biến thành công viên; bấy giờ rác rưởi sẽ biến thành cây và hoa, trong khi việc xây những ngôi nhà mới trên nền đất còn ô nhiễm ấy chỉ chuốc lấy bệnh tật.
Hơn nữa, như ta đã nói ở Tiết II, ta phải mưu tìm vẻ Mỹ lệ, vì đó là một nhu yếu phẩm cho mọi người chứ không phải một thứ xa xỉ cho một ít người. Vẻ Mỹ lệ trau dồi và làm cho ta thanh lịch, ta mô phỏng được nó nơi phong cách của những người chịu ảnh hưởng của nó. Ăn mặc đẹp, nhà cửa khang trang, đô thị nề nếp là một nhu cầu khẩn cấp với vai trò là một lực tiến hóa. Đâu phải là không có ý nghĩa khi vào lúc trước thời đại cơ khí hiện nay, khi người ta còn được vây xung quanh bởi vẻ đẹp của Thiên nhiên nhiều hơn mức hiện nay thì quần áo của mọi người thuộc mọi giai cấp đều đẹp đẽ và chúng vẫn còn như vậy ở phương Đông; con người thật là tự nhiên khi muốn thể hiện mình qua Vẻ đẹp; chỉ khi trở nên xa rời Thiên nhiên thì y mới thản nhiên chấp nhận quần áo lôi thôi và môi trường nhếch nhác. Ta hãy đối chiếu quần áo mà ta chứng kiến nơi xóm nhà ổ chuột với quần áo mà ta chứng kiến nơi một thôn xóm Ấn Độ. Ta có thể viết biết bao nhiêu cuốn sách về đề tài ứng dụng Thông Thiên Học vào cuộc sống, nhưng bên trong giới hạn hiện nay của mình thì điều nêu trên cũng đủ rồi.


TIẾT VI

MỘT VÀI CHI TIẾT VỀ CÁC HỆ THỐNG VÀ CÁC THẾ GIỚI

Trong Tiết III, ta đã trình bày nguyên lý căn bản của mối quan hệ giữa Tinh thần và Vật chất. Việc xét tới một số chi tiết của nó có thể là thú vị. Có thể thấy rằng chất Æther vũ trụ bên trong Thái dương hệ ta – và giả sử là ở đâu khác nữa vì có nhiều Hệ thống như thế - bao hàm vô số bọt có dáng vẻ tương tự chính xác với các bọt xuất lộ bên trong nước, các khoảng không trống rỗng mà vách của nó chỉ có nước bao bọc xung quanh. Một bọt xà bông trôi nổi trong không khí là một bộ phận nhỏ xíu của không khí bên trong cùng với một lớp màng mỏng nước xà bông vây xung quanh; nhưng bọt trong nước là những bộ phận không khí nhỏ xíu bên trong một khối nước và không có một lớp màng giới hạn nào; chúng được giữ thành bọt nước do áp suất của nước chứa bên trong. Như vậy các bọt nước này được giữ thành bọt Æther do áp suất của chất Æther xung quanh và vì chúng không thể thoát ra khỏi đó cho nên chúng chỉ có thể vẫn còn là bọt. Chúng là các “lỗ trong Æther” (H. P. Blavatsky đã gọi chúng như vậy từ lâu rồi), “Các lỗ trong không gian” và bà bảo rằng chúng được tạo ra bằng “Fohat”, tức là quyền năng của Ngôi Lời Tối Cao. Các quyển sách thời xưa cũng có nói tương tự về “Hơi thở lớn” là nguyên nhân của chúng; phép tương tự này là hiển nhiên vì ta có thể tạo ra các bọt nước bằng cách thổi vào trong nước.
Ông Leadbeater có trích dẫn lời của một nhà khoa học Pháp nói như sau trong Sách giáo khoa về Thông Thiên Học : “Không có vật chất, chẳng có gì ngoại trừ các lỗ hổng trong ether”. Nhưng từ khối tập hợp các lỗ hổng này ta có thể kiến tạo được mọi điều mà ta gọi là vật chất.


VIỆC KIẾN TẠO CÁC NGUYÊN TỬ
BẰNG LÀN SÓNG SINH HOẠT THỨ NHẤT

Ngôi Lời của một Thái dương hệ bao quát một mảnh rộng lớn chất Æther vũ trụ, như vậy là đã lấp đầy bọt ấy bên trong cái Vòng Giới Hạn nêu trên. Các bọt ấy có thể nhìn thấy được qua hình ảnh của cõi tâm linh thứ ba và người ta có thể thấy rằng Ngài lập nên một xoáy lực lớn vốn quét các bọt này lại thành ra một khối khổng lồ; Ngôi Ba của Ngôi Lời là ngôi sáng tạo và thông qua ngôi này, Ngài phóng ra Làn Sóng Sinh Hoạt Thứ Nhất (tạm gọi như vậy) vốn kiến tạo các bọt thành ra nguyên tử, rồi sau đó lại tích tụ các nguyên tử thành ra phân tử và cuối cùng kiến tạo các phân tử này thành ra 6 bộ tổ hợp quen thuộc mà trên cõi hồng trần ta gọi là dưới nguyên tử, siêu dĩ thái, dĩ thái, chất hơi, chất lỏng và chất đặc.
Các bọt nguyên thủy riêng rẽ này tạo thành vật chất của cõi linh thiêng, trong khi vật chất của cõi Chơn thần được tạo ra bằng cách nhóm các bọt lại thành nguyên tử; nguyên tử này lại được tạo lập do một xung lực của Làn Sóng Sinh Hoạt gồm Tư tưởng sáng tạo gây ra các xoáy nhỏ xíu, mỗi xoáy này hút vào 49 bọt; như vậy đã tạo thành ra hai thế giới lồng vào nhau, cõi Thượng Đế và cõi Chơn thần, cõi đầu tiên gồm các bọt tự do, cõi thứ nhì gồm một số những bọt này tổ hợp thành ra nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm 49 bọt.
Xung lực thứ nhì từ Làn Sóng Sinh Hoạt tách ra một số lượng gồm 49 bọt nguyên tử này, phân ly chúng và tái tổ hợp chúng thành ra các xoáy lực, mỗi một xoáy này có chứa 492 bọt, tức là nguyên tử của thế giới Tinh thần. Xung lực thứ ba tách ra một khối những nguyên tử này từ phần còn lại, phân ly chúng và tái tổ hợp chúng thành ra các xoáy, mỗi một xoáy có chứa 493 bọt, tức là các nguyên tử của thế giới Trực giác. Cũng giống như vậy, một xung lực thứ tư sinh ra các nguyên tử của thế giới Trí tuệ bao gồm 494. Một xung lực thứ năm cung cấp cho ta các nguyên tử của cõi Trung giới bao gồm 495 bọt, và một xung lực thứ sáu kiến tạo các nguyên tử của cõi Hồng trần, mỗi nguyên tử bao gồm 496 bọt. Vậy là hình thành các cõi xuyên thấu nhau gồm 7 loại vật chất; mỗi loại là cơ sở nguyên tử của một thế giới bao gồm toàn là các tổ hợp nguyên tử đặc thù của chính mình.
Khi loạt nguyên tử này đã hoàn tất thì xung lực thứ bảy được phóng ra và điều này kiến tạo các khối tập hợp nguyên tử, một số lớn các tập hợp nguyên tử khác nhau; những cái này lại nhập vào các tổ hợp thêm nữa với nhau trong tiến trình của nhiều thời đại, một thời kỳ dài vô cùng; trong thời kỳ này tinh vân cháy sáng dần dần nguội lạnh đi bể tan thành ra một Mặt trời trung ương với đủ thứ hành tinh xoay vòng xung quanh mình coi đó là trung tâm. Đây là công trình vĩ đại về Khía cạnh Sáng tạo của Thái dương Thượng Đế, “Tinh thần Thượng Đế” di chuyển trên mặt nước Æther, trục của số lượng lớn xoay vòng khuấy đảo đại dương sao cho các sinh linh có thể xuất lộ từ đó.


MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUYÊN TỬ VÀ TÂM THỨC

Có một điều rất thú vị trong sự tạo lập các nguyên tử mà ta không được bỏ qua. Sự Sống của Ngôi Lời là lực xoay vòng bên trong nguyên tử, nó giữ các bộ phận cấu thành lại với nhau. Sự Sống này cung cấp cho nguyên tử phẩm chất nổi bật của nó, bản chất cốt yếu của nó vốn là một phương thức đặc thù của Tâm thức thiêng liêng; người Ấn Độ gọi điều này là “Tattva”, theo sát nghĩa là “Tính chất của Cái Đó”, “Tat”. “Cái Đó” là một cách biểu diễn tôn kính về Đấng thiêng liêng và Tính chất của Cái Đó biểu thị “Thiên tính” tức “bản chất của Thượng Đế”.
Vậy là mỗi nguyên tử đều phải có “Thiên tính” của mình. Mức độ rung động của nguyên tử do Ý chí của Thượng Đế áp đặt lên nó chính là “Tanmātra”, “số đo của Cái Đó”; đây là các trục của nguyên tử. [ Giống như các trục của tinh thể. Đó là “các đường tưởng tượng”, nhưng trí tưởng tượng là quyền năng sáng tạo và những đường này chi phối hình tướng của tinh thể mặc dù chúng “không tồn tại”]. Những đường lực tư tưởng của Thượng Đế, sự phân ly về góc của nó bên trong các giới hạn rung động xác định, định đoạt hình tướng bề mặt của nó. Mỗi loại nguyên tử có công trình đặc thù của riêng mình vì các trạng thái tâm thức được biểu lộ bởi Thượng Đế của vũ trụ ấy – ngài ở bên ngoài nó như thế nào thì ngoại trừ những người ngang cấp với Thượng Đế ra chẳng ai biết được – đều đồng nhất về phẩm tính mặc dù không đồng nhất về số lượng so với các trạng thái tâm thức nơi Chơn nhơn, hình ảnh mờ nhạt về sự vinh quang của ngài.
Như vậy, chính tâm thức của ngài bên trong nguyên tử đáp ứng với tâm thức của ta từng giai đoạn một, vật liệu của nguyên tử phản ảnh trung thành mỗi giai đoạn trong các bước sóng rung động của nó. Như vậy nguyên tử của thế giới tâm linh rung động đáp ứng với các phương thức của Tinh thần – Tinh thần là sự sống của nó, sự sống của thế giới trực giác đối với các phương thức Trực giác – cũng vì lý do tương tự; phương thức của thế giới trí tuệ đối với các phương thức của Trí năng; sự sống của thế giới xúc động đối với các phương thức Xúc động và Đam mê; sự sống của thế giới vật lý đối với các phương thức Sinh lực – tất cả cũng vì những lý do giống như thế. Mỗi sự thay đổi trong tâm thức nơi bất kỳ trạng thái nào đều được đáp ứng tức khắc bằng một sự thay đổi rung động trong vật chất tương ứng, bất kỳ rung động nào được xác lập trong vật chất đều được đáp ứng ngay tức khắc bằng một sự thay đổi trạng thái tâm thức tương ứng.
Chẳng hạn như mọi vật chất của cõi xúc động tức cõi trung giới đều bao gồm các nguyên tử, Sự Sống trong đó là Xúc động, còn số đo rung động của nó có tương quan với xúc động nhằm biểu diễn và đáp ứng với nó. Trọn cả cấp độ khổng lồ các xúc động, đam mê, dục vọng đều được tâm thức tác động lên vật chất này, đam mê thuần túy và chỉ có ham muốn trên vật chất này thôi; vì xúc động là một sự trộn lẫn đam mê với tư tưởng cho nên một sự hòa lẫn vật chất tư tưởng nào đó nhằm vào sự biểu diễn của xúc động.
Vật chất của cõi trí tuệ bao gồm các nguyên tử cũng có quan hệ tương tự với tư tưởng; Sự Sống là Trí Tuệ, số đo của rung động có tương quan tới tư tưởng nhằm biểu diễn và đáp ứng với nó. Cũng dứt khoát như trong thế giới vật lý, tầm mức các âm thanh ở bên trong một vài con số rung động và tầm mức các màu sắc ở bên trong các con số sao cho các tư tưởng và đam mê chỉ có thể được biểu diễn bởi vật chất vốn rung động bên trong một vài giới hạn.


CÁC DÃY HÀNH TINH

Khi bộ phận này của công trình đã tiến triển đủ xa để cho các hành tinh có thể có được bên trong Thái dương hệ, thì một loạt 6 bầu bao gồm vật chất của các cõi có mật độ khác nhau đều được tạo thành liên quan tới mỗi hành tinh – 7 hành tinh bao gồm các hành tinh. Một chuỗi như thế được gọi là Dãy hành tinh và trong thời kỳ tiến hóa nó trải qua 7 giai đoạn hoặc kiếp sống; như vậy là có sự nối tiếp của 7 Dãy hành tinh và điều này hoàn tất cái chuỗi được gọi là một Hệ thống tiến hóa và được chịu trách nhiệm bởi một Đấng thông tuệ tâm linh đại hùng mà các nhà Thông Thiên Học gọi là một “Đấng cai quản 7 Dãy hành tinh”. (Cũng được gọi là một Hành tinh Thượng Đế, nhưng tên gọi này gây ra lầm lộn).
Có 10 Đấng Hành tinh Thượng Đế trong Thái dương hệ của chúng ta, nhưng chỉ có 7 Đấng đang biểu lộ, được quản trị bởi “7 Chơn linh trước ngai Thượng Đế” mà ta thấy đề cập tới trong “kinh Khải huyền của thánh John”. Chúng ở vào các giai đoạn tiến hóa khác nhau, được đánh dấu bởi cõi vật chất mà các bầu thấp nhất hiện diện trong đó. Như vậy là các Dãy hành tinh Hải vương tinh và Địa cầu mỗi Dãy đều có ba bầu hành tinh trong cõi vật lý vì những bầu này ở mức thấp nhất khi giáng xuống vật chất, ở kiếp trung gian tức kiếp thứ tư. Bảy bầu hành tinh của Dãy Trái Đất bao gồm Hỏa tinh, Trái đất và Thủy tinh; các bầu hành tinh của Neptune tức Hải vương tinh và hai vệ tinh. Những người nào quan tâm tới bộ phận này trong việc nghiên cứu Thông Thiên Học ắt phải theo đuổi nó trong những quyển sách lớn hơn vì nó tự nhiên là rất phức tạp.


KIẾN TẠO CÁC HÌNH TƯỚNG
BẰNG LÀN SÓNG SINH HOẠT THỨ NHÌ

Ta hãy xét đến Dãy hành tinh của chính mình. Sự tiến hóa lưu hành xung quanh một Dãy hành tinh 7 lần và mỗi một trong các chu kỳ này được gọi thỏa đáng là một Cuộc tuần hoàn. Lực tiến hóa được gọi là Làn Sóng Sinh Hoạt thứ Nhì và đó là Sự Sống do Thượng Đế phóng ra qua Ngôi Hai Minh triết, Ngôi lưỡng bội Tri thức Bác ái. Nói chung thì Làn Sóng Sinh Hoạt này giáng xuống qua các bầu vật chất, gây ra sự biến dị ngày càng tăng để rồi trở lại tạo ra sự tái hợp nhất thành đơn vị.
Công việc đầu tiên của nó là cung cấp cho vật chất một vài phẩm tính, làm cho nó thích ứng để trở thành vật liệu đối với các cơ thể. Nó tuôn đổ vào trong ba loại vật chất tinh vi hơn vốn tạo thành cõi thượng trí; vật chất được thấm nhuần Làn Sóng Sinh Hoạt thứ Nhì ấy khi mang tính nguyên tử thì được gọi là “Tinh hoa Chơn thần” vì nó đã trở nên thích hợp để được dùng cung cấp nguyên tử trường tồn cho các Chơn thần. [Xem Tiết I trang 24]; khi ta dùng vật chất không nguyên tử tức là phân tử thì nó được gọi là “Tinh hoa Ngũ hành”, một tên gọi được vay mượn từ những tác phẩm của các Huyền bí gia trung cổ, họ vay mượn nó đối với vật chất thuộc các cơ thể của tinh linh thiên nhiên vì họ nói tới các thứ này là “Tinh linh Ngũ hành”, phân chia chúng ra thành từng lớp thuộc về bốn “Hành” : Đất, Nước, Gió và Lửa.
Ba mức cao (cảnh) của cõi trí tuệ xét về Tinh hoa Ngũ hành cõi trí tuệ được gọi là “Giới Tinh linh Ngũ hành đầu tiên”. Mọi “hình tư tưởng” trừu tượng tạo ra từ điều này và một đội ngũ thiên thần rực rỡ và rộng lớn – các Thiên thần Vô Sắc tướng – có cơ thể bao gồm vật chất này. Bốn mức thấp của cõi trí tuệ tràn đầy Làn Sóng Sinh Hoạt thứ Nhì, tạo thành “Giới Tinh linh Ngũ hành thứ Nhì” nó được dùng để tạo ra cơ thể của các thiên thần cấp thấp tức Thiên thần Sắc giới. Khi Làn Sóng Sinh Hoạt nhập vào cõi trung giới thì vật chất nguyên tử trở thành Tinh hoa Chơn thần cõi trung giới, còn vật chất phân tử trở thành Tinh hoa Ngũ hành cõi trung giới tức “Giới Tinh linh Ngũ hành thứ Ba”, cơ thể của các Thiên thần thấp nhất – Thiên thần Đam mê – cũng như nhiều tinh linh thiên nhiên bao gồm chất này.
Làn Sóng Sinh Hoạt lại chuyển sang cõi hồng trần và tiến hành nhiệm vụ quen thuộc của mình; cơ thể của các tinh linh thiên nhiên cấp thấp, tiên, thần lùn v.v. . . đều được tạo thành từ vật chất dĩ thái thấm nhuần làn sóng sinh hoạt ấy. Giới Khoáng vật là bước ngoặc của mật độ, ở đó một nửa thứ nhì của công trình Làn Sóng Sinh Hoạt diễn ra, việc kiến tạo các cơ thể, cây cối, con thú và con người giờ đây ở trên vòng cung đi lên; các cơ thể thuộc cõi trung giới và cõi trí tuệ cũng được kiến tạo bằng Tinh hoa Ngũ hành trên vòng cung đi lên này. Vì thế cho nên sự xung đột thường xảy ra giữa sự sống của con người và sự sống của vật chất thuộc các hạ thể của y. Sự sống của các vật chất hạ thể có khuynh hướng đi xuống dưới, tìm cách thể hiện ngày càng thô trược hơn và biến dị sắc xảo hơn; sự sống của Chơn ngã hướng lên trên và đang tìm cách hiệp nhất.
Thánh Paul tự nhiên là đã kêu lên về cuộc xung đột này: “Tôi thấy có một luật lệ nữa trong tứ chi của tôi giao chiến chống lại luật trí tuệ và khiến tôi bị cầm tù trong luật tội lỗi vốn ở nơi tứ chi của mình?” Chơn nhơn phải chế ngự được “xác thịt”, vì sự sống của xác thịt là tiến hóa theo chiều đi xuống trên vòng cung đi xuống, còn sự sống của Chơn nhơn tiến hóa theo chiều đi lên trên vòng cung đi lên để dẫn đường tới việc thực chứng Tinh thần.


LÀN SÓNG SINH HOẠT THỨ BA
KHIẾN CHO TINH THẦN GIÁNG LÂM

Cái mức mà Chơn nhơn dứt khoát “biệt lập ngã tính” đó là khi Chơn thần và Cung của nó – Tinh thần, Trực giác và Trí tuệ - đã suy gẫm trên những hình tướng đang tiến hóa được tiến hành trong lòng Làn Sóng Sinh Hoạt thứ Nhì, nó lóe xuống để gặp sự sống hiện thân đang tiến hóa; thế là thể nguyên nhân được tạo ra bằng vật chất của Giới Tinh linh Ngũ hành thứ Nhất trên các mức độ cao siêu của cõi trí tuệ. Các Chơn thần của con người cũng sinh ra trên một dòng chảy thiêng liêng, “Làn Sóng Sinh Hoạt thứ Ba” xuất phát từ Thượng Đế thông qua Ngôi Một của mình. Thế là ta thấy rằng Thượng Đế phóng ra ba làn sóng mạnh mẽ trong Sinh Hoạt của mình thông qua ba Ngôi nối tiếp: Ngôi Một uốn nắn và cấp sự linh hoạt cho vật chất; Ngôi Hai truyền thụ các phẩm chất và kiến tạo các hình tướng; Ngôi Ba đưa Chơn thần con người xuống để hiệp nhất với các hình tướng mà Ngôi Hai chuẩn bị.


CÁC GIỐNG DÂN CHÍNH VÀ GIỐNG DÂN PHỤ

Giờ đây ta phải thu hẹp sự chú ý của mình vào thế giới của chính mình. Cơ tiến hóa đã quét qua ba lần xung quanh chuỗi hành tinh mà trái đất là hành tinh thô nhất – phía sau lưng ta đã có ba Cuộc tuần hoàn. Cuộc tuần hoàn thứ tư đã đi xa như trái đất, trái đất giờ đây đang tiến hóa trong vòng ảnh hưởng của nó. Khoáng vật, động vật, nhân loại đều cùng nhau tiến hóa, nhưng ta có thể hạn chế vào con người. Bảy mẫu căn chủng của con người (giống dân chính) tiến hóa trên trái đất trong giai đoạn sống này. Các nhà Thông Thiên Học gọi các nguyên mẫu này là các căn chủng và mỗi căn chủng đều có “lục địa” đặc biệt của mình tức cấu hình của đất đai.
Hai căn chủng đầu tiên đã biến mất. Về phần căn chủng thứ ba, Lemuria, vốn nở rộ trên châu lục Lemuria, giờ đây phần lớn ở bên dưới Thái bình dương, hầu như không còn một mẩu thuần chủng nào nữa; người da đen là hậu duệ của chúng do những cuộc hôn nhân dị chủng. Căn chủng thứ tư là người Atlante rải rác trên trái đất từ châu Atlantis vốn nối liền Tây Âu và Phi châu với miền Đông châu Mỹ; nó kiến tạo một số nền văn minh hùng mạnh nhất mà thế giới đã từng biết đến, và phần lớn cư dân trên thế giới này vẫn còn thuộc về nó. Người Aryen thuộc căn chủng thứ năm, lãnh đạo nhân loại thời nay.
Căn chủng thứ sáu vẫn còn trong vòng tương lai nhưng châu lục của nó đang bắt đầu được tạo lập và hầu hết là chiếm địa điểm châu Lemuria, các đảo giờ đây đang trồi lên ở miền Bắc Thái bình dương là biểu thị sự khởi đầu một công trình vốn sẽ đòi hỏi hàng trăm ngàn năm để hoàn thành. Căn chủng thừ bảy còn xa tít mãi nữa.
Mỗi căn chủng được chia thành bảy chi chủng (giống dân phụ); chúng ta có bốn căn chủng được chia thành các chi chủng Rmoahal, Tlavatli, Toltec, Turanian, Semitic, Akkadian và Mông cổ.
Cho đến nay căn chủng thứ năm đã tạo ra 5 chi chủng: Ấn độ, Ả rập, Iran, Keltic, Teutonic; chi chủng thứ sáu đang bắt đầu biểu lộ ở Mỹ.
Với vai trò tạo hình kiểu mẫu và canh giữ cuộc tiến hóa, mỗi căn chủng đều có một đấng cao cả gọi là “Bàn Cổ”; Manu có từ nguyên là man, vốn là gốc của từ “man” tiếng Anh, “homme” tiếng Pháp, “mann” tiếng Đức. v.v. . . Bàn Cổ là người kiểu mẫu của một căn chủng. Ta có thể nhận biết được những loại hình căn chủng lớn bằng cách xếp cạnh nhau một người da đen, một người Mông cổ và một người Aryen. Những sự khác nhau về giống dân phụ được thể hiện qua một người Đức và một người Ý. Ta ắt thấy rằng các đề tài nghiên cứu bao la được mở ra ở đây thật là thú vị sâu sắc, mặc dù không tác dụng trực tiếp tới hạnh phúc và cách ứng xử của con người.


TIẾT VII

HỘI THÔNG THÊN HỌC

Hội Thông Thiên Học được thành lập năm 1875 do một người Nga là Helena Petrovna Blavatsky và một người Mỹ là Henry Steel Olcott. Bà Blavatsky mang lại kiến thức huyền bí uyên bác của mình và toàn bộ sự xả thân – bà thuộc về một gia đình trâm anh thế phiệt người Nga; ông Olcott đóng góp năng lực tổ chức phi thường và đã chứng tỏ mình phụng sự cho tổ quốc trong việc thanh lọc Bộ Quốc phòng vào kỳ nội chiến. Thoạt tiên khi tái khẳng định Minh triết Cổ truyền trong thế giới hiện đại, họ gặp một cơn lốc xoáy điều chế nhạo và khinh bỉ. Thế nhưng các ý tưởng đã được truyền bá vào mọi quốc gia văn minh, và ta có thể nói mà không sợ cãi lại là ngày nay nó đang ảnh hưởng tới trọn cả thế giới tư tưởng.
Cơ sở của Hội hơi đặc thù một chút, chỉ có một điều ràng buộc bất kỳ hội viên nào, là việc chấp nhận Tình Huynh Đệ Đại Đồng.
Các mục tiêu của nó là:
1- Tạo thành một hạt nhân Huynh đệ Đại đồng trong Nhân loại, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, giới tính, giai cấp hoặc màu da.
2- Khuyến khích việc nghiên cứu Khoa học, Triết học và Tôn giáo đối chiếu.
3- Khảo cứu những định luật còn chưa được giải thích trong Thiên nhiên và những quyền năng tiềm tàng trong con người.
Ta ắt thấy rằng không bắt buộc hội viên phải tin hoặc truyền bá giáo huấn Thông Thiên Học. Mỗi hội viên đều được để hoàn toàn tự do nghiên cứu đúng cái điều mà mình chọn; y có thể chấp nhận hoặc bác bỏ bất kỳ giáo huấn Thông Thiên Học nào; y vẫn còn thuộc về tôn giáo của chính mình: Ấn giáo, Bái Hỏa giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Ki Tô giáo, Hồi giáo; và nếu y tuân theo tôn giáo mình một cách triệt để thì nó sẽ tô điểm mọi ý tưởng của mình. Nếu y chấp nhận giáo huấn Thông Thiên Học thì một người tin tưởng mạnh mẽ vào bất kỳ dạng tôn giáo đặc biệt nào đều trình bày tôn giáo ấy dưới dạng của riêng mình và được hoàn toàn tự do làm như thế. Nhưng y không được khăng khăng buộc những người khác phải chấp nhận dạng tôn giáo của riêng mình.
Việc thí nghiệm tạo ra một đoàn thể tôn giáo sâu sắc cởi mở với các thành viên của mọi tôn giáo cũng là một thí nghiệm độc nhất vô nhị nhưng nó đang dần dần thành công với nhiều khó khăn, đôi khi có sự mâu thuẫn giữa các thành viên bám khư khư lấy những quan điểm đối nghịch và nhiều điều bàn luận trong chi tiết. Chính sách chủ yếu hoàn toàn khoan dung và lý do cần có chính sách này đã được chính tôi hoạch định mà không bị bất cứ hội viên nào chống đối. Vì vậy nó có thể được trình bày là nêu rõ quan điểm chung.
Người ta không yêu cầu khi y gia nhập Hội thì phải có ý kiến tôn giáo nào, người ta cũng không được phép can thiệp vào những ý kiến tôn giáo ấy, nhưng mọi người đều được yêu cầu phải tỏ ra tôn trọng tôn giáo của hội viên đồng đạo với mình cũng giống như đối với tôn giáo của chính mình.
Hội không có giáo điều và do đó không có dị giáo. Nó không xua đuổi bất kỳ người nào vì y không tin vào giáo huấn Thông Thiên Học. Một người có thể chối bỏ bất kỳ giáo huấn nào ngoại trừ giáo huấn Tình Huynh Đệ trong Nhân loại, đòi hỏi địa vị và quyền lợi của mình bên trong hàng ngũ của nó.
Các nhà Thông Thiên Học nhận thức rằng chỉ vì trí năng có thể làm việc tốt nhất trong bầu không khí tự do, cho nên ta chỉ thấy rõ nhất sự thật khi không một tình huống nào được nêu ra về quyền khảo cứu cũng như phương pháp nghiên cứu. Đối với họ Chơn lý là điều tối cao đến nỗi họ không muốn ràng buộc bất cứ người nào bằng những điều kiện và việc làm thế nào hoặc ở đâu hoặc tại sao y sẽ mưu tìm được nó.
Tương lai của Hội tùy thuộc vào sự kiện là nó ắt bao trùm đủ thứ ý kiến về mọi vấn đề vốn bất đồng ý kiến; ta không nên để cho chỉ có một trường phái tư tưởng trong nội bộ Hội, và bổn phận của mọi hội viên là phải giữ gìn cho bản thân và cho người khác sự tự do này. Hội Thông Thiên Học là người phục vụ Minh triết Thiêng liêng và khẩu hiệu của nó là: “Không có tôn giáo nào cao hơn Chơn lý”. Trong mọi sai lầm nó đều tìm ra được cái cốt lõi của sự thật mà nó sống nhờ vào đó và nó gắn liền tâm trí con người với sự thật ấy.
Mọi tôn giáo, mọi triết lý, mọi khoa học, mọi hoạt động đều rút tỉa được sự thật và điều mỹ lệ từ Minh triết Thiêng liêng, nhưng không thể coi đó là độc quyền của mình hoặc chống lại người khác. Thông Thiên Học không thuộc về Hội Thông Thiên Học, chính Hội Thông Thiên Học mới thuộc về Thông Thiên Học.
Hội Thông Thiên Học bao gồm những người nghiên cứu thuộc về bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới hoặc không thuộc về tôn giáo nào; họ hiệp nhất với nhau nhờ tán thành những mục tiêu nêu trên, vì muốn dẹp bỏ những bất đồng tôn giáo và thu hút những người có thiện chí lại với nhau, bất chấp ý kiến tôn giáo của họ và việc họ muốn nghiên cứu những sự thật tôn giáo, chia xẻ những kết quả của việc nghiên cứu cùng với người khác.
Mối ràng buộc hiệp nhất của họ không phải là rao giảng một đức tin chung mà là có chung nhau một sự khảo cứu và khao khát Sự Thật.
Họ chủ trương rằng Chơn lý có thể được mưu tìm bằng cách nghiên cứu, suy gẫm, có cuộc sống thanh khiết, tận tụy với những lý tưởng cao thượng và họ coi Sự Thật là một phần thưởng mà mình phải phấn đấu để đạt được chứ không phải là một giáo điều bị quyền uy áp đặt lên.
Họ coi tín ngưỡng ấy là kết quả của việc nghiên cứu cá nhân tức trực giác chứ không phải là điều có trước nó và họ dựa vào kiến thức chứ không dựa vào điều quả quyết.
Họ mở rộng lòng khoan dung tới cho tất cả, ngay cả đối với những kẻ không khoan dung; đó không phải là một đặc quyền mà họ ban cấp song là một bổn phận mà họ phải thi hành và họ tìm cách loại trừ vô minh chứ không trừng phạt nó.
Họ thấy mọi tôn giáo là một biểu hiện riêng phần của Minh triết Thiêng liêng và thích nghiên cứu nó hơn là kết tội nó, thực hành nó hơn là chiêu mộ tân tòng.
Hòa Bình là khẩu hiệu của họ, còn Chơn Lý là mục tiêu của họ.
Thông Thiên Học là tập hợp những sự thật tạo thành nền tảng của mọi tôn giáo và bất kỳ tôn giáo nào cũng không thể rêu rao nó thuộc sở hữu độc quyền của mình. Các hội viên Thông Thiên Học nghiên cứu những Sự Thật này và các nhà Thông Thiên Học nỗ lực sống với chúng. Mọi người đều sẵn lòng nghiên cứu, khoan dung, nhắm về điều cao thượng và hoạt động một cách kiên trì; họ được hoan nghênh là một hội viên và hội viên có bổn phận trở thành một nhà Thông Thiên Học chân chính.
Tôi có thể nói thêm rằng hầu hết chúng ta đều coi Hội Thông Thiên Học là kết quả của xung lực tâm linh do Quần Tiên Hội phóng ra để cứu vớt thế giới khỏi đắm chìm vào Chủ nghĩa Duy vật, và chuẩn bị tâm trí con người để khôi phục giáo huấn bí truyền trong tôn giáo. Đối với chúng ta đó là xung lực mới nhất trong nhiều xung lực như thế, các xung lực trước kia được thể hiện nơi các tôn giáo riêng biệt trong khi xung lực này ra sức thu hút các tôn giáo hiện hữu để hợp tác thân hữu thống nhất. Chúng tôi coi H. P. Blavatsky là Sứ giả của Quần Tiên Hội và nhiều người trong chúng tôi, bản thân tôi trong số đó, đều cảm thấy biết ơn bà sâu sắc nhất vì trong kiếp này bà mở ra cho chúng tôi cánh cổng mà thông qua đó chúng ta đã có được sự hiện diện của những Đấng đã biệt phái bà tới.

H Ế T
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:44 am


NỀN TẢNG CHUNG CỦA MỌI TÔN GIÁO

The Common Foundation of All Religions

Bản Dịch Hạnh Như 2008

Trước khi tiến hành thuyết trình, tiên khởi tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của bà Blavatsky (bạn đồng liêu bác học của tôi) và chính tôi về sự hoan nghênh nồng nhiệt và đặc biệt mà Ủy ban của quí vị đã dành cho chúng tôi khi vừa chân ướt chân ráo tới đây, và việc tụ tập đông đảo bao gồm một số lớn những người có giáo dục thuộc Chủ tịch đoàn. Như vậy chúng tôi có thêm một bằng chứng nữa về sự kiện công tác của chúng tôi ở Ấn Độ đã tiến triển nhờ được giới trí thức ở bán đảo Ấn Độ giám sát với sự chú tâm trìu mến. Một lần nữa, khi lần đầu tiên viếng thăm thị trấn của Chủ tịch đoàn, chúng tôi thấy mình hòa lẫn vào những người bạn mà không thể hiểu lầm được việc họ thành thật hoan nghênh chúng tôi; điều đó chắc chắn chứng tỏ rằng người ta không đón tiếp chúng tôi như những kẻ xa lạ mà là những người anh em từ vùng đất xa xôi trở về với dân tộc của mình. Chúng tôi hi vọng rằng những mối liên hệ anh em mà chúng tôi đã tạo ra với nhau có lẽ chẳng bao giờ bị cắt đứt mà sẽ càng ngày càng lớn mạnh hơn khi thời gian khiến cho tất cả chúng ta thấy mình cần phải thống nhất nỗ lực vì chính nghĩa thiêng liêng phục vụ cho quyền lợi của Ấn Độ. Tôi tin rằng quí vị sẽ kiên nhẫn chú ý tới những tư tưởng mà giờ đây tôi sẽ trình bày để cho quí vị xem xét.
Theo ông Herbert Spencer thì “Tôn giáo là một thực tại lớn lao (tôi xin nói là lớn nhất) và là một sự thật vĩ đại – không kém phần là một yếu tố bản thể và bất hoại trong bản chất con người”. Ông chủ trương rằng các định chế tôn giáo trên thế giới đều biểu diễn một tình cảm chân thực phổ biến khắp thế giới trong nhân loại cũng đúng sự thật như bất kỳ định chế nào khác. Ta không được lẫn lộn những điều mê tín dị đoan thêm thắt vào (chúng đã tràn lan và làm xuyên tạc tình cảm tôn giáo) với bản thân tình cảm tôn giáo. Điều này xảy ra quả thật là một lỗi lầm đầy ác ý đối với cả những nhà tôn giáo lẫn những người chống tôn giáo. Khi quét sạch những khối u nhọt này, Khoa học luôn luôn đưa chúng ta tới gần sự thật căn bản và do đó nó phục vụ và là thân hữu với tôn giáo chân chính. Căn bản của sự thật là một bình nguyên rộng lớn gồm một tảng đá mà thượng tầng kiến trúc thần học của thế giới được xây dựng trên đó. Theo như tựa đề trong bài thuyết trình của chúng tôi thì đó là “nền tảng chung của mọi tôn giáo”.
Thế thì nó là cái gì vậy? Tảng đá ấy là cái gì? Đó là một khối hỗn hợp mà thành phần cấu tạo có nhiều hơn một yếu tố. Trước hết ta cần có ý niệm là một bộ phận trong bản chất con người không hề mang tính vật lý; kế đó là ý niệm về việc bộ phận phi vật lý này vẫn tiếp tục tồn tại sau khi cái xác chết; thứ ba là có tồn tại một Nguyên thể Vô cực ẩn bên dưới mọi hiện tượng; thứ tư là có một mối quan hệ nào đó giữa Nguyên thể Vô cực này và bộ phận phi vật lý của con người.
Cả nhà khoa học lẫn nhà thần học giờ đây đều công nhận sự tiến hóa của quan niệm lớn lao hơn bắt nguồn từ quan niệm trí thức thấp kém hơn theo cái trình tự phân bậc này. Sự tiến hóa ấy có kèm theo một sự thải trừ vì trong tôn giáo cũng như mọi địa hạt khác của tư tưởng, ta không thể thấy được ánh sáng chừng nào chưa xua tan được các đám mây đen. Sự thật nguyên thủy là ánh sáng còn thần học là các đám mây và chúng vẫn cứ là đám mây mặc dù chúng lóng lánh với mọi sắc thái của quang phổ. Bái vật giáo, việc thờ cúng động vật, sùng bái anh hùng, thờ cúng tổ tiên, sùng bái thiên nhiên, sùng bái kinh sách; thuyết đa thần, độc thần, hữu thần, linh thần, vô thần, duy vật (bao gồm cả thuyết vật chứng), thuyết bất khả tri; việc mù quáng tôn thờ ngẫu tượng, việc mù quáng tôn thờ lò đúc – đó là Thủy và Chung của mọi tư tưởng tôn giáo thuộc loài người, là thước đo mức độ mù quáng tương đối về tâm linh.
Mọi khái niệm này đều phải đi qua một lăng kính duy nhất đó là tâm trí con người. Chính vì thế mà chúng ta mới bất toàn, không phù hợp, mang tính nhân bản xiết bao. Một con người chẳng bao giờ thấy được trọn cả ánh sáng bằng cách nhìn từ bên trong cơ thể mình ra bên ngoài; cũng giống như người ta không thể thấy được ánh sáng thanh thiên bạch nhật qua kính cửa sổ đã bị bụi làm cho mờ tối hoặc nhìn thấy những ngôi sao qua một thấu kính phản chiếu lem luốc. Tại sao vậy? Bởi vì các giác quan của thể xác chỉ thích ứng với những sự vật của cõi hồng trần và tôn giáo thì vốn thuộc về siêu việt. Sự thật của tôn giáo không phải là một điều mà ta quan sát được bằng giác quan hồng trần song đó là một điều để cho trực giác thông linh kiểm nghiệm. Kẻ nào chưa phát triển được quyền năng tâm linh này thì y không thể biết được tôn giáo như là một sự kiện; y chỉ có thể chấp nhận nó là một tín điều hoặc tô vẽ nó cho bản thân coi như là một sự đa cảm của xúc động. Sự ngu tín là cái khẩu hiệu mà người ta khoác lên một xúc cảm, còn sự bồng bột là một khẩu hiệu khác dành cho xúc cảm khác. Ẩn sau cả hai thứ này là sự Đa nghi vốn cũng đe dọa cả hai thứ.
Cũng giống như con người, tôn giáo cũng trải qua nhiều giai đoạn; một là tuyên cáo, tuyên truyền, tử vì đạo; hai là chinh phục, tín ngưỡng; ba là lơ là, tự phê bình; bốn là suy đồi, ngoan cố bám lấy hình thức; năm là đạo đức giả; sáu là thỏa hiệp; bảy là suy thoái và diệt vong. Và cũng giống như loài người, không một tôn giáo nói chung nào mà không lần lượt trải qua những giai đoạn ấy. Ngay chính vào lúc hiện tại, ta thấy người thổ dân Úc châu đắm chìm vào vực sâu của thuyết bái linh vật; người da đỏ Mỹ châu vừa mới thoát ra khỏi Thời kỳ Đồ đá, còn người Âu châu đang sung mãn trong cao trào văn minh vật chất. Thế là chỉ cần thoáng nhìn qua lịch sử tôn giáo ta cũng thấy các trường phái và giáo phái rất dị giáo mọc ra trong mỗi tôn giáo lớn; mỗi trường phái này đều tiêu biểu cho sự đi chệch đặc biệt ra khỏi chính thống giáo nguyên thủy, một số tiến riêng biệt theo con đường hướng về mục tiêu tối hậu mà chúng tôi vừa phác họa. Cũng giống như vị y sĩ quan sát các triệu chứng của bệnh nhân, tôi cũng lưu ý thấy rằng lịch sử thường xuyên biểu lộ thành những sự ghét cay ghét đắng lẫn nhau giữa các bè phái và giáo phái này; đây là bằng chứng rõ rệt nhất về tính đúng đắn của tiên đề khi chúng tôi phát biểu – mới vừa đây – rằng bộ óc phàm của con người trên cõi trần chẳng bao giờ thật sự biết được Tôn giáo. Tất cả những sự thù ghét cay đắng và trả thù độc ác của giáo phái này đối với giáo phái kia, của tín ngưỡng của thế giới này đối với tín ngưỡng của thế giới kia, cho thấy rằng con người đã nhầm lẫn điều không cốt yếu lại coi là điều cốt yếu, điều hão huyền lại coi là thực tại.
Ta có thể trắc nghiệm lại phát biểu này một cách dễ dàng nhất. Ta hãy tạm thời bỏ qua cái cuộc chiến tranh này của các nhà thần học để xét tới lớp người đã phát triển được thần thông và ta thấy điều gì? Thay vì là sự tranh chấp thì lại có sự thái bình, thỏa thuận, khoan dung lẫn nhau, tán thành một cách đầy tình huynh đệ về những điều căn bản của tôn giáo. Cho dù tín ngưỡng công truyền của họ ra sao đi nữa thì họ vẫn cao cả hơn và vượt xa tín ngưỡng ấy, sự thánh thiện bẩm sinh và bản chất hiền hòa của họ đã mang lại sức sống và sức mạnh cho Giáo hội mà họ đại diện; họ là những đóa hoa của cái cây nhân loại, là anh em của toàn thể loài người, vì họ biết đâu là cái ánh sáng tỏa chiếu đằng sau những đám mây; họ thấy được cùng một tảng đá bên dưới nền móng của mọi Giáo hội. Tôi xin yêu cầu những vị nào muốn tin chắc về sự kiện này hãy đọc tác phẩm Dabistan của Mohsan Fami, trong đó ông ghi chép lại những quan sát của mình về các vị sādhus thuộc 12 tôn giáo khác nhau cách đây hai thế kỷ. Kẻ đa nghi thời nay ắt bảo rằng: “Cứ chấp nhận mọi tiên đề ấy đi thì làm sao ông có thể chứng minh cho tôi biết rằng khoa học đã chẳng quét sạch mọi giả thuyết tôn giáo ấy cùng với các thần thoại, huyền thoại, điều mê tín dị đoan và những điều cồng kềnh khác?” Được thôi, tôi xin trả lời rằng: “Có đấy”. Thông Thiên Học đang được xây dựng ngay chính trên cái đường lối dữ liệu ấy. Một số người nghĩ rằng chúng tôi chống đối lại Khoa học; nhưng ngược lại, chúng tôi nồng nhiệt ủng hộ khoa học chừng nào nó chưa bắt đầu giáo điều hóa những sự kiện mới xuất phát từ những dữ liệu đã biết nhưng chưa hoàn chỉnh. Khi khoa học đạt tới mức giáo điều như vậy thì chúng tôi sẽ thách đố nó, chiến đấu chống lại nó hết sức mình cũng chẳng khác nào khi chúng tôi chiến đấu chống lại sự giáo điều trong thần học. Đó là vì theo ý tôi thì chẳng có gì quan trọng khi bạn mù quáng tôn thờ một vật linh, một con người, một quyển kinh sách hoặc một cái lò đúc – đó cũng đều là việc mù quáng sùng bái ngẫu tượng; Khoa học có thể và đã từng độc ác vô lương tâm theo một đường lối giống như Giáo hội đã từng như vậy.
Bước đầu tiên là ta phải đồng ý được với nhau xem từ ngữ “Khoa học” có nghĩa là gì. Tôi coi khoa học là việc tập hợp và sắp xếp những sự kiện mà ta quan sát được về Thiên nhiên. Nếu đúng là như vậy thì tôi xin phản đối những biện pháp nửa vời; tôi muốn những quan sát ấy phải hoàn chỉnh bao quát trọn cả Thiên nhiên chứ không chỉ là một nửa của Thiên nhiên. Chẳng biết đó là cái loại bản thể học nào khi ta giả vờ điều tra về các định luật thuộc bản thể mình mà chỉ chú ý tới giải phẫu cơ thể học, sinh lý học và bất cứ thứ gì liên quan tới cái khung thể xác của con người mà lại bỏ qua tất cả những gì liên quan tới chức năng tâm trí của nó? Bạn ắt bảo rằng thật phi lý, nhưng tôi xin hỏi bạn liệu việc nghiên cứu thể xác mà không có tâm trí có phi lý hay chăng so với khi nghiên cứu con người cả về thể xác lẫn tâm trí mà lại lờ đi những biểu lộ vượt xác phàm của bản chất trung gian của một con người . Bạn ắt muốn tôi định nghĩa xem tôi ngụ ý muốn nói gì về cái “bản chất trung gian” và những biểu lộ vượt xác phàm: tôi xin thực hiện điều ấy bằng cách bắt đầu với đề nghị rằng nơi một con người có nhiều hơn mức ta có thể đốt nó bằng lửa, dùng cọp để ăn thịt nó, dùng nước để làm cho nó chết đuối, dùng dao để chặt nó ra thành từng mảnh hoặc chôn vùi nó dưới đất để cho thối rữa. Nhà duy vật ắt chối bỏ điều này nhưng việc đó chẳng có gì quan trọng; ta có thể dễ dàng chứng tỏ đề nghị nêu trên cũng giống như chứng tỏ y là một con người.
Ở Âu Tây có một khoa học được gọi là Tâm lý học: đây là việc gọi không chính xác, thật ra đó là một loại môn học khác nhưng ta chẳng cãi nhau về từ ngữ làm chi. Được thôi, khi bạn thử phân tích ý niệm của phương Tây ẩn bên dưới thuật ngữ Tâm lý học này thì bạn ắt phát hiện ra rằng nó chỉ liên quan tới những biểu lộ trí thức bình thường và bất bình thường của bộ óc. Một lớp nhà khoa học – nhất là những nhà tâm thần học nghiên cứu về bệnh điên – quả quyết rằng tâm trí là chức năng của não thất bằng chất xám thuộc các thùy của bộ óc, nếu ta làm tổn thương bộ óc bằng bất kỳ một hình thức tai nạn nào, thì cảm giác bị cắt đứt, tư tưởng ngưng tồn tại, tâm trí bị tiêu diệt, thế là biến mất thực thể biết suy tư do đó có trách nhiệm. Mọi thứ còn lại chỉ là cái xác chết thối rữa và trước khi có tai nạn thì từ cái xác chết thối rữa này có năng lượng điện từ nảy sinh ra mọi thứ phân biệt con người với con thú thấp nhất, cũng giống như hoa sen mọc giữa bùn.

Phe chống lại thì khẳng định rằng bộ óc là cơ quan của tâm trí, là bộ máy để biểu lộ tâm trí và cái điều gì đó biết suy tư nơi con người vẫn còn suy nghĩ và vẫn còn tồn tại cho dẫu bộ óc đã tan nát, cho dẫu con người đã chết. Một đằng thì suy nghĩ theo luận điệu của khoa học duy vật, một đằng thì suy tư theo lối của Giáo hội Ki Tô và của số đông cái gọi là các nhà Thần linh học hiện đại. Phái duy vật coi con người là Đơn nhất, là một bộ máy biết suy tư; phái kia coi con người là Lưỡng tính, một tổ hợp của phần xác và phần hồn. Trong cả hai trường phái này không hề có chỗ đứng cho một “bản chất trung gian”. Thật ra thì thỉnh thoảng bạn cũng thấy có một lời bóng gió thoáng qua nào đó về một nguyên khí thứ ba cao siêu hơn tức “Tinh thần”; chẳng hạn như trong kinh Tân Ước của Ki Tô giáo (Thánh thư Thassaloniaus, V, 23) khi thánh Paul bảo rằng: “Tôi xin cầu nguyện Thiên Chúa cho trọn cả tinh thần, phần hồn và phần xác của quí vị được bảo tồn không bị tì vết cho đến khi Chúa Giê su Ki Tô phục lâm – đây là một phát biểu cho dù lành mạnh đối với thần học thì lại mơ hồ chết người và phi chính thống đối với khoa học. Nhưng trọn cả sự lơ mơ trong giáo huấn Ki Tô cũng như giáo huấn của đồng cốt đều ủng hộ cho thuyết lưỡng tính này; khi thể xác chết đi thì nguyên thể thứ nhì bước vào đời sinh hoạt mới mẻ của riêng mình cho đến khi nó đạt được một trạng thái theo định đề một là tốt hẳn hai là xấu hẳn. Giờ đây thì những nhà quan sát có kinh nghiệm về hiện tượng đồng cốt đều đã thấy nhiều hình linh hoạt hoặc sự xuất hiện ít nhiều có thực chất của những người chết; họ coi đó là phần hồn của người chết trở về viếng thăm lại địa hạt của người còn sống. Họ chẳng có ý niệm gì về cái bản chất trung gian này. Nhưng các triết gia Ấn Độ đã phân tích con người sâu xa hơn nhiều. Thay vì là một bộ phận đơn giản hoặc một cặp lưỡng tính thì con người bao gồm không ít hơn bảy nhóm riêng biệt theo sự quả quyết của các triết gia Ấn Độ. Đó là:
1. Thể vật chất tức Stūlasarīra
2. Lingasarīra
3. Nguyên sinh khí tức Jīva
4. Kāmarūpa, sinh ra thành Māyāvirūpa
5. Trí khôn ngoan của óc phàm (tức hồn thú) - Manas
6. Trí tuệ tâm linh tức Buddhi
7. Ātmā
Và sự phân tích của họ tỉ mỉ đến nỗi mỗi một trong các nhóm này lại được chia thành bảy nhóm nhỏ. Nói chung thì các nguyên khí thứ nhất, thứ tư và thứ bảy đánh dấu biên giới của con người tam phân tức tam bội. Và nguyên khí thứ tư ở ngay giữa xác phàm (Stūlasarīra) với Ātmā tức nguyên khí vĩnh hằng thiêng liêng; nguyên khí thứ tư này chính là bản chất trung gian mà chúng ta đang tìm kiếm. Bây giờ thì người ta hỏi chúng tôi một câu tiếp nữa là liệu nguyên khí thứ tư Māyāvirūpa tức Song trùng thể (Double) này của con người là thông minh hay không thông minh, là vật chất hay tinh thần; kế nữa liệu ta có thể dùng khoa học để giải thích hoặc chứng minh được sự tồn tại của nó hay không. Chúng tôi xin lần lượt xét tới những điều này.
Tự thân cái Song trùng thể ấy chẳng qua chỉ là một đám hơi, một mớ sương mù hoặc một hình thể rắn chắc tùy theo trạng thái ngưng tụ tương đối của nó. Xét vì bên ngoài cơ thể có một loạt tình huống về khí quyển, điện, từ, địa từ và những tình huống khác cho nên hình tướng này có thể không ai thấy được, thế nhưng nó có thể gây ra những tiếng động hoặc bày ra những cuộc trắc nghiệm khác về sự hiện diện của nó; xét tới một loạt những tình huống khác thì nó có thể hữu hình nhưng giống như một đám sương mù; khi xét tới một loạt tình huống thứ ba thì nó có thể ngưng tụ để hoàn toàn thấy được hoặc thậm chí sờ mó được. Ta có thể lấp đầy hết bộ sách này đến bộ sách khác chỉ bằng vào những đoạn văn tóm tắt các trường hợp đã được ghi chép lại về các cuộc thăm viếng hiện hình này. Đôi khi hình tướng ấy biểu lộ sự thông minh, nó biết nói; đôi khi nó chỉ có thể hiện hình ra – tôi đang nói tới việc người chết hiện hình. Bản thân tôi thấy hơn 500 cuộc hiện hình như thế ở một địa điểm nơi nước Mỹ mà còn có cả trăm ngàn người khác cũng thấy; tôi đã tường thuật lại kinh nghiệm của mình dưới dạng một quyển sách mà một số nhà khoa học lỗi lạc ở Âu Tây đã ca tụng là một bản ghi chép công phu về những điều quan sát chính xác theo khoa học. Tôi chỉ đề cập tới điều đó để cho bạn biết rằng ở đây không có trường hợp nào là ảo giác hoặc phát biểu vô căn cứ. Vậy thì được thôi, ở đây ta có bản chất trung gian của con người tác động bên ngoài thể xác hoặc sau khi thể xác đã chết; mặc dù về phần mình, vì vốn tin vào tâm lý học Á đông cho nên tôi không tin rằng những sự hiện hình sau khi chết này là chính chơn nhơn tức là Chơn ngã biết suy tư và có trách nhiệm. Tôi quan niệm rằng đó chẳng qua chỉ là hình bóng mờ mờ nhân ảnh của người đã chết, là vật chất được cấp năng lượng do tàn dư của sinh lực vẫn còn vướng mắc trong các phân tử lần lửa chưa tan biến đi. Nhưng để chứng minh cho mệnh đề của mình, chúng tôi phải chứng tỏ được rằng cái nguyên khí trung gian này (Ảo thân tức Song trùng thể) có thể được tùy ý tách ra khỏi thể xác người còn sống, được phóng chiếu ra đi tới một nơi cách xa và được ý thức trọn vẹn của con người làm linh hoạt.
Chúng ta có hai phương diện để chứng minh điều này (1) qua bằng chứng hội tụ của các người chứng kiến tận mắt được ghi chép lại trong kho tài liệu của nhiều dân tộc khác nhau; (2) chứng cớ của những nhân chứng còn sống. Trong các tác phẩm triết học và tôn giáo của Ấn Độ có nhiều bằng chứng như thế. Chẳng nói đâu xa chúng tôi xin trích dẫn trường hợp Sankarāchārya, ông làm cho thể xác đê mê xuất thần, bỏ nó lại cho đệ tử canh giữ và nhập vào xác của một vị vua vừa mới băng hà, sống trong đó một vài tuần; còn trường hợp của Agastya, ông xuất hiện ngay trận chiến nóng bỏng giữa Rāma và Rāvana, trong khi thể xác đê mê xuất thần ở vùng đồi Nilghiris. Câu chuyện này được tường thuật trong tác phẩm Rāmāyana. Trong Yoga Sutras của Patañjali, người ta khẳng định hiện tượng này nằm trong quyền năng của mọi người thành tựu Siddha, vốn đã đạt được toàn bích về khoa Yoga. Về phần nhân chứng còn sống thì tôi là một trong những người ấy vì tôi đã thấy Song trùng thể của nhiều người tác động một cách thông minh ở cách xa thể xác họ. Và trong quyển sách nhỏ này giờ đây tôi xin trình bày cho quí vị (Những điều bóng gió về Thông Thiên Học bí truyền, Calcutta, 1882) ta thấy có chứng nhận của không ít hơn 9 nhân vật nổi tiếng – 5 người Ấn Độ và 4 người Âu châu – họ đã thấy những sự xuất hiện như thế vào nhiều dịp khác nhau chỉ nội trong hai năm vừa qua. Thế rồi ta có cả chục những sự chứng nhận tương tự của những người đáng tin cậy sống ở những nơi khác nhau trên thế giới mà ta đọc thấy được trong nhiều tác phẩm của Âu Tây bàn về những đề tài này. Tôi không cho rằng một công chúng đa nghi lại hi vọng coi mớ bằng chứng này là có tính thuyết phục chẳng dè dặt chút nào; hiện tượng được trích dẫn vượt quá kinh nghiệm thông thường của con người đến nỗi muốn tin nó là thực tại thì mỗi người phải tự mình thấy và tin. Tuy nhiên tôi xin khẳng định rằng ở đây chúng tôi có một trường hợp có nhiều xác suất là đúng vì theo những qui điển nghiêm nhặt nhất trong khoa học chính thống thì chúng tôi không thể nghi ngờ việc biết bao nhiêu nhân chứng cá biệt lại đồng lỏa với nhau để nói dối; họ chưa bao giờ gặp hoặc nghe nói tới những người kia, thật ra thậm chí họ cũng không sống cùng một thế hệ; thế nhưng chứng cớ của họ bổ sung lẫn nhau.
Nhưng nếu chúng tôi có một trường hợp có lẽ là đúng thì nhà khoa học ắt hỏi chúng tôi liệu chúng tôi kế đến muốn yêu cầu khoa học điều gì. Liệu chúng tôi có viện dẫn ra được một lời giải thích tự nhiên và hợp khoa học hay chăng hoặc đó là một lời giải thích siêu tự nhiên vì vậy không hợp khoa học xét về hiện tượng Song trùng thể của người sống xuất ra và người chết hiện hình? Tôi chắc chắn rằng mình sẽ trả lời theo kiểu tự nhiên và khoa học. Tôi vốn tận tụy với Khoa học đến mức chối bỏ mạnh mẽ sự kiện có một hiện tượng phép lạ đã từng xảy ra trong thời đại này hoặc bất kỳ thời đại nào. Bất cứ điều gì phải xảy ra ắt phải được thực hiện trong khuôn khổ của định luật thiên nhiên. Nếu giả sử điều gì khác hơn thì cầm bằng như bảo rằng trong các định luật của vũ trụ không có sự thường hằng và người ta có thể dẹp chúng sang một bên, dùng một Quyền năng vô trách nhiệm xía vào để đùa giỡn theo ngẫu hứng. Chúng ta ắt sẽ ở trong một vũ trụ cà giựt, khởi động và bị dừng lại giống như một cái đồng hồ mà con nít đang chơi. Thuyết siêu tự nhiên này ắt là lời nguyền rủa cho mọi tín ngưỡng, nó treo lơ lửng như một cái lưỡi dao của đao phủ thủ treo lủng lẳng trên cổ các tôn giáo và chỉ chuốc lấy lời châm biếm của kẻ đa nghi. Nó là cái rễ khô đã bị hết chất nhựa vốn ăn sâu vào tâm khảm của bất cứ tín ngưỡng nào dựa trên nó. Nếu nó được đưa vào trong đoàn thể của một giáo hội thì nó đã tiên liệu trước sự hủy diệt tối hậu cũng chắc chắn như khối u ác tính ẩn tàng lẫn vào hệ thống cơ thể con người mà một ngày kia sẽ giết chết cơ thể. Và trong mọi thời kỳ thì thế kỷ 19 này là một thế kỷ tồi tệ nhất mà những kẻ ủng hộ tôn giáo siêu tự nhiên ra mặt công khai trước công chúng. Chúng đang bị xuống dốc ở mọi xứ sở, bị tan chảy trước ngọn lửa của phòng thí nghiệm giống như những bức tranh bằng sáp. Không đâu, khi tôi đứng lên bênh vực Ấn Độ giáo, Phật giáo hoặc Bái Hỏa giáo, tôi muốn mọi người hiểu cho rằng tôi không yêu cầu người ta tôn trọng hoặc khoan dung đối với các tôn giáo ấy vượt ngoài các giới hạn của định luật thiên nhiên; tôi tin – không đâu tôi biết – rằng nền tảng của các tôn giáo ấy mang tính khoa học và xét về bản thân tôi thì các tôn giáo ấy phải trụ vững hay sụp đổ dựa vào những tình huống đó. Tôi không bảo rằng chúng cũng dung hòa thiết yếu với khoa học nhưng tôi xin nói rằng cho dù chúng có nền tảng như thế nào đi chăng nữa, hoặc là rộng hoặc là hẹp, hoặc là dài hoặc là ngắn, thì nền tảng ấy phải là nền tảng hợp khoa học. Và cũng như vậy khi tôi yêu cầu bạn đừng biến mình thành ra kẻ lố bịch bằng cách chối bỏ bản chất trung gian này nơi con người thì đó là vì nhờ đọc nhiều và có nhiều kinh nghiệm cá nhân, tôi tin chắc rằng Song trùng thể tức Ảo thân là một sự kiện khoa học.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:45 am

Vậy thì ta hãy trở lại vấn đề liệu nó là vật chất hay là một điều gì khác nữa? Tôi xin nói đó là vật chất cộng với một điều gì khác nữa. Và ở đây tôi xin dừng lại một lúc để nghĩ xem vật chất là gì. Những nhà tư tưởng lơ mơ – trong số đó ta phải kể vào những chàng trai non trẻ mới tốt nghiệp đại học mặc dù họ rất vinh dự với tước hiệu ấy – rất hay liên tưởng ý tưởng vật chất với những tính chất là mật độ, có thể nhìn thấy được và có thể sờ mó được. Nhưng điều này không dễ biện minh. Không khí mà ta thở thì mắt không thấy được, thế nhưng vật chất – tương đương của nó là khí oxy, khí hydro, khí ni tơ và axit carbonic, mỗi thứ đều bao gồm các nguyên tử có thể cân đo được và dùng phép phân tích để chứng minh được. Ngoại trừ trong những tình huống chuẩn bị sẵn, còn thì điện không thể nhìn thấy được thế nhưng nó vẫn là vật chất. Chưa ai đã nhìn thấy chất Ether Vũ trụ của khoa học, thế nhưng nó là vật chất ở trạng thái cực kỳ tế vi. Ta hãy xét ví dụ quen thuộc là các dạng nước và thử xem chúng nhanh chóng leo lên các nấc thang tế vi cho tới khi chúng thoát khỏi tầm nắm bắt của khoa học: nước đá cứng như đá, nước đá chảy ra thành nước, hơi nước ngưng tụ lại, hơi nước hóa nhiệt và không thể nhìn thấy được, điện, và rồi nó vượt ra khỏi thế giới hậu quả để nhập vào thế giới nguyên nhân.
Vậy thì khi đã có sẵn lời cảnh báo này, xin các bạn trẻ đầu óc còn quá nóng nảy thuộc trường Đại học Madras đừng có cãi lại tôi khi tôi bảo rằng triết lý của Ấn Độ về con người thích hợp với những đường lối của khoa học hiện đại, khít khao hơn triết lý của Ki Tô hữu siêu tự nhiên hoặc của nhà khoa học duy vật. Ta đã thấy cũng như các dạng lần lượt của nước leo lên tới tận thế giới vô hình; cũng vậy, ở đây Triết lý Bí truyền của Ấn Độ giáo cung cấp cho ta một loạt phân bậc những sự bố trí phân tử trong cơ cấu tổ chức của con người; ở đầu bên này là khối cụ thể xác phàm, còn ở đầu bên kia là điều tinh vi cuối cùng tên là Ātmā, tức Tinh thần. “Nhưng làm thế nào mà tất cả những điều này lại tồn tại cùng nhau trong một tổ hợp duy nhất; phải chăng con người giống như một cái tổ gồm những chiếc hộp hoặc những chiếc giỏ lồng vào nhau, hay là ông ngụ ý muốn nói rằng có một điều phi lý về khoa học khi hai sự vật có thể chiếm cùng một không gian trong cùng một lúc?” Đây là một thắc mắc bên lề phát sinh từ thắc mắc chính yếu, nhưng chúng ta phải xử trí nó trước.
Vậy thì tôi xin nói theo như người ta giải thích cho tôi biết thì mỗi một trong nhiều tập hợp nguyên tử hợp thành bảy bộ phận của con người đều chiếm chỗ trong khoảng không gian xen kẽ giữa hai tập hợp nguyên tử thô trược kế tiếp nhau. Chúng được tập trung xét về nhiều loại năng lượng ở trong cái mà người Ấn Độ gọi là Shadadharams, tức trung tâm sinh lực mà đỉnh cao là Sahasrāram nơi Ātmā ngự. Điểm tối cao này ở trên đỉnh đầu, những điểm khác ở chót xương sống, bụng dưới, rún, tim, cuống họng và trung tâm xoang trán. Vậy thì các nguyên tử Buddhi thấm nhuần khoảng xen kẽ của Manas; các nguyên tử Manas thấm nhuần khoảng xen kẽ của Kāmarūpa; các nguyên tử của Kāmarūpa thấm nhuần khoảng xen kẽ của Jīva; các nguyên tử của Jīva thấm nhuần khoảng xen kẽ của xác phàm (Stūlasarīra). Và vì mỗi lớp thô hơn đều chứa đựng các hạt của mọi nguyên khí tinh vi hơn cho nên xác phàm là cái vỏ thô nhất mà nhiều bộ phận của con người phức hợp được chứa đựng trong đó. Thấm nhuần và cấp năng lượng cho tất cả chính là Ātmā, tức cái năng lượng tối hậu không ai hiểu nổi khi chỉ dùng các giác quan của xác phàm; Brahman có mô tả cho con người về Ātmā trong Māndūkya Upanishat bằng cách nói rằng: “Con không phải là cái này, không phải là cái kia, cũng chẳng phải là cái thứ ba, cũng chẳng phải là bất cứ điều gì mà tâm trí có thể lĩnh hội được nhờ vào các nhận thức của thể xác. Thi sĩ bình dân Telugu đã miêu tả hay ho và bóng bẫy ý tưởng này trong bài thơ Sītārāma Añjaniyam (vật chất vũ trụ) trong đó Sītā – bản thân bà là nhân cách hóa của Prakriti – được các con gái và vợ của các Rishis yêu cầu chỉ rõ chồng mình, nhưng vì khiêm tốn nên bà không chỉ ra. Bấy giờ các phụ nữ lần lượt chỉ một số người đàn ông khác nhau, mỗi lần chỉ lại hỏi: “Đây có phải là chồng bà không?” Bà trả lời không, nhưng khi họ chỉ tới Rāma thì bà im lặng vì thậm chí bà không thể nói tới vị chúa tể của lòng mình trước mặt những kẻ xa lạ. Do đó thi sĩ muốn ta hiểu rằng trong khi ta có thể tha hồ nói Ātmā không phải là gì, thì khi bắt buộc phải nói xem Ātmā là cái gì, ta ắt phải im lặng vì lời lẽ không có khả năng diễn tả được ý tưởng cao siêu.
Bây giờ ta đã chuẩn bị sẵn sàng để trả lời hai thắc mắc mà nhà phê bình tưởng tượng nêu ra. Khi được phóng ra một cách hữu thức vượt ngoài tầm thể xác nhờ vào năng lượng phát triển của một Điểm đạo đồ về Khoa học Huyền bí, Kāmarūpa chứa trong nó mọi Manas và Buddhi (kể cả Chittham và Ahankāram – ngã chấp) tức là Trí tuệ và Trí huệ Tâm linh. Điểm đạo đồ rời bỏ cái vỏ phàm tục của mình – bỏ lại Jīva và Lingasarīra trong đó và nhất thời sống, suy nghĩ và hành động trong cái Song trùng thể này của bản thân. Trạng huống nguyên tử của nó ít thô trược hơn trạng huống của xác phàm cho nên nó có quyền năng cao về mặt di chuyển và nhận thức. Các hàng rào vốn ngăn cản được cơ thể - chẳng hạn như các bức vách của một căn phòng – không thể chặn đứng được nó vì các hạt của nó có thể đi xuyên qua các kẽ vật chất thô trược hợp thành bức vách. Chính trong thế giới nội tâm mà nó có thể đi du hành qua không gian giống như tư tưởng vốn bản thân là một dạng năng lượng. Hoặc nếu muốn thì Điểm đạo đồ có thể chỉ cần phóng ra một hình ảnh vô trí của bản thân khiến cho nó xuất hiện ở nơi mà mình có thể tập trung tư tưởng của mình. Tùy theo Điểm đạo đồ muốn mà hình ành ấy chẳng qua chỉ là một hình ảnh hão huyền hay là chính bản ngã của mình; nó có thể chỉ là vật chất không thôi hoặc là vật chất cộng với bản thân y.
Khi chúng tôi tường thuật về bản chất trung gian của một người xét theo khoa học thì tôi đã chứng tỏ rằng chúng ta có thể làm như vậy qua việc tập hợp các chứng cớ và bằng cách quan sát cá nhân. Chúng tôi có thể nói thêm rằng ta có thể có thêm bằng chứng nữa bằng những phương pháp tốt hơn và bảo đảm hơn hết đó là việc bản thân ta hãy trải qua một khóa tự rèn luyện cần thiết để có thể phóng chiếu được Song trùng thể của chính mình. Đó là vì đây không phải là khoa học đặc quyền dành cho một vài cá nhân được ưu đải mà là một khoa học chân chính dựa trên định luật thiên nhiên và bên trong tầm với của bất cứ người nào có đủ điều kiện. Người nông dân thấp hèn nhất cũng có thể vén được bức màn bí mật như vị quân vương kiêu hảnh nhất hay là vị tu sĩ có địa vị tôn quí nhất.
Nhưng người ta thường thắc mắc: tại sao những bí mật này lại không được công khai đối với thế giới cũng thoải mái như các chi tiết trong hóa học hoặc bất cứ ngành tri thức nào khác? Đối với một kẻ lý luận hời hợt thì cũng tự nhiên thôi khi thắc mắc như vậy, nhưng đây không phải là một thắc mắc lành mạnh. Sự khác nhau giữa khoa học tâm linh và khoa học vật lý cốt ở chỗ ta chỉ có thể học được khoa học tâm linh bằng cách tự triển khai các thần thông. Không một giáo sư đại học nào có thể triển khai chúng giúp bạn cũng như bất kỳ người bạn, thân bằng quyến thuộc nào khác; bạn phải tự triển khai chúng cho bản thân. Liệu có một người nào khác lại có thể học giúp bạn môn âm nhạc, tiếng Bắc phạn, hoặc hội họa hoặc điêu khắc hay chăng? Liệu có một người nào khác có thể ăn, ngủ hoặc cảm thấy ấm cúng hay lạnh lẽo, hoặc tiêu hóa hoặc thở hít giúp bạn hay chăng? Thế thì tại sao bạn lại trông mong y học tâm lý dùm bạn? Cho dù bạn có trông mong điều ấy đến đâu đi chăng nữa thì dù sao y cũng không thể làm được điều đó và đấy là câu trả lời tối hậu cho mọi kẻ thắc mắc như thế. Ta cũng không hoàn toàn chắc chắn được rằng cho dù bạn cố gắng nhiều như vậy, chưa chắc gì bạn đã triển khai được những quyền năng này cho bản thân. Liệu mỗi người đều có hay chăng năng khiếu về ngôn ngữ, âm nhạc, thi ca, khoa học hoặc triết học? Bạn biết rằng mỗi bộ môn này đều đòi hỏi một vài năng khiếu minh bạch nào đó và nếu bạn không có năng khiếu thì bạn không bao giờ trở thành một nhạc sĩ, thi sĩ, khoa học gia hoặc triết gia được. Các ngành khoa học vật lý rất khó lĩnh hội ngay cả khi bạn có năng khiếu tự nhiên, nhưng khoa học tâm linh còn khó hơn khoa học vật lý – tôi hầu như có thể nói rằng khó hơn mọi khoa học vật lý tổ hợp lại. Chính vì thế mà người ta đã mô tả Chơn sư là “tinh hoa hiếm hoi của một thế hệ những người tìm hiểu” (quyển Thế giới Huyền bí của ông Sinnett trang 101) và mọi thế hệ Sādhu chân chính đều được tôn vinh là một bậc siêu nhân. Người ta chỉ áp dụng từ ngữ này cho ngài theo nghĩa ngài đã vượt trên những nhược điểm, thành kiến và vô minh của đồng loại.
Người ta thật là vô minh và mù quáng trước kinh nghiệm của loài người khi thường xuyên yêu cầu chúng tôi, những Sáng lập viên Thông Thiên Học, hãy biến các hội viên thành những bậc cao đồ. Chúng tôi phải chỉ ra con đường tắt dẫn lên đỉnh Hi mã lạp sơn, những đường đèo độc đạo dẫn tới các đạo viện trên đồi Nilghiris. Thiên hạ không sẵn lòng làm việc và chịu khó để thu lượm kiến thức giống như tất cả những người đã có được kiến thức từ trước đến nay mà họ chỉ muốn leo lên một cái toa xe hạng nhất để được thẳng tới đằng sau Bức màn che bí mật Nữ thần Isis. Họ tưởng rằng Hội chúng ta đã phát minh ra một loại Câu lạc bộ Phép lạ hay Trường học Pháp thuật trong đó chỉ cần tốn 10 rupi là người ta có thể trở thành một Chơn sư từ khi tắm buổi sáng cho đến lúc dùng bữa buổi chiều tối! Những người như thế hoàn toàn quên mất lời thệ nguyện trong hai mục tiêu chính của Hội: tạo nên một hạt nhân Huynh đệ Đại đồng để nghiên cứu chân lý và xúc tiến tình cảm tử tế giữa người với người; cũng như xúc tiến việc nghiên cứu tôn giáo cổ truyền, triết học và khoa học. Họ không chịu đánh giá cao cái bộ phận thuần túy vị tha này trong công trình của Hội, họ dường như cũng chẳng nghĩ rằng đó là một điều cao quí và đáng công lao nhất khi phải vất vả vì hạnh phúc và sự thức tỉnh của loài người. Họ có một óc tò mò khôn nguôi muốn chứng kiến những phép lạ và trong nhiều trường hợp họ chẳng chịu khảo cứu về những động cơ thúc đẩy ẩn tàng của minh triết mà chỉ ngồi một chỗ miệng há hốc ra, lưỡi thè lè thắc mắc xem người ta làm cái mánh lới ấy như thế nào và cái mánh lới tiếp theo sẽ ra sao?
Những đầu óc như thế có gia nhập Hội Thông Thiên Học thì cũng không lợi ích gì và tôi khuyên họ nên ở ngoài Hội. Chúng tôi không muốn những cá nhân tầm phào ích kỷ như thế. Hội chúng tôi vốn làm việc nghiêm túc, cần mẫn, xả thân cho nên chúng tôi chỉ cần những người xứng đáng với tên gọi là người và đáng được chúng tôi tôn trọng. Chúng tôi cần những người mà thắc mắc đầu tiên không phải là “liệu tôi gia nhập Hội thì có lợi ích gì chăng?” Công trình của chúng tôi đòi hỏi người ta phải phụng sự tức là những người chỉ biết thỏa mãn với việc lao động vì thế hệ sắp tới và những thế hệ nối tiếp nữa; những người ấy khi thấy tình trạng tôn giáo trên thế giới thật đáng phàn nàn – thấy các tín ngưỡng cao quí bị đồi bại, thấy các đền thờ, nhà thờ và nơi thờ tự đông nghẹt những kẻ đạo đức giả và kẻ nhạo báng – thì họ cháy bỏng một ham muốn đốt lên trở lại ngọn lửa tâm linh và đạo đức trên bàn thờ đã bị ô uế, để đưa tri thức của các bậc Thánh hiền tới trong tầm tay của một thế giới nặng trĩu tội lỗi. Chúng tôi cần những người Ấn Độ yêu thương nước Ấn với một tình cảm thuần khiết đến nỗi họ coi việc phụng sự và đau khổ vì ích lợi của nước Ấn Độ là một niềm vui và một sự vinh dự vô giá. Chúng tôi cần những người nhất thời có thể dẹp qua một bên những hận thù ấu trĩ về chủng tộc, về tín ngưỡng và giai cấp cũng như đã dẹp qua một bên tấm vải bị lấm lem hoặc một chiếc áo bị sờn rách; với một tấm lòng yêu thương và một lương tâm trong sạch, họ sẵn sàng chung tay với mọi người khác – dù cho người ta là da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng, người nô lệ hay người tự do – có con tim hòa nhịp với tình yêu thương nước Ấn Độ cùng với những đàn con trẻ rải rác khắp thế giới thuộc nhiều chủng tộc. Chúng tôi hoan nghênh nhất là những người sẵn lòng chà đạp lên lòng ích kỷ của mình khi nó xung đột với lợi ích chung. Chúng tôi hoan nghênh nhà nghiên cứu khoa học thông minh có những quan niệm rộng rãi về đề tài của mình đến mức y thấy hoàn toàn là quan trọng cần phải giải quyết được bí mật về Thần lực cũng như biết được các tổ hợp nguyên tử của Vật chất và khi cảm thấy điều đó y không sợ và cũng chẳng xấu hổ khi tôn làm thầy bất cứ ai có đủ tài năng cho dù người ấy thuộc sắc da nào đi chăng nữa.
Bây giờ ta hãy xúc tiến thêm một bước lập luận khoa học của mình. Xét vì ta đã chứng minh được sự tồn tại của Song trùng thể cũng như việc nó phóng chiếu ra bằng cách nào? Dĩ nhiên là phải tốn năng lượng. Năng lượng ấy là sinh lực do ý chí phát động. Khả năng tập trung ý chí vì mục đích này là một năng lực có thể tự nhiên hoặc thụ đắc. Có một số người tự nhiên có năng khiếu mạnh đến nỗi họ thường phóng Song trùng thể của mình đi ra nơi xa, khiến chúng hiện hình ra thấy được mặc dù họ chưa một ngày nghiên cứu về khoa tâm lý; tôi có biết cả người nam lẫn người nữ thuộc loại này. Nhưng đây là một quyền năng không thông dụng và chẳng phải lúc nào cũng có thể vận dụng được ngoại trừ khi ta đã thật sự thông thạo về khoa học tâm lý. Tác dụng của bộ óc qua việc máy móc triển khai dòng lực ý chí đã được Bain và Maudsley trình bày ít nhiều tỉ mỉ, còn trong tác phẩm Vũ trụ Vô hình, giáo sư Tait và Balfour Stewart đã truy nguyên cho ta thấy tác dụng năng động của sự tiến hóa tư tưởng trong chất Ether mà người Ấn Độ gọi là Ākāsa hằng ngàn năm nay. Họ đã đi xa đến mức bảo rằng có thể nghĩ tới một mệnh đề theo đó sự tiến hóa của tư tưởng chỉ trong bộ óc của một người thôi cũng ảnh hưởng năng động tới một hành tinh ở xa. Nói cách khác, khi tư tưởng triển khai ra thì nó lập nên một rung động của các hạt chất ether và chuyển động này ắt phải tiếp tục vô hạn. Thế mà đạo sĩ yoga triển khai được một dòng như vậy, xoay chuyển nó vào chính mình thành ra một lực tập trung; tiếp tục quá trình này cho đến khi quyền năng ấy đủ mạnh để trục xuất Song trùng thể ra khỏi cái khung thể xác rồi phóng chiếu nó đi tới nơi đâu mà mình muốn. Như vậy ta đã chứng tỏ được sự thật về Ảo thân, việc nó có thể tồn tại bên ngoài cơ thể và năng lượng khiến nó phóng chiếu ra. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết để triển khai lập luận này vì tôi chỉ có thể giữ chân bạn một tiếng đồng hồ trong thời tiết nhiệt đới nóng nực này. Nhưng ít ra tôi tin rằng mình đã chứng tỏ cho các bạn điều vốn chỉ dựa vào các nguyên tắc khoa học chứ không cần tới sự mê say của những kẻ ủng hộ thuyết siêu tự nhiên.
Và bây giờ liệu cái Song trùng thể này nó chẳng có gì khác hơn là cái thường được gọi là “Linh hồn” – có bất tử chăng? Không đâu, nó không bất tử. Vì nó là một khối tập hợp vật chất cho nên cuối cùng nó phải tuân theo luật tản mác, sớm muộn gì cũng phân rã và làm chia lìa vũ trụ ngoại giới bất cứ thứ gì mang tính vật chất. Đó là định luật của các hình tướng thuộc hành tinh cũng như các hình tướng nhỏ bé hơn. Vì mọi thứ mang tính vật chất trong một ngôi sao chủ yếu là được ngưng tụ từ các nguyên tử lỏng lẻo trong không gian, cho nên cũng giống như vậy đối với vật liệu của cơ thể con người cho dù nó là thô trược hay tinh vi thì nó chủ yếu là cũng được ngưng tụ từ các nguyên tử hỗn loạn trong chất Ākāsa. Và chúng phải trở về tình trạng phân tán này bất cứ khi nào lực hướng tâm hút chúng vào trong cốt lõi của con người không còn chống lại lực ly tâm do các nguyên tử trong không gian hút chúng ra. Điều này đưa ta tới thẳng vấn đề sự liên tục tồn tại sau khi thể xác chết. Đây là điều chia rẽ giữa các tôn giáo trên thế giới. Phái nhị nguyên khẳng định rằng linh hồn lên thiên đường hoặc xuống địa ngục để được ân thưởng hoặc chịu phạt đời đời tùy theo hành vi mà nó thực hiện khi còn ở trong thể xác. Mặc dù họ không gọi đích danh như thế, song đúng là họ dạy thuyết công và tội. Đó là vì ngay cả các nhà thần học cực kỳ phản khoa học cũng khẳng định rằng một Đấng thiêng liêng thưởng phạt đã tiền định trước một số người sẽ được cứu chuộc còn một số người bị đày đọa; những nhà thần học ấy cũng cho ta biết rằng cái công tín ngưỡng trong một hệ thống đạo đức và giới luật nào đó để được chia xẻ cái công gánh tội dùm của người khác, là những điều kiện tiên quyết cho sự cực lạc trong tương lai. Vì vậy ta có thể giả định rằng cái công tức Nghiệp Quả ấy là hòn đá tảng của Tôn giáo. Đây là một mệnh đề vừa hợp lý vừa hợp khoa học vì tư tưởng, lời nói và hành vi của một người là biết bao nhiêu nguyên nhân ắt phải thể hiện ra thành các hậu quả tương ứng, những nguyên nhân thiện chỉ có thể tạo ra các hậu quả thiện, những nguyên nhân ác chỉ có thể tạo ra các hậu quả ác trừ phi chúng bị hóa giải bởi những nguyên nhân mạnh hơn mang tính thiện.
Tôi không cần đi vào việc phân tích siêu hình thế nào là thiện thế nào là ác. Ta có thể lướt qua điều ấy dựa vào định đề đơn giản là bất cứ điều gì mang tính chất làm con người đồi bại, thúc đẩy sự bất công khốn khổ, đau khổ, vô minh và thú tính trong xã hội đều cốt yếu là ác; điều gì có khuynh hướng ngược lại là thiện. Tôi ắt gọi một tôn giáo là tồi nếu nó dạy rằng cứ làm điều ác đi rồi sẽ gặt quả thiện vì điều thiện chẳng bao giờ bắt nguồn từ điều ác; cây ác không sinh ra trái thiện. Một tôn giáo chỉ được tuyên truyền bằng cách chỉa gươm hoặc bằng cách đưa thánh tử vì đạo lên giàn hỏa thiêu hoặc bằng cách dùng những dụng cụ tra tấn, hoặc bằng cách hủy hoại xứ sở, bắt nhân dân làm nô lệ; hoặc bằng những chiến lược quỉ quyệt dụ dỗ người lớn trẻ con dốt nát lìa bỏ gia đình, giai cấp và tín ngưỡng của cha ông; tôn giáo ấy là một tôn giáo hèn hạ mang tính ma quỉ, kẻ thù của sự thật, hủy diệt hạnh phúc xã hội. Nếu tôn giáo không dựa vào lời nói dối thì ta có thể chứng minh được sự thật và nó có thể đứng vững như ngọn núi đá chống lại mọi đợt công kích của kẻ đa nghi. Một tôn giáo chân chính không hành động ám muội như một kẻ phong cùi trần truồng che giấu vết lở loét của mình khi một kẻ phê bình bạo dạn quét mắt tìm thấy và yêu cầu xuất trình giấy chứng minh. Nếu tôi đứng đây để bênh vực cho điều thiện trong Ấn Độ giáo thì đó là vì tôi tin chắc rằng điều thiện vốn tồn tại và cho dù một số người có thể nghĩ những điều quá lố rối rắm của nó về phong tục, huyền thoại và mê tín dị đoan là hoang đường và thậm chí ấu trĩ đến đâu đi nữa thì bên dưới những điều đó vẫn có một hòn đá tảng sự thật, sự thật khoa học. Trên hòn đá tảng ấy nó có định mệnh vươn cao trải qua vô số thế hệ vị lai, cũng như nó đã từng đứng sừng sững trải qua vô số thế hệ rao giảng cái Tín ngưỡng từ thời xa xưa khi các bậc Thánh hiền từ trên đỉnh cao Hi mã lạp sơn chiếu ánh sáng sự thật tâm linh chói lọi lên một thế giới vô minh và hắc ám.
Thật là hợp lý khi bạn muốn hỏi tôi rằng liệu những người trong quí vị phải làm thế nào khi bản thân quí vị không có năng khiếu thoát ra khỏi cái bức màn che thể xác vốn gây ra hão huyền để có được một nhận thức thực sự mật thiết về sự thật “Thiêng liêng” trải qua các giác quan tâm linh đã phát triển. Vì bản thân chúng tôi đã chứng tỏ rằng không phải ai ai cũng có thể là Cao đồ được, cho nên liệu chúng tôi mang lại niềm an ủi nào cho những người khác? Điều này khiến ta cần nhất thời để mắt tới thuyết tái sinh. Nếu cái quãng nhỏ cuộc đời này mà giờ đây chúng ta đang trải qua là toàn bộ kiếp sinh tồn của con người; nếu bạn và tôi chưa bao giờ sống trước khi và sẽ chẳng bao giờ sống trở lại thì ắt chẳng có một tia hi vọng để hiến cho bất cứ tâm trí nào không thể tự tử về mặt trí thức vì mù quáng tin tưởng. Giáo lý về việc gánh tội thay cho người khác không chỉ là không thể quan niệm nổi mà còn là hoàn toàn ghê tởm đối với kẻ nào có một quan niệm rộng lớn hơn và hợp khoa học hơn về nguồn gốc và số phận của con người so với quan niệm của các nhà nhị nguyên. Một quan niệm với những nhận thức tôn giáo dựa trên trực giác cho rằng nhân và quả vốn tương đồng, có một Định luật toàn bích và ngự trị tương ứng khắp cả vũ trụ; bên dưới bất kỳ quan niệm hợp lý nào về tính vĩnh hằng ắt luôn luôn có cùng một thần lực đang hoạt động cũng như hiện nay – người nào có quan niệm như vậy ắt gạt phắt đi cái lời quả quyết rằng giây phút sống hữu tình ngắn ngủi này của ta là kiếp sống duy nhất.
Khoa học đã truy nguyên chúng ta qua một chuỗi kiếp sinh tồn dài không thể tưởng tượng nổi – trong các giới nhân loại, động vật, thực vật và khoáng vật – tới tận cái nôi của sự sống hữu tình vị lai, tức chất Ether trong không gian. Thế thì liệu một nhà khoa học có dám cả gan quả quyết rằng bạn và tôi (vốn tiêu biểu cho một trình độ tiến hóa tương đối cao) đã đạt được mức này mà trước đó không phát triển qua các kiếp sống khác hoặc là trên trái đất này hoặc là trên các hành tinh khác? Và nếu y không dám thì y phải tuân theo những qui luật của chính y về việc bảo toàn và tương quan năng lượng, y phải suy ra từ trọn cả sự tương tự trong thiên nhiên cho rằng vượt ngoài kiếp sống này còn có một kiếp sống khác dành cho chúng ta. Lực làm cho chúng ta tiến hóa không thể bị tiêu phí đi, nó phải tiếp tục đường lối rung động của mình cho đến khi đạt mức giới hạn. Và tín đồ Ấn giáo cũng như Phật giáo, các Cao đồ Kỳ na giáo và Bái Hỏa giáo đều định nghĩa cái giới hạn ấy là một thế giới trừu tượng vượt ngoài tầm thế giới hiện tượng hão huyền và đau khổ. Cho dù họ gọi nó là gì đi chăng nữa – là Mukti hoặc Niết Bàn hoặc Ánh Sáng – thì đó cũng là cùng một ý tưởng; đó là hệ quả của Nguyên thể năng lượng vĩnh hằng sau khi đã băng qua một chu kỳ tương quan với vật chất. Bản chất Trung gian nói chung chẳng bao giờ đạt được cái giới hạn tối hậu ấy vì nó mang tính vật chất xét về hình tướng, kích cỡ, màu sắc và các mối quan hệ nguyên tử; do đó nếu ta gọi nó là “phần Hồn” thì ta có thể nói rằng phần Hồn không bất tử bởi vì điều gì mang tính vật chất đều luôn luôn có khuynh hướng trở lại tình trạng nguyên tử sơ thủy. Và khi lập luận theo những tiên đề này, triết gia Ấn giáo dạy rằng điều thoát ra ngoài thế giới hiện tượng chính là Ātmā tức TINH THẦN. Và thế là trong khi xét theo quan điểm Ấn giáo thì thật chính xác khi ta bảo rằng phần Hồn không bất tử, thế nhưng ta cũng phải nói thêm rằng “Tinh thần” là bất tử bởi vì không giống như phần Hồn tức Bản chất Trung gian, Ātmā không chứa đựng các thành tố hữu hoại và có thể bị tiêu diệt mà có bản thể không thay đổi và vĩnh hằng.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitimeTue Apr 12, 2011 6:46 am

Sự lẫn lộn các từ ngữ “phần Hồn” và “Tinh thần” giờ đây thông dụng xiết bao thì lại gây bối rối và có đầy ác ý xét về mức độ này.
Ta không có lập luận nào chống lại thuyết Tái sinh của Á đông, theo đó ta không nhớ được những kiếp trước kia của mình. Ta đã quên hết 95% những diễn biến trong cuộc đời hiện nay của ta. Trí nhớ không thể hiện những mánh khóe ranh ma nhất. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nhớ lại một diễn biến tầm phào nào đó trong các diễn biến thuộc trọn một ngày, một tháng hoặc một năm, thuộc các năm thơ ấu nhất của ta, và diễn biến ấy tuyệt nhiên chẳng hề quan trọng và xét theo biểu kiến cũng chẳng được dự tính ghi khắc không thể phai nhòa được lên ký ức nhiều hơn các diễn biến khác. Làm thế nào lại như vậy được? Và nếu việc hoàn toàn quên mất đa số những diễn biến trong đời mình không phải là bằng chứng cho thấy chúng đã không tồn tại một cách hữu thức vào lúc đó, thì việc ta quên mất toàn thể những kinh nghiệm trong các kiếp trước không hề là lập luận chống lại sự kiện có những kiếp trước kia. Tôi cũng chẳng cần phải vội vã nói thêm rằng những lời tự xưng là nhớ được kiếp trước mà trường phái Luân hồi hiện đại khẳng định liệu có phải là bằng chứng đáng tin cậy cho những kiếp đó hay chăng; cũng có thể lắm, tôi không nói đó chỉ là những mánh khóe tưởng tượng, những ảnh tượng trong trí não được gợi nên do những ảnh hưởng ngẫu nhiên ngoại lai. Vấn đề duy nhất đối với chúng ta đó là trong khoa học và khoa luận lý liệu ta có cần nêu định đề cho bản thân mình là có một loạt các kiếp sống ở đâu đó, vào nhiều lúc khác nhau. Và tôi nghĩ rằng ta phải trả lời khẳng định cho câu hỏi này.
Như vậy sau khi đã công nhận có nhiều kiếp sống và trở lại với lập luận của mình, ta thấy rằng ngay cả khi bất cứ người nào trong số chúng ta không có khả năng đạt được quả vị cao đồ trong kiếp này, thì y vẫn còn có khả năng đạt được quả vị ấy trong kiếp tới. Nếu chúng ta khởi sự thì chúng ta ắt tạo ta một nguyên nhân mà sớm muộn gì cũng tỉ lệ với năng lượng nguyên thủy, nguyên nhân ấy sẽ đưa ta tới quả vị cao đồ, cùng với nó là hiểu biết những định luật ẩn tàng về bản thể, cũng như con đường phá vỡ xiềng xích của vật chất để đạt được Giải thoát – Mukti. Và bước đầu tiên để khởi sự là phải tẩy rửa ta khỏi những thói quen ham muốn tai hại, từ bỏ những thành kiến vô lý, những giáo điều và sự thiếu khoan dung, cố gắng phát hiện điều cốt yếu là cơ bản và điều không cơ bản trong tôn giáo mà người ta giảng dạy, sống theo lý tưởng cao nhất về điều thiện, trí huệ và chánh niệm tâm linh mà người ta rút ra từ tôn giáo ấy, cũng như từ trực giác thuộc bản thể của chính mình. Tôi coi người ấy là một kẻ điên rồ đả phá ngẫu tượng khi y làm sụp đổ bất cứ tôn giáo nào – nhất là một trong những tôn giáo cổ truyền trên thế giới – mà không khảo sát nó và tin theo nó về sự thật nội tại. Tôi coi y là một kẻ hiếu danh sốt sắng muốn vá víu một Tín ngưỡng mới xuất phát từ những Tín ngưỡng cũ chỉ với mục đích nổi tiếng trong bàn dân thiên hạ. Tôi coi y là một kẻ nhiệt tình điên loạn khi trông mong biến mọi người sao cho nhìn thấy sự thật cũng giống như chính mình, bởi vì không có hai con người nào thậm chí có thể thấy một cái cây hoặc một lùm cây giống nhau chứ đừng nói chi tới việc lĩnh hội những mệnh đề siêu hình một cách cũng minh bạch như thế. Còn về phần những kẻ nào đi khắp thế giới tuyên truyền cho tín ngưỡng tôn giáo đặc thù của mình mà không có khả năng chứng tỏ nó cao siêu hơn các tín ngưỡng khác lẽ ra nó được thay thế hoặc trả lời dứt khoát những thắc mắc đúng đắn của các nhà phê bình thì họ hoặc là những kẻ mơ mộng đầy hảo ý hoặc là những kẻ điên rồ tự đắc. Nhưng cho dù họ có thể là điên, hiếu danh hoặc đần độn thì nếu họ chân thành, cá nhân họ vẫn có quyền được tôn trọng theo cái mức độ chân thành mà họ luôn luôn biểu lộ. Trừ phi toàn thể thế giới sẵn sàng chấp nhận một thủ lãnh duy nhất không thể sai lầm và mù quáng chọn theo một tín điều duy nhất thì chỉ có một qui tắc khôn ngoan duy nhất bao giờ cũng phải được khoan dung đối với đồng loại của mình; đó là bản thân chúng ta luôn luôn có óc phán đoán què quặt và chẳng bao giờ được hoàn toàn tự do. Đó là chính sách và nền tảng đã được công khai tuyên bố của Hội Thông Thiên Học mà bạn có thể thấy được qua việc đọc quyển sách nhỏ bao hàm Điều lệ và Qui tắc của nó. Nền tảng đó là khoan dung lẫn cho nhau và tình huynh đệ đại đồng.
Bạn ắt bảo rằng phải có những giai đoạn sơ cấp đưa tới quả vị cao đồ, do đó khoa học hiện đại đã nêu ra một số giai đoạn sơ cấp ấy. Tôi xin nói với bạn rằng tâm lý học là khoa học khó khăn nhất mà ta đi sâu được tới tận đáy của nó, thế nhưng việc khảo cứu của Tây phương đã dẹp sạch được nhiều chướng ngại trên con đường ấy. Cho đến nay thuật thôi miên mesmer là ngành nghiên cứu cần thiết nhất mà ta phải tiếp thu trước tiên. Nó cung cấp cho bạn (1) bằng chứng về việc tâm trí có thể tách rời khỏi sự tồn tại hữu thức trên cõi trần, một đối tượng bị thôi miên mesmer có thể phô bày một ý thức trí tuệ hoạt động và óc phân biện trong khi cơ thể y chẳng những yên ngủ mà còn chìm sâu trong một sự xuất thần đến nỗi giống như một cái xác đang hấp hối hơn là một con người còn sống; (2) nó cung cấp cho bạn bằng chứng về việc có thể thật sự truyền tư tưởng từ một tâm trí này sang một tâm trí khác; không cần thốt ra một lời hoặc đưa ra một dấu hiệu có thể nhận thức được, nhà thao tác mesmer có thể truyền cho đối tượng tư tưởng ở trong tâm trí mình; (3) nó dễ dàng chứng tỏ thực tại về một quyền năng nghe các âm thanh và thấy những sự vật diễn ra ở khoảng cách xa, liên lạc tư tưởng với những người ở xa, nhìn xuyên qua tường, nhìn xuống tận lòng đất, nhìn xuống đáy biển sâu thẳm và nhìn xuyên qua mọi chướng ngại khác đối với mắt phàm; (4) có khả năng nhìn vào cơ thể con người, dò tìm vị trí và nguyên nhân bệnh tật, kê đơn thuốc thích hợp cũng như có khả năng truyền sức khỏe và phục hồi sức sống tâm trí và thể lực bằng cách đặt tay của nhà thôi miên mesmer lên trên đối tượng hoặc y truyền sinh lực tráng kiện của mình vào một ly nước để cho bệnh nhân uống hoặc truyền vào quần áo để cho bệnh nhân mặc; (5) có khả năng thấy được quá khứ và thậm chí dự báo được tương lai. Khoa học Thôi miên Mesmer khiến cho một người – không phải là bậc Cao đồ về tâm lý học Á đông cao cấp – có thể chứng minh hoàn toàn cho bản thân và cho người khác khả năng đạt được những điều này và còn nhiều điều khác nữa. Tôi nói như vậy dựa vào thẩm quyền của một Ủy ban thuộc Hàn lâm viện Pháp. Thế rồi ngoài khoa Thôi miên Mesmer ra còn có những ngành vô cùng quan trọng như thuật Trắc tâm, thuật vân dụng Od, thuật Đồng cốt và những thuật khác hầu như ít được nhắc tới vượt ngoài tầm bài thuyết trình hiện nay của tôi. Mỗi một và tất cả thuật này đều giúp cho người tìm hiểu đạt được minh triết “Thiêng liêng” để có một quan niệm thông minh và hợp khoa học về các định luật của “cái Điều gì đó Vĩnh hằng” (theo cách gọi của Herbert Spencer) mà bạn có thể gọi là Thượng Đế hoặc bất cứ hồng danh nào mà bạn thích. Dù bạn chọn cho nó hồng danh nào thì kiến thức về nó cũng là mục tiêu cao nhất dành cho tư tưởng con người và việc đạt được tình trạng hài hòa với nó chính là hoài bão cao siêu nhất, cần thiết nhất và là bước đầu của một con người thông tuệ. Nói tóm lại thì việc theo đuổi kiến thức này chính là THÔNG THIÊN HỌC (Minh triết Thiêng Liêng) và phương pháp khảo cứu chính đáng cấu thành Khoa học Thông Thiên Học.
Và thế là chỉ cần một câu phát biểu tôi cũng giải đáp được cả ngàn thắc mắc xem Thông Thiên Học là gì và đâu là mục tiêu của việc khảo cứu Thông Thiên Học. Mãi cho đến lúc này, hầu hết quí vị cũng như đại đa số người Ấn Độ đều tưởng tượng cho rằng chúng tôi đến để rao giảng một tôn giáo mới nào đó, để tuyên truyền một sự hoang tưởng mới mẻ nào đó, để dựng nên một “Giáo hệ Mới mẻ” nào đó. Giờ đây bạn thấy mình đi xa sự thật đến đâu và dân gian nói chung đã đối xử bất công với chúng tôi như thế nào. Thay vì rao giảng một tôn giáo mới, chúng tôi chỉ rao giảng những điều khẳng định cao siêu của các tôn giáo xưa nhất trên thế giới để cho thế hệ hiện nay tin tưởng được. Chúng tôi không hiến ra điều đó qua những bản ngã vô minh tồi tàn của mình bởi nó làm sao có thể tiếp dẫn quí vị và hướng đạo quí vị, nhưng chính các đấng Thánh hiền khả kính thuộc thời cổ sơ mới làm được điều đó. Chúng tôi không yêu cầu quí vị trung thành với một người Mỹ hoặc một người Nga mà là trung thành với một triết lý Ấn Độ xa xưa. Chúng tôi đến không phải để kéo đổ hoặc hủy hoại mà để xây dựng lại cái cơ cấu dẻo dai của tôn giáo Á đông. Chúng tôi yêu cầu quí vị giúp chúng tôi dựng nó lên trở lại không phải dựa trên bãi cát trôi ưa phản bội của đức tin mù quáng mà dựa trên nền tảng vững như đá của sự thật, rồi dùng xi măng gắn những viên đá rời rạc của nó dính cứng vào chất xi măng kết dính của Khoa học Hiện đại. Ấn độ giáo đích thực chẳng có gì phải sợ công trình khảo cứu của Khoa học. Cho dù những thế hệ trước kia có thể đã truyền thừa cho quí vị bất cứ điều gì sai trái thì chúng tôi cũng sẵn sàng bỏ qua, và khi đã đến lúc cho chúng tôi nhìn xuyên suốt qua những điều hão huyền hiện nay thì chúng tôi ắt hoan hỉ làm như thế. “Thế giới không thể xây dựng được trong một ngày” và chúng tôi đâu phải là kẻ dốt nát hăng hái mơ tới việc có thể dò ra được và phá tan những sai lầm thâm căn cố đế chỉ nội trong một ngày, một năm hoặc một thế hệ. Ta chỉ cần bao giờ cũng muốn biết sự thật, sẵn lòng lên tiếng vì sự thật, hành động vì sự thật và nếu cần thì chết vì sự thật khi chúng ta đã khám phá ra nó.
Thiên hạ thường thắc mắc theo tôn giáo chúng tôi thì làm sao chúng tôi có thể liên giao bình đẳng và thân hữu với những người thuộc Tín ngưỡng đối nghịch. Tôi xin trả lời rằng việc cá nhân chúng tôi ưa thích tôn giáo trên thế giới này hơn tôn giáo khác chẳng liên quan gì tới vấn đề nói chung là Thông Thiên Học (Minh triết Thiêng liêng). Chúng tôi ủng hộ Thông Thiên Học là phương pháp duy nhất giúp cho người ta phát hiện được cái Điều gì đó Vĩnh hằng mà không yêu cầu những người có tín ngưỡng khác hơn chúng tôi phải theo tín ngưỡng của chúng tôi và bỏ đi tín ngưỡng của chính họ. Hai Sáng lập viên chúng tôi đều rao giảng một tôn giáo khoan dung, nhân từ, tử tế, vị tha, bác ái; tôn giáo ấy không bới móc những điều xấu xa trong tín ngưỡng của người lân cận mà chỉ mưu tìm những gì tốt đẹp khiến cho y sống trọn với bộ luật đạo đức và sùng đạo nhất mà y có thể tìm được. Tóm lại, chúng tôi rao giảng cái tôn giáo được thể hiện qua Qui tắc Vàng của Khổng tử, của Phật Thích Ca và của các bậc giáo chủ thuộc hầu hết mọi tôn giáo lớn; điều đó được bảo tồn để cho hậu thế hâm mộ và kính ngưỡng trong Chiếu chỉ của Đức Vua A Dục ghi trên những phiến đá đơn lẻ và những phiến đá ở Hindustan. Nếu tuân theo tín ngưỡng đơn giản này thì chúng tôi chẳng khó khăn gì khi sống hoàn toàn hài hòa với kẻ tuân theo bất kỳ tín ngưỡng nào gặp gỡ chúng tôi trong tinh thần hỗ tương. Nếu chúng tôi có đấu tranh với những kẻ tự xưng là Ki Tô hữu thì đó chỉ là vì họ đã phản bội lại giáo huấn của Đấng mà họ tự cho là mình gọi bằng Thầy, và họ đã dùng đủ mọi mánh khóe hèn hạ và không xứng đáng để ra sức chống lại ảnh hưởng đang gia tăng của chúng tôi. Chính họ đã chiến đấu chống lại chúng tôi vì chúng tôi đã bảo vệ Ấn Độ giáo và các tôn giáo Á đông khác, chúng tôi không chiến đấu chống lại họ. Nếu họ thực hành các huấn điều của chính mình thì chúng tôi chẳng bao giờ lên tiếng hoặc dùng ngòi bút để chống lại họ vì lúc bấy giờ họ ắt tôn trọng tình cảm tôn giáo của người Ấn giáo, Bái Hỏa giáo, Kỳ na giáo, Do Thái giáo, Phật giáo và Hồi giáo, và đến lượt họ cũng xứng đáng được chúng tôi tôn trọng. Nhưng họ bắt đầu bằng cách vu khống thay vì lập luận và tôi e rằng vu khống sẽ là vũ khí được ưu ái nhất để dẫn tới một kết cuộc cay đắng. So sánh với cách ứng xử khiếm nhã của người đồng hương ưa cãi vã vốn đã diễn thuyết ở đây vào ngày hôm trước, tố cáo kinh Phệ đà là sự ghê tởm, dơ dáy, còn các nhà Thông Thiên Học là những kẻ phiêu lưu không đáng tôn trọng thì cách cư xử của vị luật sư Hồi giáo mới cao quí và dịu dàng làm sao khi ông bảo vệ cho Raymond Lully trước một tòa án Hồi giáo có khuynh hướng phạt Lully vì ra sức tuyên truyền cho tôn giáo mình ở xứ sở này. “Hỡi tín đồ Hồi giáo, nếu quí vị nghĩ một người Hồi giáo đã hành động lập được công trạng khi ra sức rao giảng Hồi giáo trong đám người ngoại đạo thì tại sao chúng ta lại không thể nhân từ đối với Ki Tô hữu này khi động cơ thúc đẩy của y cũng đồng nhất như thế?” Tôi không thể nhớ tới những lời chính xác nhưng đó là ý nghĩa của nó. Cái tiếng nói Nhân từ dịu dàng thốt ra từ cửa miệng của vị luật sư ấy và những lời lẽ của ông ta là tiếng vọng của Tinh thần sự thật.
Vậy thì hỡi những người nam phụ lão ấu ở Madras, nếu quí vị tự xưng là những người yêu nước Ấn Độ thì quí vị hãy biến mình để cho xứng đáng với sự ban phúc của các bậc Thánh hiền, hãy chung lòng chung sức với chúng tôi để tiến hành công trình vĩ đại này. Chúng tôi yêu cầu quí vị không cần phải có danh dự, không cần phải có lợi ích thế tục hoặc cũng chẳng tưởng thưởng cho cá nhân chúng tôi. Chúng tôi chẳng mưu cầu việc dụ quí vị theo chúng tôi; quí vị hãy chọn những nhà lãnh tụ chính đáng trong số những người thanh khiết nhất và minh triết nhất nơi quí vị thì chúng tôi ắt sẽ theo quí vị. Chúng tôi không tự cho mình là bậc thầy của quí vị vì tất cả những điều mà chúng tôi có thể giảng dạy đều là những điều mà chúng tôi học được từ Á đông; Phúc âm mà chúng tôi truyền bá vốn bắt nguồn từ các bậc ẩn sĩ nơi vùng sơn cước của Ấn Độ chứ không bắt nguồn từ các vị giáo sư ở phương Tây. Chúng tôi biện bạch cho Ấn Độ để phục hồi tôn giáo cổ truyền của nó, để minh chứng cho sự vinh quang xưa kia của nó, để duy trì sự vĩ đại của nó về khoa học, nghệ thuật và triết học. Nếu có bất kỳ sự ưu ái ích kỷ nào đối với giáo phái hoặc giai cấp hoặc thành kiến cục bộ cản đường đi thì bạn hãy dẹp nó sang một bên, ít ra cho tới khi bạn làm được một điều gì đó cho xứ sở sinh ra bạn, để cho dòng dõi cao quí của bạn được nổi danh. Trong đám đông người tụ tập này, tôi thấy trên trán của quí vị có vẽ những vạch giáo phái thẳng đứng của phái Nhị nguyên và phái Bất nhị thờ Vishnu cũng như các đường vằn nằm ngang của phái thờ Shiva. Đây là những sự biểu thị bên ngoài của những sự dị biệt tôn giáo thường bộc phát thành những lời lẽ cay đắng và những hành vi cay đắng. Nhưng theo một ý nghĩa khác hơn mắt phàm, tôi thấy có một tập hợp những dấu hiệu giáo phái biểu thị mối nguy hiểm lớn lao hơn cho quốc gia và tính linh của Ấn Độ. Những dấu hiệu này đã in hằn sâu trong trí óc và tâm hồn của một số người – mặc dù may mắn thay không phải là tất cả - trong đám các thanh niên đầy triển vọng nhất, những đứa con ưu tú nhất của mẹ Ấn Độ đang đau buồn, chúng đã gặm nhấm hết cái óc tự hào là họ thuộc về dân Ấn Độ và đã được truyền thừa các tôn giáo này. Đó là những học vị Cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn, Cử nhân Văn chương, Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn mà trường Đại học ở đó dành cho quí vị. Sau ba năm giao tiếp với quốc gia Ấn Độ và đồng hóa được với tư tưởng của nó, tôi hầu như cảm thấy rùn mình khi một thanh niên thuộc dòng dõi quí tộc nào đó được giới thiệu với tôi là đã tốt nghiệp Đại học có bằng cấp. Tôi đâu có đánh giá thấp tầm quan trọng của giáo dục Đại học hay sự vinh dự mà người ta đạt được qua việc có một bằng Đại học, nhưng tôi xin bảo rằng nếu người ta chỉ đạt được đặc quyền ấy mà phải hi sinh danh dự quốc gia cũng như trực giác tâm linh thì đó là một lời nguyền rủa đối với kẻ đã tốt nghiệp và một thảm họa cho xứ sở của y. Chẳng thà tôi thấy một người Bairāgee dơ dáy tin theo trực giác của tổ tiên đối với khả năng tâm linh của con người, còn hơn là tôi thấy kẻ tốt nghiệp Đại học ưu tú nhất lại mất hết niềm tin ấy. Chẳng thà tôi kết giao với vị ẩn sĩ trần truồng trong rừng rậm còn hơn là giao tiếp với một người tốt nghiệp Đại học mặc dù chất đầy bằng cấp nhưng do một giáo trình lịch sử và khoa học giả mạo, đã mất hết mọi niềm tin vào bất cứ thứ gì lớn lao trong Vũ trụ hơn hẳn Haekel hoặc Comte hoặc không tin vào bản thân mình có bất cứ quyền năng nào cao siêu hơn khả năng sinh con đẻ cái, tư duy hoặc tiêu hóa. Nếu muốn, bạn có thể gọi tôi là kẻ Bảo thủ; tôi là kẻ Bảo thủ trong chừng mực là chừng nào các giáo sư thời nay có thể chỉ cho tôi thấy một Triết lý không thể công kích được; một Khoa học tự mình chứng minh cho mình nghĩa là mang tính công lý tiên đề; một Khoa Tâm lý học bao quát được mọi hiện tượng tâm linh; một Tôn giáo mới vốn là trọn cả sự thật không hề khiếm khuyết – thì chừng đó tôi mới không tuyên bố rằng điều mà tôi cảm nhận, điều mà tôi biết chính là sự thật, nghĩa là các đấng Thánh hiền đã biết được các bí mật của Thiên nhiên và của Con người; chỉ có một nền tảng chung cho mọi tôn giáo và trên nền tảng ấy đã và đang có sự hài hòa và thân hữu như huynh đệ của các bậc Đạo trưởng và các Điểm đạo đồ bí truyền thuộc mọi Tín ngưỡng lớn trên thế giới. Nền tảng ấy chính là Thông Thiên Học (Minh triết Thiêng liêng). Cầu mong sao các đấng Chơn sư cổ truyền ban phúc cho nước Ấn Độ nghèo khó của chúng ta!

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





HỘI THÔNG THIÊN HỌC Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: HỘI THÔNG THIÊN HỌC   HỘI THÔNG THIÊN HỌC I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
HỘI THÔNG THIÊN HỌC
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» THÔNG BÁO 1
» THẦN LINH HỌC và THÔNG THIÊN HỌC
» Gửi các huynh đệ Thông thiên học
» THIÊN NHẢN THÔNG - Clairvoyance
» CÁCH TẬP LUYỆN THIÊN NHẢN THÔNG ( HOW TO DEVELOP CLAIRVOYANCE )

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: - NHÓM NGHIÊN CỨU TÂM LINH ĐÔNG TÂY VÀ DIỂN ĐÀN TỰ DO VỀ TÂM LINH :: THÔNG BÁO-
Chuyển đến