CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI

Go down 
2 posters
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:00 am


SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI

( CHUYỂN TỪ NGUỒN : THẾGIỚI VÔ HÌNH )
http://www.thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?t=88


SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Le_phowa_est_une_pratique_boud
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  L_46db2c0e81794752a97093768e5a
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Swirlmandala
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Reincarnation2

Đề tài Chết đi về đâu ? Được đăng tại một website khác được tôi trả lời Chết là hết .
Bài viết sau đây tôi , đang đăng tại một trang website khác với nick ANH SANG , nhưng để mở rộng đường tham khảo và tạo cơ hội cho mọi người đóng góp và tìm hiểu một cách rộng rải cởi mở , không bị những gò bó về tôn giáo , tín ngưởng , phong tục tập quán hay bị áp lực hữu hình cũng như vô hình của các thế lực thế quyền và thần quyền , cũng như những mê tín được lưu truyền từ ngàn xưa về vấn đề sanh tử ; Nên hôm nay tôi xin mạn phép song hành đăng tải những luận điểm cùng thực chứng của tôi về các vấn đề trên để cùng các bạn đàm đạo và học hỏi . Tôi tin rằng sẽ có những luận điểm khác nhau cuả hai khuynh hướng đang hiện hữu . Và như thế sẻ tạo được lợi ích cho mọi người hiểu biết nhiều thêm về thực tại của vấn đề sinh tử .Vì theo phong trào hiện nay , nếu nói chết là còn , thì là việc dể dàng , vì có cả khối kinh điển để dẩn chứng , và được vô khối người hùa theo , mặc dù mọi người chết rồi , không có một ai trở lại được ; còn ai dám nói chết là hết , thì có lẻ với thời đại khoa học tiến bộ , cùng thể chế tự do dân chủ ngày nay , chúng ta có thể mạnh dạn đưa vấn đề nầy lên bàn mổ , mà không sợ ai bỏ tù mình cả . Vì chúng ta đều có một mẩu số chung là NÓI GÌ THÌ NÓI , RỐT CUỘC RỒI , AI CŨNG PHẢI CHẾT MÀ THÔI .....
Vậy mời các bạn , chậm rải nhâm nhi tách trà nóng và cởi ngựa dạo chơi qua khu vườn đầy sương mù cùng những hấp dẩn bất ngờ trên đường mả lộ đầy trơn trợt nầy nhé .....
Khi con người chết đi là hết . Những vấn đề tồn tại của linh hồn và sự luân hồi của linh hồn đều không có , mọi người đều bị những niềm tin tôn giáo và phong tục tập quán làm ru ngũ và làm tối mờ đi trí tuệ bát nhả của mình ; một mặt người ta không dám nói lên sự thật vì sẽ bị đa số những kẻ vô minh hùa theo thần quyền và thế quyền tấn công và chụp mũ hoặc tẩy chay ...khỏi cuộc chơi mê muội đó . Nếu nói theo niềm tin tôn giáo thì nếu linh hồn còn tồn tại , thì các bậc đắc đạo đã tái sinh trở lại để dẩn dắt mọi người vượt khỏi sinh tử luân hồi và đau khổ ....Nhưng , thật sự không có một ai trở lại cả , vì tất cả những trẻ sơ sinh được sinh ra đều chỉ là một hình thức sự luân hồi của thể xác vật chất , sự di truyền của DNA và năng lượng của cơ thể ; còn những thông tin về trí tuệ , kiến thức hay sự tu tập của cá nhân đều bị mất tất cả ; trẻ con dần dần trưởng thành sẻ dần dần học lại từ sách vở , gia truyền và xả hội ....Chứ chưa thấy ai khi sinh ra và khi đã trưởng thành , khi các giác quan và khi đầu óc đã phát triển đầy đủ rồi , thì những kiến thức và sự thông minh cùng kinh nghiệm sống của kiếp sống trước đều không trở lại với họ , mà con người phải bắt đầu lại bằng con số không to tướng ; Việc nầy được những giáo điều kinh điển , dùng phương pháp cả vú lấp miệng em , đánh trống lảng , dùng lối biện luận tung hỏa mù của luật luân hồi , nhân quả , nghiệp báo , ma quỷ, thần thánh , đạo đức , thiện ác .....để không giải quyết và trả lời những câu hỏi nầy , đồng thời lại giải thích sai lệch và hướng dẩn con người đi xa vấn đề sinh tử nầy .
Các quốc gia cường quốc và các bậc thức giả đã và đang dùng những phương pháp khoa học và những phương pháp tâm linh để khám phá ra những lảnh vực thiết yếu sinh tử nầy của nhân loại .
Về phương diện thể xác vật chất , con người có thể tái tạo lại một cơ thể mới mẻ cuả mình qua phương pháp CLONE từ mẩu tế bào sống của mình ; nhưng về tâm linh thì con người chưa thể chuyển di thần thức của mình đi qua cơ thể mới được , việc chuyển di tâm hồn của mình qua phương pháp y học là chuyển nguyên bộ nảo vật chất của mình qua một cơ thể mới , thì phương pháp nầy không thành công vì hai nguyên nhân sau : - cơ thể mới sẻ không chấp nhận bộ nảo nầy và sẽ không cung cấp dinh dưởng của nó . – bộ nảo nầy sẻ bị tan rả theo định luật thời gian và vật chất là thành trụ hoại không , hìnnh thành , tan rả và biến mất ...trở về với tứ đại ; còn thức đại thì biến mất vào hư không ....
Như vậy thực tế đã chứng minh , cơ thể vật chất của con người có thể luân hồi qua quá trình truyền giống , để được một cơ thể mới . Nhưng đó là một cá thể mới mẻ , hoàn toàn không dính dáng gì cả về tâm linh với cha mẹ nó , và không giống gì với linh hồn cuả người đã chết và nay đầu thay lên trong thể xác nầy , vì những chứng minh của đoạn đầu đã nêu ra .
Mọi người , nếu để ý thì thấy trong kinh cuả một tôn giáo luôn nhắc nhở được sinh ra làm người là một việc khó khăn vô cùng , và có ý nhắn nhủ là con người luôn làm sao , sống cho được hạnh phúc , an lạc vui vẽ và thức giác , vì chết là hết , nhưng đều nầy không được nói ra rỏ ràng , ta tinh ý thì mới nhận ra được điều nầy ; từ đó tôn giáo nầy đem những luật luân hồi nhân quả , nghiệp báo để làm điều răng hầu cảnh tỉnh những người vô minh tàn ác , mau hồi đầu tỉnh ngộ mà hành thiện để cùng tạo một cực lạc quốc trong cỏi đời nầy .
Một khâu quan trọng của tôn giáo nầy bị mất đi , là làm sao làm cho linh hồn được tái sinh trở lại với đầy đủ chức năng trí tuệ cuả nó ; Nhưng lời nhắn nhủ nầy đã bị những kẻ vô minh giảng sai đi bằng cách kêu gọi con người hảy khinh khi thể xác hôi thúi nầy , mà đi tìm những điều không tưởng và sống một cuộc sống tiêu cực và thụ động ; Họ nói rằng con người hảy bỏ thể xác nầy đi , cũng như ta cởi bỏ một lớp áo củ vậy , và khi đầu thai trở lại ta sẻ có được chiếc áo mới tức một thể xác mới , nhưng thực ra là ta đả chết rồi ; vì thực ra theo lời nói , khi ta thay chiếc áo mới khác , ta bỏ chiếc áo củ , khi ta mặc chiếc áo mới vào , thì ta vẩn là ta , tất cả những tinh anh và trí tuệ của ta vẩn tồn tại và giúp ta sinh tồn và thành công trong cuộc sống , nhưng khi một đứa trẻ mới sinh ra và lớn lên , thì nó không phải là ta , vì ta đã chết rồi , nó không biết ta và ta không biết nó .
Bí mật của điều giảng dạy trên được nằm trong hai vế sau đây :
- Kinh điển cố dạy là con người cần cởi bỏ tất cả những quan niệm vô minh chấp trước của mình đi , thì mình sẽ được thức giác và sẽ được trở thành con người mới sáng suốt và thức giác , cũng như lời nói bóng bẩy của một tôn giáo khác có nói là : Con hảy chết đi thì con sẽ được sống lại , không có nghĩa là kêu con người chết đi mà là kêu gọi con người hảy bỏ tất cả những ưu phiền và thành tâm hướng về Đấng cao cả , thì sẻ được cứu rổi khỏi đau khổ và lổi lầm...
- Điều thứ hai là khoa học chuyển di thần thức qua một cơ thể mới dước hình thức tái sinh hay thần nhập .....Nhưng điều nầy không được nói đến một cách rỏ ràng ; còn những cuốn tử thư cuả Tây Tạng hay Tử Thư cuả Ai Cập chỉ là những cách thức chuẩn bị , để làm diệu lại diển trình tâm linh của người chết , được chết một cách êm ái và an lạc mà thôi .
- Một điều khác không được nói đến , là cả hai cuốn Tử Thư nầy đều là những biểu tượng học , mà bên trong được ẩn chứa những công thức và những phương pháp dạy chuyển di thần thức để được bất tử vậy . Vấn đề là có tìm được chiếc chìa khoá vàng để giải mả cuả nó hay không .

Còn những vấn đề về ma quỷ , hiện hồn về , linh hồn báo mộng , nhập hồn , lên đồng , nói chuyện với người chết ......đều là những khoa học tâm linh . lần lượt được đem ra ánh sáng với những tiềm năng còn ẩn tàng trong con người và vũ trụ chung quanh trong một ngày gần đây với những phát hiện cuả Lượng Tử Học , String Theory , Fusion Theory và Nguyên Tử Học , Nhân Thể Học Đông Phương ... Là những ngành khoa học mới tìm hiểu trên một cơ thể sống của con người , cùng nghiên cứu một chỉnh thể giữa con người cùng vũ trụ , chứ không tách biệt ra như trước nữa ....Tức nghiên cứu Tâm và Vật cùng một lúc vậy ; Mà những danh từ như : Tín hiệu tàn dư – Sóng Hạ âm – Tin Tức Mả – Địa Từ – Hạ Âm – Ký Ức Vũ Trụ – Luân Xa – Tia Đất – Ley Line – Cảm Xạ Học – Ngoại Cảm Học – Luật cộng hưởng – Tâm Năng ....... sẽ dùng để giải thích những hiện tượng trên .

Ngày nào mà , bức tường ngăn cách giữa vô hình và hữu hình được con người xoá bỏ , thì ngày đó , những giáo điều trong tôn giáo sẻ được xóa bỏ và sẽ được viết lại dưới một hình thức giáo khoa dể hiểu hơn , chứ không còn viết dước hình thức của biểu tượng học hay một loại ngôn ngữ khó hiểu nữa ; nhân loại sẽ được giáo dục với một học trình cởi mở , khai phóng và rỏ ràng hơn về những tiềm năng ẩn tàng của mình , để từ đó , con người có thể sinh hoạt và mở rộng hơn về cuộc sống của mình ở tất cả các cỏi , ở tất cả các chiều không gian đa chiều , trong lúc mình còn đang sống trong cơ thể vật chất của mình , cũng như khi mình có bỏ thể xác nầy vì sự hư hoại của nó , con người vẩn có thể sống ở cỏi vô hình , mà vẩn có thể liên lạc với người thân của mình ở cỏi hửu hình một cách dể dàng và ngược lại . Lúc nầy , thực sự là con người có thể bỏ chiếc áo củ , để thay chiếc áo mới mà mặc vào , để hoà mình vào nhịp sống thiên đàng hạnh phúc vĩnh cữu thật sự mà đấng tạo hóa đã ban phát cho tất cả chúng ta .

Một điều thật tế đã có thật sự trong cuộc sống ngày nay , mà khi được trình bày ra , được nghe như khoa học giả tưởng ; Đó là , các cường quốc đã liên lạc và hợp tác với một số các người hành tinh tiến bộ và thân thiện với nhân loại , từ những thập niên 60 , sau những cuộc thử nghiệm cấy tế bào , lấy noản hoặc tinh trùng của con người địa cầu để gieo giống với người hành tinh , thì đã được thành công từ lâu , hơn nữa khoa học tâm linh của người hành tinh rất cao , nên họ có thể chuyển di thần thức của họ qua một cơ thể mới tạo , và hiện nay những người nầy đã và đang sống tồn tại và trà trộn lẩn lộn trong xả hội của chúng ta , có một số người vì một cơ hội nào đó , thì họ thấy được nguyên hình của những người nầy hiện ra , nhưng khi họ nhìn rỏ lại , thì người nầy đã hiện lại với hình người bình thường .
Nên điều cần và thiết thực cho những bậc thức giả hảy gác bỏ ngoài tai , những tín điều hay những trì trệ của nhân loại trên đường tiến hoá , mà hảy kiên cường và dủng cảm , im lặng cùng kết hợp với nhau , đem kinh nghiệm và trí tuệ cùng tâm linh của mình để thực nghiệm và khám phá ra những điều còn tiềm ẩn trong tâm linh và con người của chúng ta , để từ đó có thể phá bỏ vô minh mà đi đến một đời sống an lạc hạnh phúc , vui vẽ và thịnh vượng .
TRUNG NGÔN NGHỊCH NHỈ .
LỜI THẬT THÌ MÍCH LÒNG
THUỐC ĐẮNG GIẢ TẬT.
TRUNG ĐẠO = NIẾT BÀN
CHẾT LÀ HẾT = CHẾT LÀ HẾT ?
CHẾT LÀ SỐNG ?
SỐNG LÀ CHẾT ?

Lúc đó chắc không còn ai hỏi câu :
Chết đi theo ông bà tổ tiên?
Về với Cha Trời?
Về với Mẹ Đất?
Hay lang thang không biết về đâu?

Ôi về đâu hỡi ông trời !!!!!
Nhưng mà Ai đi đây?

Với vài lời thô thiển , ném ngói để xin được dẩn ngọc . Kính thỉnh các bậc cao minh và các bạn cùng đàm đạo cho sáng tỏ vấn đề và tạo lợi ích cho mọi người và nhân loại ; còn những tranh luận kinh điển dựa vào niềm tin mù quáng không được kiểm chứng hoặc tranh luận hơn thua , phải trái , nhị nguyên ..., đi xa sự thật và nhu cầu đích thực của con người hoặc vì những lý do nào đó , xin miển tranh cải , vì nó làm mất thì giờ quí báo của mọi người .


Từ lúc lọt lòng mẹ , cho đến khi trưởng thành , con người đã bị nhồi sọ quá nhiều về đời sống bên kia cửa tử , nhưng thử hỏi những người thân của họ khi qua đời có được một ai trở về hay không , hay là một khi chết đi thì vĩnh biệt ngàn thu . Có một người cha làm một thí nghiệm , rằng khi ông chết đi , nếu linh hồn ông có tồn tại , thì sau khi chết đi vào một ngày nào đó định sẳn , ông sẻ trở về và sẻ gỏ lên bàn ba tiếng , hoặc sẻ làm một việc gì đó để người con có thể biết rằng ,mặc dù thể xác người cha đã mất nhưng linh hồn vẩn tồn tại và vẩn sinh hoạt bình thường . Nhưng than ôi , khi người cha chết đi , thì những điều hứa sẻ trở về không thể nào thực hiện được , vì con người khi chết là hết . Điều nầy , nếu ai không tin , thì nếu trong gia đình có người thân sắp chết , thì hảy sắp đặt làm như vậy đi , thử xem người thân của mình có trở về được không . Đương nhiên là không trở về được .
Tất cả những hiện tượng tâm linh và nói chuyện với người chết , đều là những tiếp xúc với những tín hiệu tàn dư được lưu giữ trong thiên nhiên qua dòng địa từ của quả đất , giống như cuộn băng lưu giữ những tín hiệu từ tính của một vở tuồng hay một cd-crom thuộc nhu liệu automatic interactive của máy vi tính vậy , khi gặp trường hợp thích hợp của hoàn cảnh chung quanh cùng tầng số rung động của nảo bộ đồng nhịp với nhau , thì đầu óc con người như một đầu máy video hay máy đọc dĩa của máy vi tính , tất cả những hình ảnh được lưu giữ kia sẻ tái hiện trở lại trong đầu của người nhận hoặc người nhận có thể thấy được những con người đã chết từ xưa sống trở lại vậy qua hình thức ma quỷ , hiện hồn vậy . Đương nhiên , đó chỉ là một cách trình bày , một cách đơn giản với trình độ khoa học ngày nay , vấn đề cỏi vô hình vẩn còn phức tạp nhiều lắm , chính vì thế mà cho đến ngày nay , các tổ chức tôn giáo và giáo điều cũng vẩn còn đất để dụng võ , và vẩn còn khối người tin theo , tệ hơn nữa là những người nầy hùa theo để bênh vực cho những điều mình không thấy và không thể chứng minh được , và với niềm tin mù quáng đó , vô tình niềm tin đó đã trở thàn h một liều thuốc phiện để ru ngũ họ trong cuộc sống và cho cả đến lúc họ từ bỏ thể xác nầy cũng vậy .
Phần tâm thức vi diệu bên trong của con người là tiềm thức và vô thức , đã góp phần không nhỏ trong việc ngụy tạo và tái tạo những hình ảnh bên kia cửa tử , đã cũng cố thêm cho niềm tin về ma quỷ , hồn người chết hiện về .....Cộng thêm là tâm lực mạnh của những nhà ngoại cảm hay nhà thôi miên vẩn có thể dùng tâm lực của mình để tạo cho một người hay một tập thể có được những ảo giác về những hiện tượng siêu linh như trên .
Ý thức của mổi cá nhân như là mổi dòng sông nhỏ , tất cả đều chảy về một đại dương to lớn , là biểu tượng cho phần vô thức của con người ; nói một cách khác , ý thức của mổi người có nhửng tử số khác nhau , nhưng tất cả đều có chung một mẩu số ; Do đó , khi người nào tìm được phương pháp nối tiếp được con đường thông thương giữa ý thức và phần vô thức của mình , thì người đó có thể lấy được thông tin lưu trử của bất cứ người nào đó mà họ muốn ; việc nầy người ta gọi nôm na là tha tâm thông .
Từ cổ chí kim , nhân loại đã phóng biết bao hình tư tưởng , gọi nôm na là tin tức mả , tức là những mả số về thông tin vào trong không gian , cộng thêm vào đó là những hình tư tưởng mạnh của những nhà ngoại cảm hay những vị đắc đạo , từ xưa đến nay đã phóng lên đó , những hình tư tưởng nầy đã hình thành những khối tâm năng rất mạnh , có thể tồn tại một cách độc lập với chủ của nó và kho tài liệu năng lực nầy được cất trong thiên nhiên được gọi nôm na là ký ức của vũ trụ – Akashic record .
Do đó , với một phương pháp và công thức đặc biệt , con người có thể kêu gọi những lực nầy hiện hửu để để ban phúc hay giáng họa tùy theo mục đích của người mời gọi vậy .
Từ trong tôn giáo cho đến huyền bí học , dù có diển đạt với hình thức nầy hay hình thức khác , đều có nói tới linh hồn tồn tại , nhưng thực ra chỉ có sự luân hồi hạ đẳng của tứ đại vật chất hoặc sự di truyền của DNA qua sự truyền giống của nhân loại ; còn phần luân hồi của linh hồn , nói một cách chính xác , là sự luân hồi của một cá nhân , bao gồm tình cảm , kiến thức , kinh nghiệm , tu duy hay sự tu tập ...của một cá thể như Anh A , Chị B ....thì không bao giờ được nói đến hay chứng minh một cách chính xác , sự tồn tại hay tái sinh trở lại của người nầy , và người nầy khi được tái sinh vẩn giữ nguyên vẹn được những cá tánh như trước , Một sự thật dể hiểu , con người chết đi là hết . Nên vấn đề nầy mới đi vào trò chơi hỏa mù cuả tín ngưởng và mê tín mà thôi .
Cũng như trong triết lý của Schopenhaul , thì con người dù có chết đi , nhưng hình dáng và giống của con người vẩn còn tồn tại ; cây chuối nầy có chết đi , nhưng hình dáng cây chuối vẩn còn tồn tại qua cây chuối khác ; thì đây chỉ là một trò chơi chử và đánh lận con đen ; là mặc dù hình dáng con người vẩn còn tồn tại , nhưng đây là một con người hoàn toàn với một đầu óc mới , còn con người củ , tức là tôi và anh khi chúng ta chết đi , thì sẻ vĩnh viển tiêu tan , và con người mới được sinh ra là một con người hoàn toàn khác , cũng như không thể so sánh con người đồng hóa với cây chuối được .
Chính vì , không muốn cho con người biết rằng chết là hết ; nên các bậc cổ đức đã đặt ra vô số kỷ thuật và ngôn từ để hình thành một hệ thống tín ngưởng , hầu đặt con người vào một mối . Nhưng với đà tiến hóa ngày nay của nhân loại , con người đã có đủ sáng suốt , khôn ngoan và phương tiện để tung chiếc thang vào không gian vô tận hay mang đôi hia bảy dặm để đi khắp năm châu bốn bể để khám phá những lảnh vực huyền bí
mà ngày xưa con người không bao giờ biết đến ; cũng như những bí mật của thuật luyện kim tinh thần của Tây Phương , thuật tu luyện của Đạo gia và thuật Yoga cao cấp của Ấn Độ và Mật Tông của Tây Tạng đã được công khai hóa cho mọi người ; Nên bức màn bí mật của việc sanh tử dần dần được nhiều người tìm ra và thực chứng một cách minh bạch ....

NẾU BÀI VIẾT NẦY KHÔNG THÍCH HỢP VỚI DIỂN ĐÀN , XIN THẦY HÙNG SƠN SỮA LẠI CHO THÍCH HỢP HOẶC XÓA BỎ HOÀN TOÀN , CẢM ƠN NHIỀU .
XIN XÁM HỐI - THIỆN TAI , THIỆN TAI _()_
huynh Ánh Sáng kính mến .

Bất cứ một tư tưởng nào cũng có người nghe người bài bác. Tại hạ rất trân trong mọi ý kiến đóng góp của mọi người trên diễn đàn này, nếu không phạm vào những điều cấm kỵ của nội qui.
Do đó, tại hạ rất hoan nghênh sự đóng góp quí báu này của huynh. Dù Đúng hay Sai mà không có hại cho ai thì đó cũng là một bài học cho tại hạ. Xin chân thành cám ơn sự đóng góp của huynh và mong được nghe các thức giả khác chỉ giáo thêm cho.

Kính
Hùng Sơn
Xin cảm ơn , hoan hô sự ủng hộ , cổ võ , thái độ cởi mở , cùng tinh thần tôn trọng sự thật , tự do dân chủ và phục vụ lợi ích mọi người của Thầy Hùng Sơn .
Những đột phá mới trong thế giới tâm linh , rất khó khăn mà diển đạt trong một môi trường công cộng , đầy mọi thành kiến và định kiến . Nhưng cũng nhờ đó , mà con thuyền nhiều khi phải ra đi trong cơn bảo lớn , được sự trợ duyên của các bậc thiện tri thức và các bậc đắc đạo , thì con thuyền nầy mới nhanh đến được bến giác , vì đã vượt khỏi sông mê . Thấy được tia sáng chân lý ở cuối đường hầm , đưa ta về nơi ánh sáng ....Từ đó trong ta bừng nắng hạ ; Mặt trời chân lý nở trong tim .....
Suốt thời gian dài lăn lộn trong trường đời , đi xuyên qua các học hỏi và tập luyện trong các tôn giáo , huyền bí học , khí công và võ học , mặc dù bể học mông mênh mà sinh mạng và năng lực của con người có giới hạn , để tranh thủ với lưởi hái tử thần của thời gian và sự hủy hoại tàn tạ của tâm thân trong thời gian tới do tuổi đời chồng chất ; Nhân lúc , thời hoàng kim của cuộc đời còn sáng chói ; Ngu đệ , xin dâng lên vài dòng suy tư hạn hẹp của mình để mong tô điểm vài bông hoa cho cuộc sống nhân thế , nếu vô tình có gì sơ sót và hiểu lầm , đụng chạm , xin mọi người cùng chư vị Thần Linh niệm tình tha thứ , con xin thành tâm sám hối và cúi đầu , câm miệng , lẳng lặng , ôm cột mà nghe và học hỏi ...còn nếu không được tha thứ , con xin được chết bất đắc kỳ tử cũng cam lòng ...........
Xin mời , các bạn hảy thong thả thưởng thức những hương vị ngạt ngào của một tiểu luận hổn hợp giửa thế giới tâm linh và khoa học sau đây nhé ....
Một người được sinh ra do sự truyền giống của cha mẹ , người nầy phải trải qua một quá trình sanh lảo bệnh tử , hay thành trụ hoại không của qui luật vật chất .
Từ lúc là một trẻ sơ sinh , sinh hoạt tâm sinh lý còn tùy thuộc vào khả năng sinh tồn trong gen DNA , mà luôn gắn bó với người mẹ để được bảo vệ và cung cấp vật thực để sinh tồn và trưởng thành ; qua một thời gian đứa trẻ lớn lên , từ hai tuổi đến đến sáu , đứa trẻ có thể đã quen thuộc với môi trường chung quanh , xử dụng những bộ phận tay chân của cơ thể một cách thuần thục , đồng thời phân biệt được những người thân sơ , khi đến tuổi cắp sách đến trường , đứa trẻ dần dần phát triển khả năng tu duy và phát triển trí tuệ ngày một cao hơn , cho đến khi trưởng thành và sau đó trở nên già yếu .
Như vậy , đứa bé lúc sơ sanh , lúc hai tuổi , lúc sáu tuổi , lúc mười tám tuổi và lúc bảy mươi tuổi , đều là những cá nhân có một bản ngả , tâm tư nguyện vọng và tình cảm hoàn toàn khác nhau , đó là chưa nói đến sự thay đổi khác nhau của cơ thể vật chất , cứ mổi chu kỳ bảy năm các tế bào trong cơ thể của con người hoàn toàn đổi mới ; đứa trẻ lúc sơ sanh và trước tuổi cắp sách đến trường hoàn toàn không biết hình ảnh của mình khi lớn lên và khi già sẽ như thế nào ; cũng như ông già lúc bảy mươi tuổi cầm một bức ảnh bị mất khi được chụp lúc sơ sanh hay sáu tháng tuổi là ai .
Bởi vì khi con người lúc sanh ra và khi lớn lên đều có một tự ngã , phong tục còn gọi nôm na là linh hồn hay ông chủ nhà , không thay đổi ; và những bản ngã khác nhau thay đổi tùy theo thời gian và tuổi tác ; cũng như vòi nước trong vườn hoa , hay một giòng sông , mặc dù thấy nước , nhưng mổi lúc những hạt nước hay những dòng nước khác nhau chảy qua ; nhưng hình ảnh của vòi nước hay giòng sông , cũng như đặc tính của nước không thay đổi .
Như vậy , hình ảnh đứa nhỏ ngày xưa đã biến mất đi và chết đi , để người thanh niên được trưởng thành , cũng như cần phải kéo sập căn nhà củ mục nát để xây căn nhà mới , đuôi con nhái phải đứt đi để nhái có thể lên bờ , hay nhọng thành bướm vậy . Khi ông già bảy mươi chết đi , thì đó là ông già chết đi , còn đứa bé đã chết từ khuya rồi , nên ông già mới có thể sống đến ngày nay , nếu hình ản h của đứa bé sáu tháng tuổi không chết , mà cứ giử mải hình dáng và tâm sinh lý của một đứa bé sáu tháng tuổi như thế mải , thì sẻ không có hình dáng và tâm sinh lý của ông già bảy mươi tuổi ngày nay , và đứa bé nầy sẻ là một đứa bé bất thường trong lịch sử nhân loại .
Từ lúc mới sinh ra , nảo con người , có tiểu nảo và đại nảo , phần tiểu nảo được xem là kho chứa tóm gọn tất cả , quá trình tiến hóa của con người từ hàng tỉ năm về trước , cũng như quá trình tiến hoá nầy được thúc đẩy hình thành nhanh chóng của con người trong thời gian chín tháng mười ngày trong thai bào , qua các quá trình nẩy nở của tế bào , từ sống trong môi trường nước trong bào thai , đến lúc sanh ra ngoài đời để sống ở trên đất ; ngoài ra tiểu nảo cũng giữ phần quan trọng trong việc bảo vệ an toàn và thăng bằng cho cơ thể trong cuộc sống .
Còn phần đại nảo , có đầy đủ khả năng tiếp nhận và lưu trử những thông tin được thu nhập qua các cảm quan và giác quan của cơ thể ; và thông qua một thời gian dài , những thông tin nầy trở thành một bản ngả của con người , tồn tại độc lập với những cá thể khác . Ta có thể tạm so sánh con người với bộ máy vi tính hiện đại có các chức năng và các phần cấu tạo của phần cứng và phần mềm vậy , mặc dù bộ nảo con người có sức chứa và chức năng vô hạn vượt xa hơn bộ máy vi tính . …Phần tâm linh của con người , là một loại vật chất siêu hình đối với sự đo lường và kiểm nhận của những dụng cụ khoa học và loại vật chất nầy là do nảo bộ sống tạo ra . Khi nảo bộ bị chết hay bị hủy diệt thì , phần vật chất siêu hình nầy bị mất đi ; nói cách khác khi nảo bộ bị chết thì linh hồn bị mất đi và tiêu tan , như củi hết thì lửa tắt , mặt dù có những ngọn lửa khác , nhưng thành phần để đốt lên ngọn lửa nầy là do những cấu trúc khác nhau của những cây củi khác tạo nên , chứ đặc tính của ngọn lửa kia , thì đã tan mất rồi .
Về phần vũ trụ tâm lý của con người có hai phần : vũ trụ khách quan và vũ trụ chủ quan . Vũ trụ khách quan là khi con người chết đi , thì những sơn hà đại địa và những cá nhân khác vẩn còn tồn tại . Vũ trụ chủ quan , là khi con người chết đi , ý thức tắt đi , là cả một thế giới bên trong và bên ngoài đều bị tiêu diệt và tất cả sẻ mất đi hoàn toàn đối với người nầy ; mặc dù của cải , người thân vẩn còn đó , nhưng tất cả đều không dính liếu và ăn nhập , ích lợi gì cho mình cả .
Vì vũ trụ là một chỉnh thể , nên mọi vật tồn tại đều có sự tương liên hửa và vô hình với nhau , nên con người cũng nằm trong luật nầy . Trong quá trình sinh tồn của con người , sự sinh hoạt của con người được chia làm hai loại : loại thứ nhất là loại sinh hoạt thuộc phạm vi hạn hẹp thuộc lảnh vực tri thức và hệ xử lý ý thức của con người , như sinh hoạt xả hội và khoa học qui ước ; loại thứ nhì có những hiện tượng sinh hoạt thuộc chức năng cao cấp , thuộc hệ xử lý tiềm thức hay vô thức của con người với con người , của con người và hoàn cảnh xung quan h , của con người và vũ trụ , như những khả năng và những giác quan ngoại cảm tiềm ẩn của con người qua những sin h hoạt tâm linh , mà khoa học chưa tìm ra và chưa giải thích được cặn kẻ , như ma quỷ , linh hồn , lên đồng , ma nhập , đầu thai , luân hồi , thế giới sau khi chết ……
Con người khác với con thú , là vì nảo bộ của con người có những cấu trúc đặc biệt , nên có khả năng tạo được một loại vật chất cao cấp , được người ngày nay gọi là linh hồn ; tất cả những thuộc tính của linh hồn bao gồm những chức năng từ hữa hình đến siêu hình , như cơ thể vật chất tứ đại của con người , cho đến các thể vi diệu bên trong con người như thể phách , thể vía , thể hạ trí , thể thượng trí , thể trực giác , thể linh giác …..Phần vật chất cao cấp gọi là chủ thể của con người , tự ngả của con người hay ta tạm gọi là linh hồn được định nghĩa theo phạm trù của luận đề nầy , phần linh hồn chủ thể nầy có thể giáng hạ hay thăng thượng hoặc đồng hóa với các thể bên dưới hay bên trên , chủ thể nầy có thể đồng hóa với thể vía , cảm xúc của thể vật chất để thỏa mản những nhu cầu phàm tính của mình , và phần chủ thể nầy có thể đồng hóa với thể trí để có những sinh hoạt văn hóa và phát minh khoa học và phần chủ thể có thể dùng những chức năng của hệ xử lý tiềm và vô thức để thực hiện những sinh hoạt tâm linh , giữa cá nhân nầy với cá nhân khác , giữa con người và hoàn cảnh xung quanh , giữa con người và những sinh hoạt của những sinh vật đến từ hành tinh khác ; những sinh hoạt nầy nếu được con người ý thức , nhưng không giải thích được , thì được cho là thiên thần , ma quỷ , thế giới có các chiều đo khác nhau , linh hồn người chết …..và những sinh hoạt mê tín khác ….
Trong lúc sinh thời , những tư duy và tâm năng của con người sống cũng như lúc sắp chết , tâm năng nầy được phóng ra và được lưu giữ trong những đất đá , cây cối , sông ngòi và không gian của môi trường chung quanh . Những loại năng lượng nầy , nếu gặp môi trường và điều kiện thích hợp , sẽ có khả năng xuất hiện trở lại khiến cho hệ xử lý tiềm thức của con người bắt được và ghi nhận , như những hiện tượng người chết trở về , ma quỷ ....v..v...
Ngày nay , do sự công khai hóa các phương pháp luyện tập khí công của Mật Tông , Yoga tâm linh cao cấp của Ấn Độ , Ngoại cảm Psychic của Tây Phương , UFO , Huyền bí học Đông Tây và hệ thống Đông Y , Châm Cứu , Kinh Lạc , Nhân Điện …..nên những loại vật chất siêu hình nầy lần lần được lý giải cộng thêm những kết quả tìm được của khoa học vật lý của sự sống là Nhân Thể Học Đông Phương , là một sự kết hợp thực nghiệm của Lượng tử hoc̣ , lý thuyết sợi , Super string , Chaos của khoa học hiện đại bên ngoài và phòng khoa học bên trong , lấy phần bên tâm linh bên trong làm phòng thí nghiệm của những nhà Khí Công , Thiền sư , Huyền Bí Gia , Fakir Ấn Độ ….Đã giúp nhân loại tìm và giải thích được phần nào những bí ẩn bên trong của con người và vũ trụ siêu hình ; đồng thời đặt nền tảng cho một khoa học mới xuất hiện trong thế kỷ
21 .
Sự phát hiện ra Bức Xạ Tàn Dư , Công Năng của Hệ Xử Lý Tiềm và Vô Thức ; thêm vào đó những tinh hoa rút ra từ khoa học chuyển di thần thức tái sanh Phowa và từ sáu pháp môn của Naropa Mật Tông Tây Tạng , con người đã lý giải được phần lớn những hiện tượng siêu hình .
Kiến thức của con người được tích lủy và truyền lại qua những khoa học truyền thông và qua những sự giáo dục trực hệ do Cha Mẹ truyền cho con cái , hay bàng hệ qua xả hội , nhà trường , tôn giáo .....Trong lịch sử của con người , ta chưa từng nghe thấy , là một ai khi sinh ra và khi lớn lên , liền có được một kiến thức và kinh nghiệm do sự huân tập của kiếp trước , mà kiếp nầy không cần học tập gì cả ; là một khi trưởng thành , đầu óc phát đạt đầy đủ thì kiến thức nầy liền sở hữa trở lại , nhờ linh hồn của kiếp trước còn tồn tại ở cỏi trung giới , và nay đầu thai nhập vào một thân xác mới và có ngay kiến thức và kinh nghiệm của một quá trình gian khổ học tập của kiếp vừa qua , nên khi bước vào xả hội liền thi trở lại và trở thành Bác Sỉ hay Luật Sư hoặc Khoa Học Gia ngay tức khắc ; như vậy đã tiết kiệm được ngân quỷ của gia đình và quốc gia rất nhiều , trong việc đào tạo một nhân tài cho đất nước .
Cũng như ta không nghe nói , linh hồn người chết vì còn tồn tại , nên linh hồn người nầy có thể dạy dổ cho người thân những kiến thức hay tài nghệ có được của mình , để người thân có thể kiếm tiền sinh sống , hoặc linh hồn người chết mặc dù không có thể xác vật chất , nhưng do có khả năng viển di sinh vật , mà ta nghe nói ma quỷ dùng năng lực nầy để xê dịch đồ đạc , ném đá , tạo tiếng khóc , nói chuyện , hiện hình ....ma quỷ có thể nhập vào người sống để nói chuyện v..v...
Nếu thật sự có vấn đề nầy , thì người chết có thể dùng những khả năng nầy , để có thể sinh hoạt ở cỏi vật chất mà giúp đở gia đình , giáo dục con cái hoặc phục vụ tích cực hơn cho quốc gia ,xả hội và nhân quần . Còn hơn là dùng những năng lực nầy , thể hiện lên cỏi đời để than khóc , kể lể , nỉ non , ai oán và hù nhát những người khác , tạo nên những sinh hoạt phần lớn là phá hoại và tiêu cực cho người thân hoặc xả hội ; như thế là làm chậm đi bước tiến bộ và hạnh phúc của nhân sinh đồng thời tạo thêm mê tín , kéo tâm linh con người trở lại thời thượng cổ .
Còn nếu ta nói , khi ta chết đi , linh hồn còn tồn tại , nhưng người đời không thấy ta và khoa học cũng không thể liên lạc với ta được , mặc dù ta biết là ta , nhưng con ta và gia đình ta không biết là ta còn tồn tại , còn ta thì không thể liên lạc hay làm gì được trong cỏi vật chất , mặc dù ta có thể đi xuyên qua tường , bao cao lên không trung , đọc được ký ức của vũ trụ , thấy được kho tàng , hầm mỏ quí kim trong lòng đất , học được nhiều khoa học cao cấp của cỏi vô hình , nhưng ta không thể mang những đồ vật quí và những kiến thức hay những thông tin quí báo nầy , về cỏi trần giúp cho gia đình người thân và xả hội , thì sự tồn tại của linh hồn của ta có nghĩa lý vì , và sự tồn tại nầy đồng nghĩa với việc con người chết đi là hết , linh hồn sẻ tiêu tan , vì nảo bộ đã bị tan rửa và mục nát .
Vậy linh hồn hảy an vui ở cỏi của mình , ráng học tập và phát minh thêm khoa học cao cấp , để một ngày nào đó , khi tìm được phương pháp hiện hình trở về cỏi trần , sinh hoạt trong định luật vật lý của cỏi trần , thì ngày đó sẽ có cơ hội tích cực giúp đở cháu , chít , chắt và đồng bào của mình và xả hội một cách ích lợi và hữu dụng hơn ; ngày trở về đó chắc có lẻ con cháu và người thân của mình , cũng bận đi xa ở cỏi trời trung giới nào đó , vĩnh viễn sẽ không có thể gặp mặt mình ; cũng như những nấm mồ hoang của thời xa xưa , đã trở thành hoang tàn và xa lạ với con cháu chít và đồng bào của họ vậy . Hiện nay , mọi người ở cỏi trần chỉ cầu mong một điều , là linh hồn sau khi chết đi , nếu còn tồn tại , mà không làm được điều giúp ích , tích cực cho người thân và xả hội , thì cũng đừng hiện lên làm chi để hù dọa , kể lể , ai oán , nỉ non làm gì vô ích , vì làm như thế chỉ phí công , thì giờ và càng làm linh hồn tủi nhục và chán nản thêm , và người thân của mình luôn bị mình quấy phá cũng không được an tâm mà lo kế sinh nhai và dạy dổ dưởng dục con cái ....
Khi con người chết đi , thì như một ngọn lửa , khi cháy hết nguyên liệu , thì ngọn lửa tắt vậy , đó là cách tự nhiên , an lạc và tuần tự . Có những trường hợp ngọn lửa còn nhiên liệu nhưng vẩn bị tắt vì gặp nước , mưa bảo , hay bị vật chi đè xuống , dập tắt , hoặc thiếu không khí .....
Còn con người , thì có người bệnh già chết , có người chết bất đắc kỳ tử , bị đứt mạch máu nảo chết , bị trúng đạn chết , bị trúng độc chết , bị chất nổ chết tan thây ; lại có người nhờ tập luyện , có thể tự thức được chức năng nào của cơ thể sắp hủy diệt , sẻ kéo theo sự hủy diệt toàn bộ hệ thống sinh mạng , nên có tính trước được được ngày giờ chết ; cũng lại có người nhờ tập luyện điều tâm và điều tức cao cấp , có thể cách ly cảm giác với cơ thể , phong bế hô hấp , để có thể tự ý rời bỏ cơ thể để trở về tứ đại và linh hồn trở về tịch lặng , tức là tan mất trong hư không .Đó là không nói đến các cách thức huân tập thường ngày về một cỏi tịch tịnh , an lạc nào đó trong vô thức , đến khi những chủng tử nầy vững chắc , và khi mệnh chung , trước khi từ giả cỏi đời , hệ xử lý ý thức không còn hoạt động nữa , hệ xử lý tiềm thức bắt đầu hoạt động , thì những thông tin chủng tử được huân tập trong lúc trước sẻ hiện diện mà tạo cho người mệnh chung trước khi ra đi có những thái độ , cử chỉ và lời nói thánh thiện , hoặc trong nội tâm của người đó cảm thấy thân thiện với những nguyên hình thông tin của những chủng tử được huân tập vào lúc sinh thời , nay phát huy tác dụng và những chủng tử thông tin nầy trở thành liều thuốc an thần đưa người chết ra đi một cách thư thái và an lạc , mặc dù lúc đó người đó không ý thức được điều nầy ; Chứ thực ra không có một cực lạc giới nào để đi đến , hay một quả vị nào để thành tựu cả ....Việc nầy cũng như cuộn băng vô thức bị tháo ra của một người làm nghề thọc huyết heo , sẻ tru hét khi bị thọc huyết như heo khi sắp lâm chung , vì lúc sinh tiền bị những hình ảnh và âm thanh nầy huân tập nhiều lần vào vô thức của người nầy vậy .Do đó , dù ra đi an lạc hay ra đi đau khổ , con người có một điểm giống nhau tức là chết đi là hết . Là vĩnh viễn ra đi , một đi không bao giờ trở lại .
Mặc dù , trong xã hội ngày nay đa số con người biết rằng chết là hết , nhưng không một ai dám nói ra điều nầy ; một số khác nhờ một niềm tin vững chắc vào lý tưởng của họ , nên lúc ra đi tâm thân được an lạc và người còn lại mang một niềm an ủi là người thân của họ được vào một cực lạc quốc nào đó , nên họ được thăng bằng tâm thần trong cuộc sống tình thân gia tộc và đạo đức của truyền thống tổ tiên và gia tộc .
Vì biết rằng chết là hết , nên những người tích cực và thánh thiện ,lúc nào cũng biết kiếp người phù du , lúc nào cũng xem như mình sắp chết đến nơi , nên lúc nào cũng đem hết tâm trí và nghị lực cùng tài năng để làm lo giúp cho gia đình , làm điều thiện , phục vụ xả hội và quốc gia dân tộc , đồng thời còn ghi chép và để lại những kinh nghiệm , kiến thức của mình cho hậu thế . Còn những người ác , biết rằng chết là hết , nên lúc nào cũng ích kỷ , hại người để thỏa mản lòng tham không đáy của mình , họ còn tạo ra những điều mê tín để lừa gạt người khác về những lợi lộc vô cùng tận của kiếp sống mai sau , mà hảy để những lợi lộc tạm bợ của thế gian nầy , để dành cho riêng người ác hưởng , và đừng tranh giành với họ làmn gì ; nhưng một điều không may là người ác và gian xảo không có mạng để mà hưởng những cuả cải đó và những gian manh lừa đảo của họ đã bị luật pháp và những anh hùng, thiện nhân khắc chế , nên họ không thể tự tung tự tác được . Nhờ thế , xả hội loài người ngày nay có những thành quả vật chất và tâm linh tiến bộ vượt bực , tiến bộ vật chất phục vụ tiện nghi hưởng thụ của con người , tiến bộ tâm linh có được những hướng dẩn tinh thần cuả nền minh triết cổ truyền của nhân loại khai sáng . Nên thế kỷ 21 , sẽ là thế kỷ mở đầu thời đại hoàng kim cho toàn thể nhân loại .
MỐI QUAN HỆ GIỮA THỂ XÁC VÀ LINH HỒN .

Theo GS Badham , dường như bằng chứng tồn tại của linh hồn nằm ở KINH NGHIỆM KỀ CẬN CÁI CHẾT được những người chết đi sống lại mô tả . Kinh nghiệm đó gồm hai phần tách bạch nhau . Một mặt họ cảm thấy hồn như rời khỏi xác và từ trên cao nhìn xuống những cố gắng cứu chửa họ . Mặc khác . những ma quỷ thần linh .....xuất hiện như đến đón họ sang một thế giới khác .Badham cho rằng nếu hình ảnh ma quỷ , thần linh có thể giải thích bằng ảo giác , giống như khi kích thích điện vào một vùmg nảo , thì mô tả chính xác các cố gắng cứu chữa họ lại chưa được giải thích thỏa đáng . Phải chăng, đó là bằng chứng tồn tại của linh hồn ? và linh hồn có thể rời thể xác như trong thí nghiệm thoát xác , thậm chí có thể tồn tại sau cái chết của thể xác ?
Về hiện tượng hồn rời khỏi xác , cần nhắc tới một THÍ NGHIỆM CÁCH LY CẢM GIÁC tại Đại Học McGill , Canada nam 1951 . Trong một buồng cách ly cảm giác , sao cho người chịu thí nghiệm hầu như không nhận được các tín hiệu cảm giác , hiện tượng xuất hồn đã được thực hiện thành công . Tất cả sinh viên tham gia thí nghiệm đều chịu những biến đổi tâm trí sâu sắc, đến mức cảm giác bản thể bị rối loạn . Họ thấy cơ thể tách làm đôi , hồn bay lang thang giữa không trung ...Nói cách khác , CẢM GIÁC HỒN BAY LÊN KHÔNG TRUNG CHỈ LÀ ẢO GIÁC .
Đến năm 1993 , TS Charles McGreery , Đại Học Oxford đã vén được màn bí mật – theo tờ Economist , 7-13.8.1993 . Qua phỏng vấn và thử nghiệm , Ông phát hiện nét nhân cách KIỂU PHÂN LIỆT chung cho những người đã tuyên bố đã từng thoát xác. Khi nét nhân cách đó bị đẩy tới tận cùng , họ sẽ bị tâm thần phân liệt .Trong thí nghiệm của ông, một nữa số đó có ảo giác và 20 % xuất hồn thực sự . Người bình thường không trải qua kinh nghiệm đó . Như vậy thực chất của xuất hồn đã được nhận chân . Còn việc mô tả chính xác hành động của thầy thuốc ? Muốn trả lời câu hỏi nầy , cần xem xét bản chất của tâm trí .

BẢN CHẤT CỦA TÂM TRÍ
Trước kia tâm trí được đồng nhất với ý thức . Tuy nhiên , nhờ phân tâm học , ta đã biết ngoài ý thức , tâm trí còn có tiềm thức và vô thức . Đó là công của Freud , mặc dù ông sai lầm khi gán cho vô thức vai trò quyết định. Khi ngũ hay khi cầu hồn , xuất hồn , thoát xác lên đồng ….tâm trí rời ý thức để tới tiềm thức và vô thức . Theo khoa học nhận thức HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC , không những xử lý đồng thời được thông tin đến từ rất nhiều nguồn , mà còn có độ nhạy cao , cho phép bắt được những tín hiệu rất nhỏ yếu , mà khi tỉnh , ý thức không nắm bắt được . Chính khả năng nầy , giải thích được nhiều hiện tượng NGOẠI CẢM và TÂM LINH ( thần giao cách cảm , lên đồng , đọc ý nghỉ người chết , luân hồi , ma quỷ ...... ).
Có thể cho rằng , trong trạng thái kề cận cái chết , tâm trí rời ý thức , để tới tiềm thức và vô thức . Và HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC bắt được ý nghỉ của một người trong đội cấp cứu , hay của người quan sát đứng bên cạnh , qua các sóng điện từ , do xung động thần kinh phát ra . Khoa học đã đo được các sóng 10 và 37.5 m , gần dải tần đài phát thanh hay dùng . Các sóng nầy có thể phản xạ trên tầng điện ly để đi vòng quanh trái đất . Một nhà ngoại cảm cách nữa vòng trái đất có thể bắt và giải mả thông tin , như máy thu thanh vậy ; Như vậy đọc được ý nghỉ từ xa cũng không có gì là huyền bí .
Tóm lại trong trạng thái cận kề cái chết , một mặt do ảo giác , người chết đi sống lại thấy hồn như bay lên cao ; mặt khác vô thức và tiềm thức lại bắt được ý nghỉ người khác , khiến khi tỉnh lại , người nầy có thể mô tả khá chính xác hành động của thầy thuốc . Không thể xem đó là bằng chứng tồn tại của linh hồn .
Cuối cùng là một số luận điểm triết học . Ngoài hai quan điểm duy vật và duy tâm ; hiện ở phương Tây đang phổ biến Nhị Nguyên Luận ; Cho rằng vũ trụ được sinh với đồng thời hai thành tố : Vật Chất và Tâm Trí . Để phản đối , nhiều nhà khoa học lại đi vào cực đoan , cho rằng tâm trí đồng nhất với bộ nảo . Quan điểm khác của giáo sư vật lý Alwyn Scott ở phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos đáng tin cậy hơn , khi ông xem tâm trí như một SỰ NỔI LÊN – EMERGENCE do cấu trúc phức tạp trong bộ nảo . Đó chính là quy luật lượng đổi chất vậy .
Theo chủ thuyết nầy , ý thức là thuộc tính của nảo bộ phát triển , là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan , là sự phản ảnh thế giới trong tư duy , là sự giao thoa của hiện thực và tâm trí trong nảo bộ của con người . Nói cách khác , tâm trí chính là những hình ảnh hư ảo trong bộ nảo con người về hiện thực khách quan , giống như thực tế ảo trong máy tính . Thực tế ảo không thể tách khỏi máy tính để tồn tại giữa khoảng không , vậy làm sao cái hồn có thể tách khỏi cái xác để tồn tại ở cỏi hư vô .


TÌM HIỂU HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC

Theo NORMAN DIXON , 1981 , các trung tâm thấp hơn của hệ thần kinh xuất hiện trước vỏ nảo trong quá trình tiến hoá . Ông gọi chúng là hệ xử lý tiềm thức , tiếng Anh là PPS . Ban đầu PPS chủ yếu chuyển tải sự chú ý , tín hiệu báo động và sự đáp ứng cảm xúc . Khi võ nảo xuất hiện , PPS có thêm chức năng chọn lựa sơ bộ các thông tin trước khi chúng tới trước HỆ XỬ LÝ Ý THỨC võ nảo .
PPS xử lý được đồng thời thông tin đến từ mọi giác quan và các ngưởng kích thích thấp hơn hệ ý thức nhiều ; vì thế nó có thể xử lý lượng thông tin lớn trong thời gian hạn chế . PPS đáp ứng kích thíich ngoài theo cách PHẢN XẠ hay TỰ ĐỘNG và nhạy cảm trong việc xác định ý nghĩa cảm xúc của các kích thích hơn là ra một quyết định logic về chúng ; do vậy khi phát hiện một thông tin quan trọng , PPS gửi nó về HỆ XỬ LÝ Ý THỨC võ nảo .
HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC có giai trò quan trọng trong việc giải thích một số hiện tượng ngoại cảm và tâm linh . Đọc Ý NGHỈ NGƯỜI CHẾT nhờ lên đồng của nhà ngoại cảm , chính là cách dùng PPS để đo đạt BỨC XẠ TÀN DƯ từ tâm trí người chết và tín hiệu điện từ sinh học yếu ớt đến từ nhiều nguồn , mà ý thức không nắm bắt được . Những hiện tượng cầu hồn , xuất hồn , thoát xác , nhìn thấy ma , kinh nhgiệm cận kề cái chết ....đều có thể lý giải nhờ lý thuyết XỬ LÝ ĐỐI NGẨU đó của DIXON .

MỘT SỐ TỪ NGỮ THƯỜNG ĐƯỢC DÙNG
TRONG CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LINH

NGOẠI CẢM : Là nếu cảm nhận được thế giới ngoài mà không dùng các giác quan , ta sẽ có ngoại cảm . Đọc ý nghỉ người khác , liên lạc với người chết , nhìn xuyên tường hay tiên tri .......là cách cảm nhận bằng ngoại cảm .
THẦN GIAO CÁCH CẢM : là giao tiếp trực tiếp giữa các bộ nảo hay khả năng đọc ý nghỉ .
TIÊN TRI : Là khả năng biết trước các sự kiện tương lai .
HẬU TRI : Là thâu nhận thông tin xảy ra trong quá khứ , chẳng hạn như đọc ỵ́ nghỉ của người chết .
THẤU THỊ hay THẤU THÍNH : Là thâu thông tin ngoài tầm hoạt động của thị hay thính giác ; ví dụ như nhìn xuyên qua tường , hay nghe được âm thanh từ rất xa .
NGOẠI CẢM : Là nhận thông tin không qua năm giác quan thông thường , gồm bốn siêu năng kể trên .
VIỄN DI SINH HỌC : Là tác dụng của tinh thần lên thế giới vật chất , cả hữa sinh và vô sinh , như bẻ cong chìa khóa bằng ý nghĩ . VIỂN DI SINH HỌC là do hiệu ứng áp điện , Nhà khí công phát bức xạ vùng hồng ngoại gần 1060 nm , hồng ngoại xa 9300nm và vùng tần số cực thấp , vài chục Hz .

KINH NGHIỆM CẬN KỀ CÁI CHẾT : Là kinh nghiệm của người sống sót từ trạng thái gần chết , thường là cảm giác yên tỉnh , xuất hồn , ánh sáng cuối đường hầm .....
XUẤT HỒN – THOÁT XÁC : Là cảm giác thoát khỏi cơ thể vật chất , như thấy hồn bay cao quan sát xác .
LUÂN HỒI : Là niềm tin có nhiều tiền kiếp hay hậu kiếp .
KÝ ỨC ẨN DẤU : Là hiện tượng tâm lý đặc biệt , khi ta nhìn thấy , nghe được đọc ra , thu nhận một số thông tin mà không biết là ta đã biết chúng . Vì ta không biết , nên chúng ẩn giấu trong vô thức , hoặc vì ẩn giấu , nên ta không biết ; Khi chúng bất chợt hiện ra ở ý thức , ta rất ngạc nhiên không hiểu từ đâu và vì sao ta lại biết chúng .
MA ÁM : Là hiện tượng xuất hiện ở một số địa điểm đặc biệt , bao gồm sự hiện hình , âm thanh không rỏ nguồn gốc , đồ vật chuyển động ...
MA QUẤY RỐI : Là các hiện tượng viển di sinh học qui mô lớn , từng bị qui cho các LINH HỒN , hiện được xem là kết quả của con người , thường là những hậu quả vô hình phát ra từ những căng thẳng , bức xúc của thanh thiếu niên .
GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI CHẾT : Như trong hiện tượng tìm mộ hay cầu hồn ....
THẦN GIAO CÁCH CẢM là khả năng phát và thu bức xạ điện từ vùng radio phản xạ trên tầng điện ly .
ĐỌC Ý NGHỈ NGƯỜI KHÁC là đọc tín hiệu điện từ của xung động thần kinh chạy trong mạng neuron .
CHỮA BỆNH BẰNG BÀN TAY cuả nhà Nhân Điện là kết hợp điện từ sinh học trị liệu với tâm lý liệu pháp .
THU NHẬN NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ là cộng hưởng tác dụng của trường điện từ sinh học với các trường liên hành tinh , trước hết là trường địa từ .
ĐỌC ĐƯỢC Ý NGHĨ NGƯỜI CHẾT là đọc được BỨC XẠ ĐIỆN TỪ TÀN DƯ từ các xung động thần kinh tạo nên ý thức ; Do một số cơ chế đặc biệt , ác bức xạ nầy có thể tồn tại đủ lâu sau khi chết ; Bí mật căn nhà có HỒN MA được lý giải nhờ chúng .
TIỀN KIẾP là một người tình cờ giải mả được nhiều thông tin được chứa trong bức xạ tàn dư . Thân nhân người đã chết chỉ còn cách bái phục những gì được nghe . Tìm mộ những người lính bị chết , là do đọc ý nghỉ của người chết tức BỨC XẠ TÀN DƯ và cả người sống , tức người chôn cất và cảm xạ thi hài , nhờ đo biến động địa từ địa phương , hay phát trường địa từ thăm dò . Nói chung phải dùng que hay con lắc để tạo
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:04 am


TIỀN KIẾP là một người tình cờ giải mả được nhiều thông tin được chứa trong bức xạ tàn dư . Thân nhân người đã chết chỉ còn cách bái phục những gì được nghe . Tìm mộ những người lính bị chết , là do đọc ý nghỉ của người chết tức BỨC XẠ TÀN DƯ và cả người sống , tức người chôn cất và cảm xạ thi hài , nhờ đo biến động địa từ địa phương , hay phát trường địa từ thăm dò . Nói chung phải dùng que hay con lắc để tạo cộng hưởng . Vào những ngày mưa giông sấm sét , nhà ngoại cảm không đọc được tín hiệu , do bị nhiểu xạ quá mạnh , chứ không phải vì TỔ KHÔNG NHẬP , nhà ngoại cảm thường lên đồng , đó là một trong những phương pháp thu nhận thông tin qua vô thức . THIÊN ĐỊA NHÂN HỢP NHẤT là sự kết nối của cơ thể với môi trường thông qua tương tác điện từ và hấp dẩn .
TUYẾN TÙNG là THỤ THỂ TỪ của cơ thể , nên được xem là trung tâm năng lực , luân xa cao nhất , là luân xa thứ bảy ; che tuyến tùng , khả năng cảm xạ mất .
HIỆU ỨNG KIRLIAN là sự tương tác giữa trường địên từ sinh học với trường ngoài tầng số MHZ .
Những lý giải trên là dựa vào khoa học vật lý của sự sống ; nó cho ta thấy được những khả năng bước đầu của nhà ngoại cảm và khoa học vật lý của sự sống hay là khoa học nhân thể , nếu thành công thì nó có thể là một phát minh khoa học mới trong thế kỷ 21 nầy .



CÓ MA HAY KHÔNG

Chuyện thấy ma có thể giải thích khá đơn giản bằng việc đọc BỨC XẠ TÀN DƯ của HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC . Nói một cách nôm na , bình thường cơ thể sinh vật nói chung , con người nói riêng , là nguồn phát ra vô số các loại sóng điện từ ; các sóng nầy có thể lan truyền ra môi trường xung quanh . Người ta đã bắt đầu đo chúng , để chẩn đoán bệnh tật , như việc nhìn vòng hào quang của con người . Có điều lạ lùng , là khi cơ thể chết , cường độ tăng gấp hàng ngàn lần so với lúc thường . Cái lóe sáng cuối cùntg trước khi vụt tắt đó có thể mang một số thông tin về sinh hệ tại thời điểm chết và cõ thể được lưu trử trong một cấu trúc vật chất thích hợp , như cây cối , gạch ngói , nhà cửa , sông hồ .....Ta có thể xem các BỨC XẠ TÀN DƯ hay BỨC XẠ HOẠI TỬ ( là khái niệm của một nhà vật lý Ba Lan tên Janus Slawinski ) đó , có vai trò như cuộn băng hình ghi lại hình ảnh , tiếnt nói và một số thông tin về người đã chết vậy .
Để bắt và giải mả cuộn băng hình khá tinh tế và yếu ớt đó ; cần có một BỘ ĐẦU VIDEO thích hợp . Nói chung ý thức không đảm trách được nhiệm vụ , trừ một số người đặc biệt . Khi đó ta phải dùng HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC có độ nhạy cảm cao , có ngưởng kích thích nhỏ .
Khi con người bình thường , hội đủ điều kiện môi trường chung quanh , thời tiết khí hậu và những điều kiện tâm thức cần thiết , như trời còn quá sớm , hay trời đã tối , đầu óc còn chưa thức hẳn hay đã đầu óc mệt nhọc , tâm ý còn đang dao động giữa thức và ngũ hoặc tầng số rung động của nảo bộ đồng nhịp với bức xạ tàn dư , thì khi họ đi đến một địa điểm nào đó có lưu giữ BỨC XẠ TÀN DƯ , thì khi đó HỆ XỬ LÝ TIỀM THỨC của người nầy , sẻ bắt được sóng điện từ của bức xạ tàn dư của người chết được lưu trử trong môi trường nầy , chúng hoạt hóa các mạng neuron nảo , khiến con người nhìn thấy MA giống như một BỘ ĐẦU MÁY VIDEO đọc băng từ . Tiềm thứcvà vô thức của người nầy liền sắp xếp tất cả thành một câu chuyệnlớp lang như thật vậy . Người mê tín gọi là MA , còn khoa học chỉ xem đó chỉ là ảo giác , loại ảo giác được sắp xếp bởi một tín hiệu vật lý có thật .
Như vậy , MA có thể giải thích bằng các ảo giác dưới sự hướng dẩn của bức xạ tàn dư từ tâm trí của người chết được giữ lại trong môi trường chung quanh khi người nầy chết .
Hiện tượng chụp được hình ma , đa số 95 % là
do con người giả tạo , còn lại 5 % là do độ mạnh của bức xạ tàn dư của người chết còn lưu lại , trong một điều kiện cần và đủ nào đó , âm bản cuả máy ảnh có thể ghi lại những hình ảnh nầy . Cũng như một nhà khí công hay ngoại cảm giỏi , họ thể phóng hình tư tưởng của họ lên âm bản của film chụp hình , và có thể thấy hình nầy khi được rửa ra . Còn người thân hiện về là một sự cộng hưởng bức xạ tàn dư của người chết và tần số rung động thích hợp nảo bộ của người thân , khi những người nầy kêu gọi , hoặc mong gặp mặt .

LÝ THUYẾT XỬ LÝ ĐỐI NGẨU
CỦA ÔNG NORMAN DIXON
1981

Theo lý thuyết nầy , bộ nảo có hai hệ xử lý thông tin : HỆ TIỀM THỨC và HỆ Ý THỨC . Hệ tiềm thức nằm ở các trung khu dưới vỏ nảo , có nhiệm vụ xử lý sơ bộ các thông tin trước khi chuyển lên hệ ý thức vỏ nảo . Hệ tiềm thức xác định ý nghĩa cảm xúc của kích thích tốt hơn , là việc đưa ra các quyết định logic về chúng . Khi hệ tiềm thức phát hiện thông tin quan trọng , nó chuyển ngay lên võ nảo , để hệ ý thức xử lý .
Trong quá trình sống , cơ thể sinh vật , kể cả con người ,luôn phát ra nhiều loại sóng điện từ , , ví dụ , các xung điện thần kinh trong nảo sẽ tạo ra quanh đầu các điện từ trường , phù hợp với định luật cảm ứng điện từ . Nếu bắt và giải mả được các trường nầy , thì con người có thể đọc được ý nghĩ của người khác .
Đặc biệt khi cơ thể chết , các trường và sóng phát ra mạnh gấp hàng ngàn lần lúc bình thường. Điều nầy đã được thực nghiệm khẳng định . Đó là thời khắc lóe sáng cuối cùng trước khi vụit tắt . Chắc chắn các bức xạ tàn dư nầy , mang một số thông tin về cơ thể đã chết , giống như cuộn băng hình ghi lại hình ảnh lúc còn sống của một người đã khuất vậy .
Hiện tượng nói chuyện với người chết là một thực tế , nhưng linh hồn thì không có thật .Người ta công nhận nói chuyện với người chết , nhưng không công nhận người chết biết nói chuyện , vì chúng ta chỉ nghe nhà ngoại cảm nói , chứ có nghe thấy người chết có nói nói năng gì đâu .Chỉ vì một số thông tin chính xác , mà người ta tin người chết biết nói chuyện . Trong khi đó , là hai vấn đề khác nhau .
Đọc ý nghĩ người đã chết được mả hóa dưới dạng một bức xạ hoại tử – Necrotic Radiation , lan truyền đủ xa trong bầu khí quyển .
Hiện tượng lên đồng , nhập hồn người chết thường xảy ra ở trạng thái vô thức , có thể có ngoại lệ , nên hệ xử lý tiềm thức có độ nhạy cao , bắt và giải mả được bức xạ tàn dư cường độ nhỏ . Phản ứng của cô đồng với người chung quanh , không phải là phản ứng của linh hồn người chết , mà là của vô thức cô đồng với sự trợ giúp của thông tin trong bức xạ tàn dư . Và lời nói của cô đồng là lời nói đến từ vô thức .

GIẢ THUYẾT NGẠC NHIÊN :
TÌM KIẾM BẢN CHẤT KHOA HỌC CỦA LINH HỒN :
Nhà Vật Lý Học F.H.C.CRICK được giải Nobel
vì phát hiện ra cấu trúc ADN.
Bạn , niềm vui và nổi buồn , trí nhớ và cảm xúc , bản thể và ý chí tự do của bạn thực tế chỉ là , hành vi của tập hợp khổng lồ các tế bào thần kinh và các phân tử liên kết của chúng .
Sự sống là dạng mới vận động của vật chất , xuất hiện do lượng đổi chất đổi , do sự biến chất tại một cấu trúc , có tổ chức cao là tế bào . Ý thức cũng được định nghĩa tương tự , xuất hiện do lượng đổi chất trong bộ óc con người . GS Delgado , tại phòng nthí nghiệm ở Tây Ban Nha đã thành công trong việc dùng sóng điện từ tác động ý thức , thậm chí có thể làm thay đổi một phần nhân cách người tình nguyện .
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:06 am


Tình cờ đọc được bài nầy của ANHSANGT2, bài hay và súc tích, có tính thuyết phục. Theo mình đáng để đọc nhiều lần và hiểu rõ các chức năng cùng cấu trúc của con người và vũ trụ.
Tuy nhiên trong các trang dài mình vẫn bị vấp khi đọc đến đoạn nầy:
Trích dẫn:
Trong lịch sử của con người , ta chưa từng nghe thấy , là một ai khi sinh ra và khi lớn lên , liền có được một kiến thức và kinh nghiệm do sự huân tập của kiếp trước , mà kiếp nầy không cần học tập gì cả ; là một khi trưởng thành , đầu óc phát đạt đầy đủ thì kiến thức nầy liền sở hữa trở lại , nhờ linh hồn của kiếp trước còn tồn tại ở cỏi trung giới , và nay đầu thai nhập vào một thân xác mới và có ngay kiến thức và kinh nghiệm của một quá trình gian khổ học tập của kiếp vừa qua , nên khi bước vào xả hội liền thi trở lại và trở thành Bác Sỉ hay Luật Sư hoặc Khoa Học Gia ngay tức khắc ; như vậy đã tiết kiệm được ngân quỷ của gia đình và quốc gia rất nhiều , trong việc đào tạo một nhân tài cho đất nước .

Ðoạn nầy hơi võ đoán một tí, anhsangt2 có thể phải đọc lịch sử các danh nhân được gọi là Thiên Tài họ đã hơn người từ lúc bao nhiêu tuổi ??? Có cần qia sự học hỏi hay không rồi hãy hùng hồn đưa đoạn nầy lên (có thể không phải là anhsangt2 viết đoạn nầy).
Thiên tài có nghhĩa là trời sinh, không qua sự học hỏi. Nhiều sách vở lạm dụng chữ thiên tài để chỉ các nhà bác học.
Lý luận thiên về một chiều khoa học có thể gọi là mê tín khoa học. Nếu thiên về huyền bí thì là mê tín huyền bí...

tín = tin tưởng
mê = say đắm

mê tín = tin tưởng đến độ mê muội đầu óc.

Thuốc đắng nhăn mặt, bắt uống bị chưởi...

Mình nói thì nói như vậy, nhưng rất thích bài nầy, vì bài rất có giá trị.

Cám ơn ANHSANGT2 đã cho mình đọc được một bài rất giá trị và hay.
_________________
ngao du đây đó
Chào Huynh TALKATIVE ,
Trước tiên , AST2 xin cám ơn Huynh đã dành thì giờ để xem bài viết của AST2 và có đóng góp ý kiến cho bài tìm hiểu nầy thêm phong phú , hầu hy vọng có thể rọi sáng phần nào cho đề tài khó khăn nầy , đã từng làm nhức đầu cho nhân loại từ lâu .
Thực ra , đoạn văn mà Huynh góp ý của AST2 , đó chỉ là những ý tưởng dở ẹt của AST2 có được , trong khi viết bài nầy , chứ không có chép lại hay copy của ai cả , xin minh định để khỏi oan cho người khác ; nếu có gì sai , mong Huynh vui lòng chỉ giáo , AST2 sẳn sàng khoanh tay đứng hầu , để được Huynh dạy bảo .
Bài lược khảo nầy , chỉ có khái niệm tổng quá mà thôi , vì AST2 là một người tầm thường , hằng ngày đi làm hảng để kiếm cơm nuôi gia đình , thỉnh thoảng tranh thủ thì giờ vào đây để học hỏi từ các Huynh ; Hy vọng có thêm nhiều bạn tham gia hầu cho đề tài được minh bạch và vấn đề được rỏ ràng hơn ......
Vấn đề THIÊN TÀI là một trong những trường hợp đặc biệt của tâm linh con người , mà chúng ta hảy đưa lên bàn để mổ xẻ .
Nó gồm có các vấn nạn như sau :
1.- Nếu nói THIÊN TÀI là khi sanh ra không cần gia công học hỏi gì , mà có một khả năng về một lảnh vực chuyên môn nào đó , ngay tức khắc ; Như vậy , chúng ta lý giải vấn nạn 1 nầy như thế nào :
- Đó là do một linh hồn khác nhập vào ( Possession ) hay đầu thai vào ( Re-incarnation ); nếu có như thế , thì phương pháp nhập vào hay đầu thai theo cách nào , để khi đầu thai vào , có thể mang theo những kinh nghiệm và khả năng chuyên môn trong kiếp trước của mình vào xử dụng ở kiếp nầy , mà không bị quên hết . Nếu là nhập vào , thì nhập vào bằng phương pháp nào ?
- Nếu nói đó là do sự di truyền của DNA , thì lý giải hiện tường nầy theo kỷ thuật di truyền học đặc biệt của Cha Mẹ như thế nào , hay chỉ có trong trường hợp cá biệt nào đó không kiểm soát được , để có thể lưu giử những kinh nghiệm và kiến thức của kiếp trước trong một cơ thể hoàn toàn mới trong kiếp nầy .

2.- Tại sao chỉ có những trường hợp cá biệt về THIÊN TÀI cho một thiểu số , mà không bình đẳng cho tất cả mọi người . Cũng như , tại sao chỉ có một thiểu số người đầu thai lại nhớ lại kiếp trước mình là con ai và ở đâu , và chỉ nhớ một kiếp mà thôi , còn những kiến thức cùng kinh nhgiệm tích lủy những cái hay của những kiếp trước đều biến mất . Nếu chúng ta giải mả được vấn nạn nầy , thì nhân loại sẻ có một bước tiến nhảy vọt về văn minh và hạnh phúc hơn .

3.- Có những khả năng thiên tài , được bộc phát qua một số trường hợp đặc biệt , như Ông EDGAR CAYCE trở thành một Bác Sỉ tài giỏi , khi Ông đi vào giấc ngũ ; đã chửa lành bệnh cho nhiều bệnh nhân tại Mỹ , mà hồ sơ bệnh án cùng phương thức trị liệu còn lưu giữ tại bệnh viện nơi Ông ở . Chúng ta lý giải vấn nạn nầy như thế nào ?

Để mở rộng đường tham khảo và xây dựng , xin Quí Huynh hảy gạt bỏ những thành kiến , những định kiến tranh luận về hơn thua , hay dở , phải trái và đứng trên bản ngả của mình , để khách quan góp ý ; như vậy đề tài ngày sẽ mở sáng hơn.....

Trước Kính mời , Huynh TALKATIVE và Quí Huynh hảy cùng lý giải các vấn nạn trên , rồi sau đó AST2 sẽ có một bài tham luận nhỏ của mình về các vấn nạn trên , để chúng ta cùng tham khảo ....
Vài lời mạo muội , có gì sơ sót , mong Quý Huynh , rộng lòng tha thứ , AST2 nguyện luôn luôn cuối đầu học hỏi ....để được sáng suốt thêm .... Cám ơn Quý Huynh .
AST2
Chào huynh AST2.
Huynh muốn bàn luận tất cả những vấn đề trên thì mình không đủ sức và hiểu biết để bàn luận.
Mình có thể cùng bàn luận nhé !!! Trên kia huynh có thắc mắc về thiên tài như thế nầy
Trích dẫn:
Vấn đề THIÊN TÀI là một trong những trường hợp đặc biệt của tâm linh con người , mà chúng ta hảy đưa lên bàn để mổ xẻ .
Nó gồm có các vấn nạn như sau :
1.- Nếu nói THIÊN TÀI là khi sanh ra không cần gia công học hỏi gì , mà có một khả năng về một lảnh vực chuyên môn nào đó , ngay tức khắc ; Như vậy , chúng ta lý giải vấn nạn 1 nầy như thế nào :
- Đó là do một linh hồn khác nhập vào ( Possession ) hay đầu thai vào ( Re-incarnation ); nếu có như thế , thì phương pháp nhập vào hay đầu thai theo cách nào , để khi đầu thai vào , có thể mang theo những kinh nghiệm và khả năng chuyên môn trong kiếp trước của mình vào xử dụng ở kiếp nầy , mà không bị quên hết . Nếu là nhập vào , thì nhập vào bằng phương pháp nào ?
- Nếu nói đó là do sự di truyền của DNA , thì lý giải hiện tường nầy theo kỷ thuật di truyền học đặc biệt của Cha Mẹ như thế nào , hay chỉ có trong trường hợp cá biệt nào đó không kiểm soát được , để có thể lưu giử những kinh nghiệm và kiến thức của kiếp trước trong một cơ thể hoàn toàn mới trong kiếp nầy .

Một đứa nhỏ khi sinh ra có tài hay là rất giỏi về một vấn đề nào đó không cần học hỏi thì có thể gọi là thiên tài. Nhưng khi lớn lên cái được gọi là thiên tài đó sẽ bị biến mất, cũng có thể sẽ giữ lại được một phần nào đó thôi hoặc là bắt đầu quên hết. nú huynh quan sát những đứa nhỏ huynh sẽ nhận ra điều đó, tại sao như vậy ????
Khi đúa nhỏ mới sinh ra thì xương trên chỏm đầu chưa hoàn toàn khép lại, sau khi lớn lên xương chỏm đầu từ tữ khép lại. Linh giác trong đầu đứa trẻ (bộ não đứa trẻ) không còn trực tiếp tiếp nhận các luồn sóng của vũ trụ nữa vì bị xương đầu cản sóng. Bởi vậy sự nhớ lại hay đọc được sóng vũ trụ chứa thông tin của kiếp trước sẽ bị chấm dứt và bị quên lãng.
Các nhà huyền học hiểu như vậy nên cố gắng luyện để xương chỏm đầu nức ra, chỗ đó sẽ được thịt lấp vào thay thế , nên tạo nên một u thịt trên đầu. Người lớn dù cho đã mở xương tên chỏm đầu rồi vẫn chưa đủ khả năng để tiếp nhận được sóng vũ trụ vì không đủ năng lượng làm chuyện đó mà phải luyện tập rất chuyên cần một môn nào đó để có đủ công lực (năng lượng) tiếp nhận sóng, tùy theo công lực mạnh hay yếu mà sẽ nhận được nhiều hay ít.
Tại sao trẻ nhỏ có nhiều năng lượng hơn người lớn vậy ???
Trẻ mới từ lòng mẹ sinh ra cho đến khi 7 (nam) tuổi hoặc là 9 (nữ) tuổi, trong thời gian dưới 9 tuổi đứa trẻ luôn luôn tiếp nhận một lực sống cực mạnh từ thiên đế truyền xuống (nếu huynh AST2 mở được con mắt thứ 3 thì có thể rõ điều nầy) nên mạnh hơn người lớn.
Con người lớn lên chịu sự chi phối của cấu trúc con người, mà thể xác chịu sự chi phối lớn nhất lừ DNA. Sự học hỏi hàng triệu năm từ thể xác đã ghi dấu tích lên DNA. Chẳng hạn như người đàn ông thường hay chọn vị trí ngồi trong nhà hay trong quán cà phê chẳng hạn, thì hay chọn chỗ có thể thấy toàn quan cảnh bên ngoài (để bảo vệ, vì trong hang động thời cổ ngồi trong hang nhìn ra để bẳo vệ...)
Sự phát triển của con người chúng ta tiếp xúc hôm nay được phát triển theo hai chiều song song với nhau:

1) kinh nghiệm tâm linh
2) kinh nghiệm thể xác

Bởi vậy nếu không hiểu rõ chúng ta sẽ nhận lần là tại sao không công bằng trong cuộc sống.
Nếu muốn thăng tiến chính con người của mình thì hãy tập luyện và học hỏi cả về tâm linh lẫn thể xác.

Nếu huynh chưa có một kinh nghiệm tâm linh nào thì khó chấp nhận những kiến gỉai của mình.
_________________
ngao du đây đó
Chào Huynh TALKATIVE ,

Chờ lâu quá không thấy sự tham gia của các Huynh khác . Nay chân thành kính thỉnh Thầy Hùng Sơn cùng quí Thầy thanh-pali , hp571 , xuananbinh , theanh , dorje-nhu , Hanh_phap , ULinhDaoNhan , TieuDieuTu , mekongcusi , HaiPhong , cùng các Huynh Tỉ khác trong mục SƯU TẦM và BÙA NGẢI và các vị CAO THỦ VÕ LÂM trong thiên hạ , hảy dời gót ngọc ghé qua đây để tặng đôi lời vàng ngọc , vì quý Thầy là những người có dồi giàu kinh nghiệm tâm linh , đã từng cứu nhân độ thế , trục quỷ trừ ma , đối với bí ẩn của sự sống chết , ma quỷ , đầu thai , thiên tài , yểu tử …… đều gặp gở thường xuyên trong nghề các vấn đề trên ; như vậy những người đi sau có được ánh sáng tâm linh của quí vị soi sáng , thì quí biết mấy .
Cám ơn Huynh TALKATIVE đã trình bày kiến giải của mình về thiên tài , đã cống hiến cho mọi người rộng đường tham khảo , vậy chúng mình ngồi chờ , chuẩn bị nghênh đón quý Thầy từ bên SƯU TẦM và BÙA NGẢI giá lâm ban chiếu chỉ và huấn thị nhé !

Mong thay , Mong thay ……
ANHSANGT2 đã viết :


Nay chân thành kính thỉnh Thầy Hùng Sơn cùng quí Thầy thanh-pali , hp571 , xuananbinh , theanh , dorje-nhu , Hanh_phap , ULinhDaoNhan , TieuDieuTu , mekongcusi , HaiPhong


Huynh ANHSANGT2 thân mến

Rất cám ơn huynh đã có nhã ý mời HaiPhong cùng đóng góp ý kiến. Nhưng xin thú thật với huynh, HaiPhong chưa xuất sư, nên không dám đứng ngang hàng cùng quí thầy Hùng Sơn, thanh-pali, hp571, xuananbinh, theanh, dorje-nhu, Hanh_phap, ULinhDaoNhan, TieuDieuTu, mekongcusi.
Người của huyền môn chưa xuất sư, ra thầy thì vẫn là học trò, đệ tử. So với quí thầy HaiPhong thuộc hàng hậu bối.
HaiPhong lại thuộc mẫu người căn cơ yếu kém, học nhiều hiểu ít, chẳng có thực tài, là một... Bùi Kiệm của thời đại.
Nay huynh đã có nhã ý, HaiPhong không dám từ chối ý đẹp của huynh, nhưng chỉ xin ở lại đây giúp huynh lo phần trà nước để huynh cùng quí thầy, kỳ nhân, dị sỹ, cao thủ võ lâm, cùng các huynh, đệ, tỷ, muội thắm giọng trong khi đàm đạo.

Thân mến
_________________
Hải Phong
Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Kính Chào Huynh ANHSANGT2 !!!
Đệ không dám nhận những ưu ái mà Huynh dành cho , thật sự là đệ có đọc bài của Huynh rồi . Song phần vì căn trí ám độn , cũng chỉ là dừng ở mức lý thuyết ,phần cũng là đợi cho Huynh đưa hết lên rồi đệ từ từ đọc !
Nhất định đệ sẽ đọc kỹ và xin Huynh chỉ bảo thêm cho những chỗ không hiểu !
Đệ thật khâm phục sở học , lập luận vững chắc và lối làm việc nghiêm túc của Huynh !
Kính Huynh Mạnh Khỏe !

Kính:
Thế Anh .

Xin Admin di chuyển bài này vào mục Sưu Tầm để Bà Con mình đễ theo dõi được không ạ !
Cảm ơn nhiều !
_________________
Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Xin cảm ơn tấm lòng của huynh ANHSANGT2. Thực ra Thanh cũng có đọc các bài của các huynh, kiến thức của các huynh thật là uyên bác, cách nhìn nhận vấn đề hòan tòan có cơ sở khoa học, đáng khâm phục lắm thay. Còn đệ, học vấn kém cõi, chỉ có chút kinh nghiệm thực tế và tâm linh, có gì thì kể đó thật ra chẳng biết tham gia bàn luận như thế nào. Bởi vậy mới không dám cao đàm. Xin miễn chấp.
_________________
THANH-PALI
Thân gửi huynh Ánh Sáng 2 .

Lúc huynh post bài viết đầu tiên, tại hạ có đọc bài viết của huynh rất kỹ và đã trả lời huynh là rất hoan hỷ được huynh góp tiếng nói trên diễn đàn này. Và, sau đó thú thực tại hạ vì bận quá nên chỉ coi luớt qua nên không hiểu rõ lắm vấn đề huynh đặt ra. Bời vậy nên chưa dám có thêm một ý kiến nào .

Nay huynh hỏi đến, tại hạ mới giật mình và coi lại thì quả thực thấy huynh có những lý luận rất vững vàng và sắt bén, cũng như những hiểu biết rất uyên thâm về vấn đề huynh đã đặt ra. Nên tại hạ rất khâm phục. Và quả thực xét thấy mỉnh chữ nghĩa còn kém huynh xa lắm.

Tuy nhiên, tại hạ xin lỗi huynh trước khi phát biểu ý kiến của mình.

Đó là tại hạ hoàn toàn không đồng ý với huynh trên mọi ý thức hệ đã được huynh nêu lên trong bài viết này. Nói như thế, tại hạ phải chứng minh lời nói của mình chứ không thể nói khơi khơi được.

Nhưing chứng minh thế nào đây ? 2 + 2 là 4 chăng !

Trong thế giới tâm linh. Không thể nói theo kiểu khoa học thực nghiệm được. Niềm tin vào những đấng tối cao, Thần Thánh phải có ĐỨC TIN. Tại hạ không dám nhắc lại lời Đức Chúa Giê Su phán: "Phúc cho những kẻ không thấy mà tin".

Vậy thì thay vì những lời lý luận và tranh cãi ở đây. Tại hạ lại có cái ý nghĩ ngây ngô tìm cách cho huynh thấy để tin, thay vì chứng minh và biện luận. Một khả năng mà tại hạ rất kém cỏi, hay là không có !

Vậy mạn phép mời huynh cùng tại hạ tới một căn nhà "Ma" nào đó ngủ một đêm. Để chúng ta chứng nghiệm lại là có "Ma" hay không . Bởi vì trên diễn đàn này đã có rất nhiều bài viết về những địa điểm có "ma". Và ngay ở San Jose nơi tại hạ ở cũng có một căn nhà "Ma". Cũng nói ngay rằng, nếu chúng ta chỉ nhìn thấy vài ba con ma thôi thì theo huynh đó cũng chỉ là cái gì. . . "độ mạnh của bức xạ tàn dư" mà một số người có thể đọc được để chứng minh cho sự việc này. Nhưng nếu con ma nào đó có thể nhéo tai, bóp cổ huynh thì huynh phải tin là thực. . . vì "độ mạnh của bức xạ tàn dư" gì đó không thể xẩy ra trước đó cái việc bóp cổ hoặc nhéo tai huynh được phải không.

Nếu chúng ta thấy ma thực sự và những sự việc trên xẩy ra thì những lý luận của huynh ở trên dù sắc bén và vũng vàng cách mấy thì cũng không còn đứng vững nữa. Còn những sự việc đó không xẩy ra thì tại hạ xin khoanh tay cúi đầu tin tưởng theo huynh là . . .chết là hết !!! Không biết lời mời này có ngây ngô, trẻ con và quá đáng lắm không.

thân ái
Hùng Sơn
Hí hí...
Ðang chờ nhận được những bài viết để đọc hầu mở mang thêm kiến thức. Sự học hỏi và mở mở mang thêm kiến thức để trồng sự hiểu biết và thông minh vào chuỗi DNA cũng là trồng phước đức cho con cháu vậy (đây là nói về phần hữu hình, còn phần vô hình thì mình chờ để học hỏi).
Mình rót trà cùng uống hay dùng beer đây ????
Uống beer mà có thêm thịt chó nữa thì bùi lắm, chảy nước miếng rồi...
Vừa nhậu vừa nghe nhạc vừa chờ...hì hì hì...
_________________
ngao du đây đó
Tội lỗi. . . tội lỗi quá. Tại hạ ăn chay trường mà sao cứ hết huynh này tới huynh khác bầy nào rượu, nào beer ra . . . . Lại còn thịt Cầy Tơ nữa mới là khổ ghê đi. . . thèm lắm rồi đó nghe. Ai còn nói nữa tại hạ . . . xin một cái đùi được hông. . . . hì hì hi tội lỗi quá đi . . . . .

Hùng Sơn
Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Huynh Talkative sai rồi ! Mộc tồn mà huynh bày Beer là sai to rồi !
Xem đệ " Đi chợ" đây :
Đế gò đen = 10 Xị
Rượu Bàu Đá = 1 Hũ
Làng Vân Hà bắc = 5 Lít !
Kính Mời Các Huynh nhập tiệc !!!

Kính
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:08 am

Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Điên mất thôi. . . điên mất thôi. . . Đừng có nhậu ở đây mà. Tội lỗi. . . tội lỗi quá. Ở trên thì y niệm Phật, ở dưới thì y bầy nào đế Gò Đen, nào rượu Vân Hà, Bầu Đá. Còn món "ddddồi chó" nữa có khổ không.

Tại hạ mà điên lên thì kêu con Thiên Linh Ma Nữ hốt hết đồ nhắm lẫn đồ nhậu về đây đừng có trách sao . . . ăn một mình nhé.

Hì hi hì

Hùng Sơn
Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Bác Hùng Sơn ơi đấy là đệ đi mua rượu đó chứ ! Đấy là đệ mời các Huynh nhập tiệc chứ có tự mời mình đâu !
Mà Phật ở trong Tâm mà bác !
Mô Phật ! các Bác cứ nhậu no say đi có đệ đứng bên hầu rót đây !
"Xèm ơi là Xèm !"
Kính Bác Hùng Sơn một ly gọi là "Kính Lão , Lão để tuổi cho" !!!

Kính :

_________________
Nam Mô A Di Đà Phật !!!
Kính Chào Quý Thầy và Quý Huynh Hùng Sơn , Thanh- Pali , Thế Anh , Hải Phòng , Talkative .....
Hoan hô tinh thần cởi mở , nhiệt thành và khiêm nhượng của quý Thầy và quý Huynh đáp ứng giúp cho đề tài nầy thêm phong phú và tăng giá trị tham khảo ....
Những vấn đề đóng góp ở đây chỉ có tính cách tham khảo , không có tính cách xác định một triết thuyết hay một khoa học gì cả .
Nội dung của bài viết chỉ là góp nhặt đó đây trên thế giới về vấn đề tâm linh và con người ; nhưng vì trình độ mổi người có hạn , nên xuyên qua diển đàn nầy , mà chúng ta có được một thông tin tổng hợp phong phú hơn , do mọi người đóng góp và phục vụ ích lợi cho mọi người , để làm hành trang trên đường đời thiên lý diệu vợi.....
Vì thế , một chân lý ở dảy núi bên nầy là đúng , nhưng có thể sai khi sang đến dải núi bên kia ; do đó , nếu có gì sơ sót mà phạm phải những vấn đề nhạy cảm của niềm tin tôn giáo hay phong tuc̣ xả hội hiện đại , xin quý vị và quý Thầy niệm tình tha thứ và chỉ dạy ; cũng như xin Thầy Hùng Sơn cứ tự tiện cắt hay xóa bỏ ; vì những thông tin và bài viết nầy chỉ có tính cách thông tin và tham khảo , không nhằm một mục đích lợi nhuận kinh tế , chính trị hay hô hào phổ biến một tín điều cho một tập thể hay một cá nhân nào cả .
Mọi người có quyền đóng góp và tham khảo , tự do tin hay không tin là do quyền cùng sự hiểu biết và kinh nghiệm của mổi người . Trong bài viết , đôi khi vì trình độ có giới hạn nên không thể tránh khỏi những sai sót tế nhị , vô tình vượt khỏi vòng kiểm soát của người viết ; điều nầy xin minh định trước để khỏi mang tội về sau .
Nay xin trích những thông tin cơ bản qua những đóng góp của Thầy hùng Sơn và Huynh Talkative và có những kiến giải thô thiển như sau , mời quý Thầy và quý Huynh cùng tham khảo :
Sự thật khách quan thì không có đúng và sai , cũng như không có tà hay chính , chúng ta có chấp nhận hay bác bỏ hoàn toàn tùy thuộc vào hoàn cảnh và tri kiến chủ quan của mổi người ; vấn đề quan trọng là sự chủ quan của chúng ta có đạt đến gần chân lý khách quan hay không , nếu chủ quan và khách quan hợp nhất thì sự thành công trong mọi lảnh vực sẻ khả quan hơn ......

Khoa học vì đã khám phá ra được một điều gì và có thể lập lại nhiều lần mà kết quả vẩn như nhau ; nên có thể khẳng định rỏ ràng là 2 + 2 = 4

Nhưng vấn đề tâm linh thì khác :

Những nhà tâm linh có thực tài vẩn có thể xác định rỏ ràng rằng : 2 + 2 = 5

Như bài tham khảo sau đây :

Những vị Thầy chuyên tu tập tâm lực và thể phách , có thể phối hợp tâm lực cùng phát khí để cách không điểm huyệt , nâng bổng đồ vật , điều khiển sự hoạt động của người khác theo ý của mình ; cho cả đến dùng tâm lực để tạo ảo giác cho một cá nhân hay một tập thể cũng được .
Như môn :
- NỘI KÌNH NHẤT CHỈ THIỀN , người Thầy có thể dùng tâm lực và khí lực để điều khiển người khác hoạt động theo ý muốn của mình .
- Cao thủ của môn Ý QUYỀN hay ĐẠI THÀNH QUYỀN hay bí quyết BÁT BÁCH TIỀN môn điểm huyệt bí mật của cao thủ giang hồ Trung hoa có thể dùng dược vật phối hợp tâm và khí lực có thể phát khí Cách Không Đả Hổ ̣( Emty Force ).
- Những nhà Ngoại Cảm và khí công Trung Hoa có thể dùng Ý và Tâm lực để di chuyển đồ vật như Thầy Lưu Tâm Vũ ở Hồ Bắc .
- Các nhà Fakir Ấn Độ có thể dùng tâm lực để gây ảo giác để thực hiện màn biểu diển quăng dây lên trời , cho một em bé leo lên , sau đó , từ trên không các bộ phận cơ thể dính máu me lần lượt rơi rớt xuống và cuối cùng các bộ phận nầy ráp lại và đứa bé đi đứng bình thường .
- Những nhà ngoại cảm cao cấp có thể tạo ảo giác cho gây tác dụng lên mắt - tai - mủi - miệng - thân - ý của người bị ảnh hưởng có thể thấy , nghe , ngưởi , nếm , sờ mó và nói những điều mà người ngoại cảm muốn và chỉ người nầy cảm nhận thấy như thật mà thôi . Còn những người khác không thấy biết gì cả . Nên các nguyên thủ các quốc gia khi đi hội nghị quan trọng đều mang theo những nhà ngoại cảm tâm linh cao cấp , để tạo vòng đai tâm linh vô hình , hầu ngăn chận , những ảnh hưởng xấu của các đối thủ thù nghịch .
- Thầy thuốc Đông Phương có thể dùng tâm nhản nhìn màu sắc của hào quang - Aura , của con người có thể đoán bệnh của bệnh nhân .
- Thầy bói Đông phương có thể nhìn màu sắc hào quang của thân chủ mà đoán ra tình cảm cùng tính tình của họ .

Do đó , vấn đề những ngôi nhà ma có thể lý giải với những phạm trù tâm linh và khoa học như sau :
- Do sự tác động của những bức xạ tàn dư có bức xạ mạnh .
- Do ngôi nhà xây trên khu đất xấu , có nhiều tia đất độc hại phát ra .
- Do dưới đất có các quặng mỏ kim loại , vào lúc thời tiết thay đổi thường tiết khí độc lên mặt đất , có thể tạo những hiện tượng kỳ quái hay tiết khí độc làm ảnh hưởng lên tâm sinh lý của con người .
- Do sự sắp đặt cơ quan máy móc của con người để tạo nên những tác động ma quái lên tâm thân con người khi vào phạm vi nầy . ( Như trường hợp các nhà cách mạng tạo ra để giữ bí mật căn cứ khỏi sự dòm ngó và lưu ý của thường dân và kẻ địch . Như các kẻ có quyền lực thời ai cập xây máy móc trong các đền thờ xưa , tạo ra những kỳ tích để gây sự tin tưởng của tín đồ ....)
- Sự nhiểu xạ của hạ âm gây ảnh hưởng lên tâm thần của con người , do thiên nhiên gây ra hay do chính quyền các nước tạo ra vì mục đích chính trị nào đó .( Như trong thời kỳ chiến tranh lạnh , nước Liên Xô đả đặt máy phát sóng hạ âm xuyên qua eo biển đến miền duyên hải của Mỹ , tạo cho cư dân tại đây thường bị nhức đầu và nôn mửa vô cớ ....)
- Do tác động ngoại cảm tâm linh của con người để tạo ảnh hưởng vật lý lên trên thể xác và tâm thần của những người đi vào trong phạm vi nầy ; vì những mục đích lợi lộc về kinh tế , chính trị hay tín ngưởng .
Những kiến giải để giải tỏa những quấy nhiểu của ma quỷ trong những ngôi nhà nầy như :
Ma quỷ sợ tiếng súng nổ , pháo nổ hay phèn la , trống kèn , niệm chú , v..v.....
Vì âm thanh của những vật nầy và niệm chú , có độ dài sống , có băng tầng rộng hơn , có thể triệt tiêu hay hòa tan những độ dài sóng ngắn của bức xạ tàn dư của ma quỷ . Nên đa số , sau cuộc đốt pháo , đánh trống múa lân hay nghi lể tụng niệm của các nhà Sư hay các Cha , thì những bức xạ tàn dư nầy được hóa giải và ma quỷ biến mất .
Có thể , kéo sập căn nhà xuống và phóng hỏa đốt nhà nầy cùng tất cả những vật dụng chung quanh , thì có thể hóa giải những bức xạ tàn dư ẩn dấu .
Nếu không , có thể cào đất trong nhà sâu khoảng ba tất , sau đó gom lại giữa nhà , trổ nóc nhà mà phóng hỏa đốt cho nóng những đất dơ nầy , cũng hóa giải phần nào sự nhiểu xạ của bức xạ tàn dư lên con người .

Vào thời chiến tranh đông dương , lính Nhật ở một vùng nọ , thường bị quấy nhiểu bởi ma quỷ hoặc bị ám ảnh hay thường bị bệnh một cách kỳ quái ; họ liền bắt hết tất cả những người dân trong làng ,nơi lính Nhật trấn đóng , mà bắn bỏ hết . Thì sau khi đó , những hiện tượng kia không còn nữa . Điều nầy nói cho chúng ta biết , với tiềm năng tâm linh ẩn tàng của con người có tu luyện và xử dụng bùa ngải , có thể tạo nên ma quỷ và những hiện tượng kỳ lạ , tác dụng lên đối phương cho một muc̣ đích thiết yếu nào đó . Và khi người nầy vì lý do gì đó , bị giết đi hay bị chết thì những hiện tượng ma quỷ do những tiềm năng tâm linh của người nầy tạo ra đều biến mất .

Những vấn đề linh hồn , luân hồi , ma quỷ , thế giới trung ấm , summer land , đã được sự dẩn giải rất nhiều của các tôn giáo hiện đại .
Nhưng con người sống trong một xã hội dù muốn dù không cũng phải tôn trọng và sống trong các trong niềm tin đó ; Mặc dù có rất nhiều các vị chức sắc trong các tôn giáo ( nói ở phạm vi hạn hẹp cho những vị có tinh thần tự do , tôn trọng sự thật khách quan ....) đã nghiên cứu , thực hành rất thâm sâu vào các vấn đề trên , đã tỏ rỏ ngọn nguồn của các vấn đề tâm linh . Nên các vị nầy đã linh hoạt uyển chuyển để làm tròn niềm tin tôn giáo của mình đối với xã hội , nhưng sinh hoạt tâm linh vẩn có con đường đi riêng cho mình . Cũng như có một số ít Bác sỉ Tây y , khi gặp những bệnh ngặt nghèo , mà Tây y trị không được , họ liền gián tiếp dùng linh thuật của Mật Tông để trị liệu , mục đích là trị hết bệnh cho con bệnh , nhưng họ không cần nói ra điều đó cho bệnh nhân biết . Các Ông Cha chỉ cần cầm quyển Kinh Thánh và cầu nguyện hay đọc kinh mà vẩn có thể trục quỷ cho người bệnh như thường ; các nhà Sư tụng kinh hay bắt ấn cũng có thể trị bệnh tà ma dể dàng ; nhưng tại sao chúng ta không làm được , bởi vì những gì chúng ta thấy chỉ là những hình thức bên ngoài ; nhưng thật ra kỷ thuật bên trong , các vị nầy đều có những bí pháp nội môn để tu luyện , nên mới có được một tâm lực cùng một khí lực mạnh như thế để hành đạo , cứu nhân độ thế .
Chứ chúng ta không phải suốt ngày làm điều thiện , bố thí cúng dường là ma quỷ sẻ tránh chúng ta đâu , mà song hành theo đó , chúng ta cần phải tập luyện thường xuyên , thì với một thời gian cần đủ , chúng ta cũng có đủ linh thức và linh năng để bảo vệ sự an toàn cho chúng ta , mà chúng ta còn có thể cũng cố chính pháp , tạo phước cho mọi người nửa .
Cũng như, mổi người chúng ta đều có niềm tin tôn giáo , nhưng chúng ta không tự trói mình vào những khuôn mẩu quá hạn hẹp cứng rắn của giáo điều , để kìm hảm sự phát triển khoa học tâm linh của cá nhân , nhờ sự hiện đại hóa , tự do , dân chủ và khai phóng , mà chúng ta có thể tìm hiểu và học hỏi , thông qua thần thức của mình ; như vậy chúng ta sẻ hiểu biết nhiều hơn , sâu hơn và thành tâm hơn về tôn giáo của mình , chứ không phải tin theo mê tín , mà điều nầy các vị sáng lập ra các tôn giáo đều minh định rỏ .
Vấn đề chết là hết hay chết là còn , có thế giới sau khi chết hay không , ma quỷ có thật hay chỉ là bức xạ tàn dư do người chết phóng ra trong giờ lâm chung ......
Đều là những kết quả tìm tòi của nhân loại trong thời đại hiện nay , xuyên qua tiến bộ của kỷ nghệ thông tin , mà chúng ta có cơ duyên biết đến và cùng chia sẽ ở đây .
Chúng ta biết để mà biết , hay biết để mà tin , hay biết để mà thực hành , đều là quyền tự do của mổi người trong thời đại ngày nay ; dầu sao đi nữa mổi người chúng ta sẽ có một ngày đối đầu với sự thật nầy và mổi người đều có câu giải đáp cho mình .
Những nhà thực hành tâm linh , dù có cao tay ấn đến đâu đi nữa , khi hành sự , điều quan trọng nhất là đừng nên quên đi những định chế cùng những qui ước của xả hội cùng quốc gia mình đang sống ; thế giới tâm linh có qui ước của thế giới tâm linh , thì thế giới con người cũng có những qui ước của nó , đừng nên lẩn lộn mà phạm luật lệ hiện hành nơi mình ở ,thì sẻ làm chậm đi bước tiến hoá và tu hành của mình trong trong hiện tại ; vì nhân thân nan đắc .
Cần phải uyển chuyển , khiêm nhượng , kín đáo và tôn trọng những niềm tin và tập tục của mổi sắc dân cùng địa phương họ đang ở . Dùng sức thần thông diệu dụng của mình một cách gián tiếp và vô hình , để đạt đến mục đích tốt đẹp , xây dựng một xả hội tự do , tiến bộ , khai phóng và giàu mạnh , hạnh phúc ấm no cho toàn thể con người ở khắp mọi nơi .....
IM LẶNG – DÁM HỌC HỎI – DÁM LÀM .
MỘT CÂY LÀM CHẲNG NÊN NON
BA CÂY CHỤM LẠI THÀNH HÒN NÚI CAO .

Và sau đây là những kiến giải tham khảo cho chủ đề THIÊN TÀI do Huynh Talkative gợi ý .
Kính mời quý Thầy cùng quý Huynh cùng tham khảo vui vẻ nhé .

THIÊN TÀI


Thiên Tài là một người khi sanh ra , có thể làm việc với bất cứ lúc nào với siêu thức ở chiều đo thứ năm , người nầy khả năng đọc được ký ức của vũ trụ .
Do sự cấu tạo khác thường của DNA , cơ quan nảo bộ của người nầy , được phát triển với một dạng đặc biệt , mà với dạng cấu trúc nầy , bộ óc có sự rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư đặc biệt nào đó ( Mà bức xạ tàn dư nầy do những chuyên gia về các bộ môn khoa học nhân văn hay khoa học xả hội ......., đã phóng vào không gian và được lưu giữ vào Tiên Thiên Ký Ảnh - AKASHIC RECORD hay THE BOOK OF LIFE , khi những người nầy rời bỏ xác thân của mình trước đó. ).
Người Thiên Tài , xử dụng những nguồn thông tin và kiến thức nầy một cách tự nhiên , như đã có sẳn trong đầu của họ , mà không cần xuyên qua học hỏi ,và họ cũng không biết tại sao mà họ có một khả năng giỏi như vậy . Thông thường , bộ óc thiên tài nầy chỉ rung động đồng bộ với những rung động riêng biệt của từng loại bức xạ tàn dư tương ứng mà thôi ; có nghĩa là nếu bộ óc được cấu trúc đồng bộ với một bức xạ tàn dư toàn năng của một bác sỉ tài ba , đã chết trước đó , thì người thiên tài nầy , không cần học mà họ cũng có thể chửa bệnh cho những người khác mà không cần học hỏi ; nhưng họ hoàn toàn dở ẹt về âm nhạc hay một khoa chuyên môn nào khác .Điều đầy được thấy ở những thiên tài của những bộ môn khác .
Điều nầy cũng giống như , một số người bất ngờ bị tai nạn , bệnh tật .....và sau khi lành bệnh , họ có được một khả năng đặc biệt nào đó , vì nảo bộ của họ đã có sự rung động đồng bộ nào đó , với một bức xạ tàn dư được lưu giữ ở môi trường chung quanh đó . Nhưng những khả năng nầy thường không có tính cách vĩnh viển và thường bị mất đi khi nảo bộ của họ hoạt động bình thường trở lại .
Thông thường , khả năng đọc được ký ức của vũ trụ , phải xuyên qua một quá trình tu tập , với sự hướng dẩn của một vị Thầy đã có kinh nghiệm và đã mở được Thần Nhản .
Việc đọc được những thông tin ở chiều đo thứ năm , tức là ở thể vía . Người nào đã nhờ tu tập mà mở được Thần nhản toàn phần , thì họ co thể scan hay rà tầng số nào đó mà họ muốn thu nhận thông tin ; thí dụ những thông tin chuyên môn về khoa học nhân văn hay xả hội ....hoặc họ có thể rà tầng số rung động vô thức , kho chứa chủng tử A lại Da thức của những người chung quanh để thu nhặc tin tức cho công việc của họ , như những nhà ngoại cảm tìm mộ thất lạc ở VN , hay những điệp viên ngoại cảm của các cường quốc dùng khả năng nầy để thu lượm tin tức từ xa .
Vì có sự rung động đồng bộ nầy , nên những bức xạ tàn dư nào có một cơ cấu hoàn hảo như một INTER-ACTIVE CD-CROM phức tạp và đa dạng ; đã được mả hóa với các thông tin cụ thể của một bác sỉ , nhạc sỉ , họa sỉ hay một người bình thường hoặc một người sa đọa .... khi có một trường hợp thích hợp tương ứng nào đó , những rung động của bức xạ tàn dư nầy , đồng bộ với nảo bộ của người nào đó , như trẻ em hay người lớn , thì những hiện tượng , nhớ lại kiếp trước hay thấy được người thân hoặc thấy được ma quỷ , sẽ được những người bình thường cho là có hiện tượng ma quỷ , luân hồi hay có một thế giới tồn tại sau khi chết ; trường hợp thôi miên để đi ngược thời gian trở về tiền kiếp cũng như thế .
Về hiện tượng tái sanh của các vị Lạt Ma Tây tạng là một trường hợp đặc biệt của một ngành khoa học nhân thể cao cấp .
Hiện tượng nầy được lý giải dưới hai trường hợp sau đây :
Trường hợp thứ nhất : Giống như trường hợp của ma nhập hay một vị Đắc đạo nào đó cần xử dụng cơ thể trong một thời gian ngắn để cứu nhân độ thế , hay xử dụng vĩnh viễn trong một thời gian dài cho phép như trong trường hợp ĐOẠT XẢ , tức thể xác trẻ của một người nào đó , vì một lý do đặc biệt phải rời bỏ cuộc đời trước hạn định , được sự dàn xếp của thần tức hai bên , vị Lạt Ma đắc đạo nào đó , sẻ chuyển di thần thức của mình vào xử dụng một cơ thể mới , đầy đủ những kinh nghiệm và kiến thức tôn giáo ở xác thân già củ của mình trước đó . ( Ở trên được hiểu như sự đồng bộ với bức xạ tàn dư xấu như ma nhập tức nhập xác và trường hợp thứ hai trong việc hành thiện của một vị Thầy cần xử dụng trong một thời gian dài hay ngắn .).
Trường hợp thứ nhì : Giống như trường hợp của THIÊN TÀI như trên . ( Bức xạ tàn dư ở đây là Bức xạ tàn dư đặc biệt toàn hảo của một vị Lạt ma đã qua đời .)

Còn nếu ta nhìn về phía Đạo gia trong thuật tu Tiên , thì ta có những lỵ́ giải như sau :
Thuật luyện đan trường sinh bất tử bên đạo gia thì có ba bậc :

ĐỊA TIÊN - NHÂN TIÊN và THIÊN TIÊN .

Địa tiên thì tu theo ăn uống dưởng sinh , phục nhị và thuốc thang tẩm bổ để được trường thọ . Nhân tiên thì dùng phương pháp hườn tinh bổ nảo và luyện song hành châu thiên âm dương như vô thượng du già , song vận đạo bên Mật Tông ...
Cao nhất là Thiên tiên , dùng tinh hoa âm dương sẳn có trong cơ thể của mình để : luyện tinh hóa khí , luyện khí hóa thần , luyện thần hoàn hư , luyện hư hoàn đạo ....
Dùng tam hoa tụ đỉnh để nuôi dưởng thánh thai , để đủ ngày tháng sẻ trở thành đệ nhị xác thân cứng cáp và cuối cùng có thể chuyển thần thức của mình vào đệ nhị xác thân nầy mà có thể xuất dương thần ngao du cùng khắp tam thiên đại thiên thế giới .
Thiên tiên có thể phân thân và cùng lúc có thể xuất hiện ở hai nơi khác nhau ; hoặc họ có thể xác thì ngồi trong nhà hay nơi thâm sơn cùng cốc , mà xuất dương thần như người thật mà ngao du sơn hà đại địa để cứu nhân độ thế .
Nhưng dù thân mạng của thiên tiên có kéo dài được vài trăm năm đi nữa thì xác thân của họ cũng chịu luật chi phối của thời gian là thành - trụ - hoại - diệt , nên khi họ chết đi , thì thần thức của họ cũng bị tiêu diệt , chỉ còn những bức xạ tàn dư cao cấp của họ được lưu lại trong không gian ở chiều đo thứ năm , để có thể tái hiện trở lại trần gian do sự triệu thỉnh của những vị Thầy trong giới Huyền Thuật .
Lý do , là linh hồn của thiên tiên có thể xuất dương thần đi ngao du hay có thể nhập vào người khác để hành đạo , bởi lẻ năng lực nầy luôn được tuôn tràn và cung cấp từ xác thân còn sống của họ truyền sang đệ nhị xác thân để hoạt động , như ánh sáng còn chiếu sáng vì còn có củi cháy , nhưng khi hết củi rồi thì ánh sáng sẻ mất ; cũng như vậy , khi người nầy bị chết đi , thì đệ nhị xác thân của họ đang ngao du tại nơi chân trời góc bể hay đang trò chuyện cùng người khác , sẽ tự nhiên hoàn toàn biến mất trước mắt người khác , vì không có đủ năng lực cung cấp từ thể xác nửa , vì sợi dây bạc kim quang tuyến đả bị đứt , mặt dù ánh sáng khác vần còn , nhưng cấu trúc của ánh sáng nầy hoàn toàn khác với ánh sáng của cây củi củ ; mặc dù bức xạ tàn dư cao cấp của họ còn lưu giữ trong không gian , nhưng nó không còn linh hoạt và tự động hóa như lúc còn thần thức của thiên tiên ngự trị khi xác thân còn sống .

Do đó , hoàn toàn không có trường hợp , linh hồn đi đầu thai ,mà mang theo đầy đủ những kinh nghiệm và kiến thức của kiếp trước , cho kiếp nầy xử dụng .Vì khi con người , khi chết là hết .
Vì đã có biết bao nhiêu sách vở và kinh điển ghi chép của Đông Phương và Tây Phương , những người đã đắc đạo , có được bao nhiêu người đã trở lại , hay chỉ có là những kinh nghiệm và kiến thức của họ được lưu truyền , ghi chép lại , phong phú hóa và chỉ được chỉ dạy cho những đệ tử nội môn mà thôi .
Những kinh nghiệm nầy là những khả năng tâm linh , có thể đọc được ký ức của vũ trụ , có thể đọc được ý thức và vô thức của những người chung quanh , có thể đọc và bắt được những thông tin của bức xạ tàn dư và có thể dùng tâm lực của mình để điều khiển người khác hay có thể dùng phương pháp chuyển di thần thức PHOWA của mình theo kỷ thuật ĐOẠT XÃ để được trường sinh bất tử , luôn luôn có được một khả năng của một vị đắc đạo để hướng dẩn nhân loại và cứu nhân độ thế . ( Còn kỷ thuật PHOWA được trình bày ở những nơi khác , chỉ là một kỷ thuật tâm linh làm kích hoạt những chất kích thích tố , nội tiết để thần thức người chết ra đi một cách êm ái , như được tiêm vào người một mủi thuốc tê mạnh được ngấm từ từ vậy ) . Như vậy chết êm ái , chết đau đớn cũng là chết , nó chỉ có tác dụng gây ảnh hưởng lên tâm lý hay hay dở cho những người ở lại và cúng cố niềm tin tâm linh thánh thiện và trật tự cho xả hội loài người mà thôi .
Vì là những kỷ thuật cao cấp , nên những khoa học và những kỷ thuật tâm linh nầy , được thực hành và xử dụng trong vòng bí mật và im lặng . Những người nầy được gọi nôm na là những vị nằm trong QUẦN TIÊN HỘI , THE OWL , THE SKULL ....hay một nhóm người đặc biệt sắp đặt và nắm vận mệnh tiến hóa của trái đất nầy , được sống dưới hình hài của con người , nhưng với một kiến thức và khả năng siêu nhân loại .

Mặc dù như thế , những kiến thức nầy vẩn được phô bày và bàng bạc ở tất cả mọi nơi ,ẩn giấu dưới mọi hình thức , mà diển đàn Thế giới Bùa ngải nầy , cũng là một trong những nơi , mà những phương pháp tu tập bí mật tâm linh được trình bày ; vấn đề là chúng ta có mở được tâm nhản và ANH HÙNG có dám TẠO THỜI THẾ hay không , thì kho tàng quý giá nầy , lúc nào cũng còn chờ chúng ta khai quật , để xử dụng chúng cho đúng thời và đúng vị của nó trong thời đại có nhiều nhu cầu tâm linh của thế kỷ trực giác tâm linh 21 nầy .

Có công danh thì sống trong trần thế
Không công danh thì nát với cỏ cây
Rảnh thời túi rượu thơ bầu
Bận thời , tay vợ tay con , tay cày....
Còn ai công hầu , ai khanh tướng
Cổ lai du hý kỷ nhân hồi
Bồ đào mỷ tửu dạ quang bôi
Xả láng sáng về sớm....Anh Chị em ơi …… !
Hò là hò vô ...vô một ly nửa bà con ......

Chúc quý Thầy và quý Huynh có một ngày vui vẽ và tinh tấn .
Ngu đệ
ÁNH SÁNG T2
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:09 am


Xin chào ANHSANGT2,

Phải nói rằng bạn nghiên cứu khá sâu về nhiều vấn đề hóc búa đấy. Chúc bạn có nhiều tham luận thật hay.
Thân ái
hp571
Thân gửi huynh Ánh Sáng T2 quí mến .

Trước hết, tại hạ xin xác tín với huynh một điều. Tại hạ không bao giớ dám cắt bỏ một chữ nào của huynh trong những ý tưởng phong phú mà huynh trình bầy trên diễn đàn này. Thứ nữa, dù tại hạ hoàn toàn không ( hoặc chưa) đồng ý với những ý thức hệ của huynh thì những gì huynh viết trên đây cũng là một bài học mà tại hạ đang cần phải học hỏi !

Vậy thì huynh đừng bận tâm tới những gì đúng, sai, chánh, tà, hay, dở, lợi, hại. Mà, hãy nghĩ rằng; chúng ta đang học hỏi và tìm hiểu sự thực. Chỉ có sự thực mới là chân lý vĩnh cửu của cứu cánh trong cuộc đời này.

Đúng như huynh nói : " một chân lý ở dảy núi bên nầy là đúng , nhưng có thể sai khi sang đến dải núi bên kia ". Nhưng chắc huynh cũng biết một câu chuyện xưa. Bây giờ tại hạ cũng gần 70 nên trí nhớ kém cỏi, chỉ nhớ lơ mơ rằng: Có một vị trong thời mà người ta còn cho rằng quả đất này hình vuông và trung tâm là La-Mã. Và vị đó đã cãi lại là quả đất tròn chứ không phải hình vuông. Kết quả là vị đó bị bức tử, không nhớ là bị chém đầu hay thiêu chết. Nhưng trước khi chết, vị đó xin nói một câu, Đó là : Dù tôi có chết đi thì quả đất vẫn tròn !

Huynh Ánh Sáng T2 ơi. Với tại hạ thì dù không thể biện minh được như huynh cho ý tưởng của mình. Nhưng cho tới bây giơ tại hạ vẫn tìn là có một thế giới vô hình bên chúng ta, và khi người ta chết đi thì sẽ thuộc về thế giới đó. Cái chân lý quả đất tròn thì nó phải tròn thôi. Dù cho có một thế lực thần quyền hay thế quyền nào bắt nó vuông thì nó vẫn tròn như hình dạng cố định của nó đó mà.

Xin huynh đừng cho tại hạ là cố chấp và cãi bướng nhé. Cũng chỉ là cái lòng tin ngớ ngẩn của mình mà bầy tỏ sự ngu ngơ ra đây cho huynh cười chơi cho vui thôi. hì hì hì

Mấy vần thơ của huynh làm tại hạ nhớ tới thơ văn Nguyễn Công Trứ quá . Có phải huynh đã đọc được những rung động của bức xạ tàn dư của Ngài rồi hay không .

Vừa đọc bài của huynh với những triết thuyết thật nát óc, tại hạ cũng chưa chắc đã hiểu hết ý tưởng của huynh vì sở học kém cỏi. Lại còn cố giải bầy tâm sự nên thật nhức đầu. Thôi thì chúng mình làm một ly trà nạm sen cho dễ thở cái đã nhé. Không dám mời huynh uống rượu vì tại hạ ăn chay trường. Xin miễn chấp nhé,

thân ái
Hùng Sơn
Chào mọi người trên diễn đàn, đặc biệt là huynh AST2,
Ðăng bài lần nầy đọc phê hơn lần trước nhiều, hay hơn lần trước nhiều...hì hì hì...
Lần trước mình chỉ nói sơ về thiên tài mà huynh đã trở thành thiên tài rồi, thật đáng mừng, lại có nhiều kiến thức về mọi vấn đề thật đáng phục.

Nếu huynh dùng cây thước của Anh thì độ đo tính bằng foot hay inches, nếu huynh dùng thước quy ước thì độ đo tính bằng metre hay centimetre...
Bài viết của huynh hay và chính xác nếu dùng hệ thống đo đạt của huynh, nếu đứng trên độ cân đo khác thì như thế nào nhỉ ???...Mình chỉ đùa cho vui thôi, huynh viết có lý lắm không thể nào bát bỏ được, phải nói một câu là hay !!! Chính xác !!!

Mình nhớ có một câu chuyện đọc ở đâu quên rùi, hì hì hì, thông cảm vì không nhớ nguồn...he he he...Câu chuyện như thế nầy nè:

Có hai đứa nhỏ cải nhau về mặt trời. Ðứa Mắt và đứa Lửa cải nhau về mặt trời buổi sáng và buổi trưa, khi nào thì mặt ở xa mặt đất nhất.

Ðứa Mắt lý luận như thế nầy:
- Buổi sáng chúng ta thấy mặt trời rất lớn, buổi trưa chúng ta thấy mặt trời nhỏ hơn buổi sáng. Vật nào ở gần chúng ta thấy lớn, vật nào ở xa chúng ta thấy nhỏ lại. Vậy mặt trời buổi sáng ở gần đất, buổi trưa mặt trời ở xa đất.

Ðứa Lửa không chấp nhận Mắt đúng, nó lý luận như thế nầy:
- Buổi sáng mặt trời không nóng, buổi trưa mặt trời rất nóng. Ngồi xa lửa sẽ không thấy nóng, ngồi gần lửa sẽ thấy nóng. Vậy buổi sáng không nóng thì mặt trời ở xa đất, buổi trưa nóng mặt trời ở gần đất.

Sự lý luận khi chưa đầy đủ sự hiểu biết cũng giống như hai đứa trẻ nầy. Ngày nay chúng ta biết mặt trời xa hay gần và như thế nào rồi. Muốn biết nó hãy hội nhập vào nó, nếu không chỉ là những giả thuyết mà thôi. Chưa bao giờ uống rượu chỉ nghe người ta nói rồi tưởng tượng rượu là như thế đó...cũng có thể đúng một phần nào không sai hết đâu, nhưng hãy nên nhấp thủ đi đã rồi nói...
Hì hì hì...anh em còn xị nào nữa hông? Mình dô tiếp chớ !!! Úi giời ơi, rượu mận bùi quá đi...mum mum mum...
_________________
ngao du đây đó
Thân gửi huynh Ánh Sáng T2 .

Tại hạ vừa viết bài trả lời huynh xong. Uống được ly trà ướp sen, thấy lòng thơ thới mới đi "lăng ba bi bộ" trên các diễn đàn, gặp được bài này cũng thấy tâm đắc. Mạn phép gửi huynh xem xét, để huynh cho tại hạ biết ý kiến huynh ra sao.

thân ái
Hùng Sơn
-------------------------------------------------------------------------------------
LUẬT LUÂN HỒI

Luân hồi trong quá khứ

Chắc chắn trên đời, không có một giáo lý triết học nào có một Phổ hệ trí thức vẻ vang bằng thuyết Luân hồi, nghĩa là sự phát triển nhơn loại trải qua những kiếp sống tuần hoàn, có định kỳ ở thế gian. Một ít kinh nghiệm thâu thập trong khoảng đời sống ở trần thế biến đổi thành trí năng và ý thức trong khi con người trở về cõi Thiên đường, đặng khi đứa nhỏ sanh ra nó có sẵn những kinh nghiệm kiếp trước, biến chất thành ra những khuynh hướng và quyền năng trí thức và đạo đức. Ông Max Muller quan sát một cách đúng đắn khi ông nói rằng: Các bực đại trí trong nhơn loại đều công nhận sự Luân hồi. Những thiên Anh hùng ca bên Ấn Độ đều có dạy về sự Luân hồi và nói rằng ấy là một việc xác thật, không ai chối cãi được. Nó để làm căn bản cho đạo đức và văn nghệ huy hoàng của Ấn Độ, làm cho các nhà trí thức Âu châu phải ngưỡng mộ, đều thấm nhuần giáo lý của nó.

Đức Phật đã dạy sự Luân hồi và thường nói về những tiền kiếp của Ngài. Đức Pythagore cũng dạy như thế; Platon có bàn về sự Luân hồi trong các sách triết lý của Ngài. Josèphe tuyên bố rằng những người Do thái đều công nhận sự Luân hồi và kể chuyện một vị tướng lãnh đã khuyến khích binh lính của ông rán chiến đấu cho đến lúc thở hơi cuối cùng bằng cách nhắc nhở cho họ nhớ rằng họ sẽ đầu thai lại cõi Trần.

Trong quyển “Đức Minh Triết của Salomon” (La Sagesse de Salomon) có nói rằng: sanh ra trong thể xác không có một tật nguyền là phần thưởng của những người đã làm lành. Đấng Christ công nhận sự Luân Hồi khi Ngài nói với các tín đồ: Jean Baptiste là nhà tiên tri Elie trở lại. Virgile và Ovide tin có sự Luân Hồi. Nghi thức do các nhà bác học Ai Cập bày ra để cho người ta ghi nhớ trong đầu óc rằng có sự Luân hồi. Những trường theo Tân thuyết Platon đều nói rằng: sự Luân Hồi có thật; và một vị Linh mục uyên bác nhứt là Origène giải bày rằng: “Người nào cũng phải lãnh một xác thân tùy theo những công trạng và những việc làm của va hồi trước”.

Mặc dầu thuyết Luân Hồi bị một Hội nghị Thiên Chúa Giáo La Mã lên án và cấm chỉ, những phái bị liệt vào hạng tà giáo đều giữ y nguyên thuyết cổ truyền. Hồi đời Trung cổ, một nhà bác học Hồi Giáo có nói với chúng ta về thuyết Luân Hồi như vầy: “Tôi ở trong đá, khi tôi chết, tôi thành ra một loài cây; tôi ở trong cây, khi tôi chết, tôi thành một con thú; tôi ở trong một con thú, tôi chết rồi thành ra con người. Tại sao tôi lại sợ chết ? Chừng nào sự chết làm cho tôi kém sút ? Tôi làm người, tôi sẽ chết và tôi làm một vị Thiên Thần”.

Sau đó ít lâu, ta lại thấy mấy vị sau đây cũng đem thuyết Luân Hồi ra dạy nữa: ấy là Goethe, Fichte, Schelling, Lessing. Đây mới kể sơ tên của vài nhà triết học Đức. Khi già rồi, ông Goethe vui vẻ nói trước rằng ông sẽ đầu thai lại ở cõi Trần. Ông Hume tuyên bố rằng thuyết Luân Hồi là giáo lý duy nhứt về sự trường sanh bất tử mà một nhà triết học có thể suy nghĩ; ý kiến nầy tương tự như quan niệm của giáo sư Tô cách lan (Ecossais) Mc Taggart, là người đã phê bình các lý luận về sự trường sanh bất tử. Ông kết luận rằng: duy có thuyết Luân Hồi là hợp lý hơn hết. Chẳng cần phải nhắc rằng: có nhiều văn sĩ như Wordworth, Browning, Rossetti và nhiều thi sĩ khác đều tin sự Luân Hồi.

Việc trở lại tin có sự Luân Hồi không phải là một tín ngưỡng của một giống dân dã man hiện tại trong dân tộc văn minh, nhưng đó là một sự giải thoát trí tưởng về sự lầm lạc của người đạo Da Tô, một dấu chứng để tu bổ các tai hại do sự bất hợp lý của tôn giáo gây nên và nó đã tạo ra “Hoài nghi chủ nghĩa” và “Duy vật chủ nghĩa”.

Quả quyết rằng khi mỗi xác thịt sanh ra thì phải sanh ra một linh hồn riêng cho nó thì ám chỉ rằng: sự sanh hóa một linh hồn tùy thuộc sự sanh hóa một xác thịt. Thế thì không tránh khỏi sự kết luận rằng: khi xác thịt chết thì linh hồn cũng phải tiêu diệt theo. Chủ trương rằng một linh hồn không có dĩ vãng thì tự nhiên không hề có cứu cánh, cũng chẳng khác nào tưởng tượng rằng: cây gậy chỉ có một đầu. Cái đó không thể thừa nhận được. Duy có một linh hồn thiên nhiên mới có hi vọng bất diệt được.

Việc quên mất giáo lý về Luân Hồi dạy rằng có một chỗ luyện tội tạm thời để tiêu diệt những tình dục xấu xa, và một cõi Thiên Đường hữu hạn để biến đổi những kinh nghiệm ra quyền năng làm cho người ta nảy sanh ra ý tưởng có một cõi Thiên Đường vô biên mà không có một người nào tốt và có một cõi Đía Ngục vô tận mà không có một người nào đáng kể là xấu. Điều ấy thâu ngắn sự tấn hóa của con người vào khoảng đời sống vô ý nghĩa, nó làm cho tương lai vô tận vô biên phải tùy thuộc những biến cố trong vài năm. Như thế, đời sống thành ra một sự hổn loạn không thể hiểu được, đầy những sự bất công, đầy những sự tư vị những bực thiên tài và những kẻ tội nhơn toàn là những người không xứng đáng với tài của mình hay là tội của mình.

Đây là một vấn đề mà người biết suy nghĩ không hề tán thành bao giờ, trừ ra những ai có đức tin mù quáng và không có căn bản mới công nhận mà thôi.

SỰ LUÂN HỒI RẤT CẦN THIẾT

Chỉ có ba cách giải thích về những sự bất bình đẳng của con người, những sự bất bình đẳng nầy do những năng lực, những thích nghi, hay là những cơ hội mà ra.

1. Sự sanh hóa đặc biệt (La Création spéciale) của Đức Thượng Đế, ám chỉ sự bất lực của con người; số mạng con người bị một ý chí độc đoán và vô lượng chỉ huy.

2. Sự di truyền (Truyền thống) như khoa học đã giải thích, ám chỉ con người cũng bất lực; con người chỉ là kết quả của một dĩ vãng mà nó không thể kiểm soát được.

3. Sự luân hồi. Ám chỉ con người có thể làm chủ vận mạng của mình được. Con người là kết quả của quá khứ, của cá nhơn mình, nghĩa là tự nó tạo ra.

Thuyết sáng tạo đặc biệt bị tất cả những người biết suy nghĩ bác bỏ, về sự giải thích những điều kiện quan trọng hơn hết là tánh nết của đứa nhỏ và gia đình, nơi đứa nhỏ sanh ra. Sự tấn hóa được nhìn nhận trong mọi việc chỉ trừ đời sống của Chơn Linh tức là con người. Con người không có một dĩ vãng cá nhơn mặc dầu nó có một tương lai cá nhơn vô cùng vô tận.

Lúc mới sanh ra, con người đã có sẵn tánh nết rồi và nó tùy thuộc vào tánh nết nầy hơn mấy việc khác; theo giả thuyết nầy thì số mạng của nó ở trên trần gian vốn của Trời tạo riêng cho nó và bắt buộc nó phải tuân theo chớ nó không chọn lựa chi được cả.

Sự sanh hóa không khác nào một cuộc xổ số, con người có thể bắt được một số tốt hay một số xấu; số xấu tức là duyên phần khổ sở, nó phải lãnh lấy, nghĩa là phải sao chịu vậy. Nếu phần nó được bẩm tánh tốt, tài năng siêu việt và bản tánh cao thượng thì càng hay cho nó; nó không có làm gì để xứng đáng được hưởng như thế. Nếu số phần nó bị tội gian ác di truyền, sự ngu xuẩn di truyền thì mặc kệ nó; nó không làm cái chi để đáng chịu quả ấy.

Nếu hạnh phúc luôn luôn cho một kẻ nầy, còn những thống khổ lại đeo theo người kia mãi mãi thì kẻ xấu số nầy phải chịu rủi ro đó. - Người thợ đồ gốm há chẳng dùng được đất sét để làm cái gì mà nó muốn hay sao ? Thật đáng buồn là cục đất sét biết cảm giác, phải không các bạn ?

Thuyết sanh hóa đặc biệt còn kỳ dị về nhiều phương diện khác nữa. – Thí dụ: Sanh một linh hồn đặc biệt cho một thể xác và thể xác nầy chết sau khi được vài giờ. Nếu đời sống trên thế gian có chút ít giá trị về phương diện giáo dục hay thực nghiệm thì linh hồn nầy chịu thiệt thòi khi lìa xác sớm như vậy. Ngoài ra, nếu đời sống nhơn loại ở trần thế chẳng có gì quan trọng và chắc chắn dẫy đầy những sự sai lầm và đau khổ mà chung qui có thể bị sa vào Địa ngục đời đời thì linh hồn nhập vô một thể xác sống lâu, bị bạc đãi gắt gao bởi vì nó phải chịu không biết bao nhiêu sự đau đớn ê chề trong khoảng thời gian dài đăng đẳng; nó sống ở cõi trần mà không có một lợi lộc nào bù đắp lại. Còn linh hồn bỏ xác sớm kia lại tránh được tất cả những sự hoạn nạn.

Bản kê khai những sự bất công về sự sanh hóa một linh hồn mới cho mỗi xác thịt có thể kéo dài ra vô cùng, bởi vì nó bao trùm tất cả những sự bất đồng đẳng. Sự giải nghĩa sai lầm nầy tạo ra cả triệu kẻ vô thần bởi vì đầu óc khôn ngoan không công nhận nó và trong lòng tại tức tối. Nó đặt con người vào tình trạng của một kẻ đứng trước chủ nợ vô cùng gắt gao khắc nghiệt không hề lay chuyển là Đức Thượng Đế. Con người mới hỏi Ngài một cách thảm thiết: “Tại sao Ngài sanh tôi ra như thế nầy”.

Giả thuyết của khoa học không nhạo báng thần thánh hơn thuyết sinh hóa đặc biệt, nhưng sự di truyền chỉ cắt nghĩa được về xác thịt chứ không rọi được ánh sáng nào về sự tấn hóa của trí thức và tâm thức. Lý luận của Đạt nhỉ văn (Darwin) toan bao hàm cả hai điều mới kể ra nhưng thất bại một cách chua cay khi cần phải giải nghĩa làm sao những đức tính xã hội có thể phát triển được trong khi phải tranh đấu đặng sống. Vả chăng, khi đến thời kỳ mà cha mẹ đạt được những tánh hạnh cao thượng thì thời kỳ sanh sản đã qua, trẻ nhỏ sanh ra phần nhiều lúc sanh lực của cha mẹ đương dồi dào, mà lúc ấy thì trí thức và đức tính chưa đầy đủ. Một mặt khác, những sự nghiệm xét từ lâu đã chứng minh rằng những tánh nết không hề di truyền và con người càng tiến lên cao thì con cái càng ngày càng ít.

Khoa học nói rằng: “Bực vĩ nhơn, bực thiên tài thì tuyệt tự vô hậu”. Như thế là tiếng chuông cáo phó sự tấn hóa của nhơn lọai đã gióng lên, nếu quả thật, sự di truyền là quyền năng chủ động của sự văn minh tiến bộ.

Trí thứ và năng lực sanh sản vẫn đi trái ngược nhau: cha mẹ càng thấp kém thì con cái càng nhiều. Khi chứng minh rằng tánh nết không di truyền thì khoa học đã đụng vào một vách thành đồng. Nó không giải thích được những sự kiện về sự thông minh tốt chúng và đời sống Thánh nhơn. Con của một Thánh nhơn có thể là đứa chơi bời trụy lạc, con của bực thiên tài có thể là một đứa đần độn. Tục rằng: “Kẻ thiên tài ở trên trời xuống”.

Về phương diện Khoa học thì bực thiên tài làm vẻ vang cho nhơn loại, dường như ở ngoài vòng “Nhân và Quả”. Khoa học không nói cho chúng ta biết, làm thế nào mà đào tạo những bực Đại trí thức và những tâm hồn trong sạch cho tương lai. Nó không hăm dọa ta với một ý chí độc tài, nhưng nó không giải cho ta nghe về vấn đề “Bất đồng đẳng giữa nhơn loại”. Nó nói rất đúng rằng: “Kẻ ghiền rượu di truyền cho con cái những xác thân làm mồi cho bịnh tật, nhưng nó không cắt nghĩa tại sao mấy đứa nhỏ bất hạnh nầy lại lãnh cái di sản đau đớn nầy”.

Trái lại, luật Luân hồi khôi phục sự công bình cho Đức Thượng đế và quyền năng cho con người. Mỗi linh hồn, khi mới nhập vào xác thịt thì là một cái mầm không hiểu biết, không ý thức, không phân biện. Như đã cắt nghĩa ở trước đây, nhờ kinh nghiệm êm đềm hay đau khổ, con người mới thâu thập những vật liệu để tạo ra những quyền năng trí thức và đạo đức. Thế nên, tánh tình của con người khi mới sanh ra là công nghiệp riêng của nó và đánh dấu trình độ nó đã trải qua trong kiếp tấn hóa lâu dài của nó. Tâm tánh tốt, tài năng lớn, bản tánh cao thượng, là chiến phẩm của những trận tranh đấu gây go; ấy là tiền công của một việc làm mệt nhọc và nặng nề. Trái lại, những tánh tình xấu xa, hèn hạ, chứng tỏ một trình độ tấn hóa còn thấp, một sự phát triển yếu ớt của mầm tinh thần.

Người dã man ngày nay sẽ là vị Thánh nhơn trong tương lai, tất cả đều đi chung một con đường, tất cả phải đến mức “Con người toàn thiện”. Sự đau khổ theo sau sự lầm lạc, nhưng luôn luôn có thể trị lành được. Sức mạnh phát triển nhờ sự tranh đấu. Sau mỗi lần ta gieo giống, ta đều gặt hái cái kết quả không thể tránh được; hạnh phúc căn cứ trong việc lành, còn đau khổ căn cứ trong việc ác.

Đứa bé sơ sinh thác, sau khi lọt lòng một ít lâu, là trả một mối nợ của nó đã vay trong quá khứ mà chưa thanh toán. Nó sẽ đầu thai lại rất mau đặng thâu thập những kinh nghiệm cần thiết cho sự tấn hóa của nó. Nó bị trễ trong một thời gian ngắn, nhưng nó đã dứt nợ.

Những công việc xã hội, mặc dầu đặt để con người vào bực thấp thỏi trong cuộc tranh đấu đặng sống có thể dẫn con người đi đến sự hy sinh tánh mạng; như vậy là tạo cho nó một tánh tình cao thượng trong những kiếp lai sinh và un đúc cho nó thành một kẻ phụng sự quốc gia.

Thiên tài của một người nào là kết quả của nhiều kiếp cố gắng của anh, dầu anh tuyệt tự đi nữa anh cũng phụng sự được trong những kiếp tương lai, bởi vì mỗi lần anh tái sanh lại cõi trần là mỗi lần anh được phát triển hơn.

Một linh hồn nào đầu thai vào một ác thân bị bịnh rượu chè say sưa của cha nó đầu độc là tại linh hồn đó phải học một bài học đau khổ để hướng dẫn kiếp sống nầy đây đúng với những nguyên tắc tốt đẹp hơn những nguyên tắc mà nó đã theo trong quá khứ.

Thế nên, trong mỗi trường hợp, quá khứ của một người nào đều giải thích kiếp hiện tại của người ấy, và ngày nào con người biết được những luật tấn hóa và tuân theo chúng nó thì ngày đó con người sẽ chắc chắn có thể tạo được kiếp số vị lai của mình và đúc nắn sự phát triển của mình theo những khuôn khổ tốt đẹp vô ngần cho tới khi nào trở nên một vị trọn sáng, trọn lành.

TẠI SAO CHÚNG TA QUÊN NHỮNG TIỀN KIẾP

Khi người ta nói đến Luân hồi, câu hỏi ta thường nghe là: “Nếu ta đã sanh ra ở cõi trần kiếp trước, tại sao tôi không còn nhớ chi cả ?” Một sự xem xét sơ qua những việc xảy ra cũng đủ trả lời cho câu hỏi đó.

Trước hết ta để ý rằng trong kiếp nầy đây, những điều ta đã quên vẫn nhiều hơn những điều ta còn nhớ. Nhiều người không thể nhớ mình đã có tập đọc, nhưng việc họ biết đọc chứng minh rằng họ đã có tập đọc. Những việc xảy ra hồi còn bé thơ đã xóa mất trong ký ức của ta, nhưng chúng nó còn để lại những dấu vết trong tánh tình chúng ta. Người ta quên rằng mình đã té lúc ấu thơ, nhưng không tránh khỏi tật nguyền, mặc dầu chúng ta vẫn dùng một xác thân nầy trong khi đã xảy ra những biến cố mà bây giờ ta đã quên đi.

Những biến cố nầy không hoàn toàn mất hẳn đối với ta. Nếu một người kia bị thôi miên, thiếp đi, va sẽ thuật lại những điều va đã làm hồi nhỏ, người ta thấy rằng những điều ấy bị chôn lấp trong ký ức chớ không phải tiêu mất. Người ta đã gặp nhiều trường hợp, những người sốt rét kịch liệt, trong cơn mê sảng nói một thứ tiếng mà họ biết hồi còn nhỏ, nhưng lúc lớn lại quên đi. Một phần lớn tiềm thức của chúng ta gồm những kinh nghiệm ẩn tàng như thế đó; ấy là những hồi ức bị lãng quên, tuy vậy cũng có thể phục hồi được. Nếu những điều kinh nghiệm ở trong xác thân nầy là đúng thì những điều kinh nghiệm ở trong những xác thân trước đã chết mất và đã tan rã không biết bao nhiêu thế kỷ rồi, lại càng đúng hơn nữa. Xác thân và trí óc của ta bây giờ không dự vào một phần nào trong biến cố xa xăm ấy vậy thì làm sao ký ức dùng chúng nó làm trung gian đặng phát hiện ra được ?

Thể xác trường tồn bất diệt theo chúng ta luôn luôn trong chu kỳ luân hồi, là ba Thể thiêng liêng Tiên thể, Kim thân và Thượng trí.

Những thể thấp đã rã và trở về nguyên chất trước khi chúng ta đi đầu thai.

Chất khí mới làm cái trí, cái vía, và xác thân, ba thể mới của ta kiếp nầy, thọ lãnh của chơn linh không phải những kinh nghiệm của quá khứ mà là những tư chất, những khuynh hướng, những năng lực, tức là những kinh nghiệm biến chất ra. Ý thức ta, sự ứng đáp tự nhiên của chúng ta, đối với những sự khêu gợi cảm tình và trí thức, việc chúng ta công nhận sức mạnh của một biện chứng hợp lý sự tán đồng những nguyên tắc căn bản về sự phải và sự quấy, điều lành và điều dữ; đó là dấu vềt của những sự kinh nghiệm mấy kiếp trước.

Người nào thuộc về hạng trí thức thấp kém không thể bình phẩm được một biện pháp hợp lẽ về toán học. Người mà kém về phần đạo đức thì không thể nào thấy được sức mạnh vô cùng của một lý tưởng cao siêu.

Có người thấu đáo và áp dụng lẹ làng một triết học hay một khoa học; người khác lại có một nghệ thuật mà không học trước, như thế là ký ức phát triển năng lực của nó mặc dầu công việc tập sự kiếp trước đã bị lãng quên.

Platon nói rằng : “Đó là sự sực nhớ lại”.

Nếu chúng ta cảm thấy thân mật với một người lạ, khi chúng ta mới gặp nhau lần đầu tiên, thì ký ức ở đó, Linh hồn biết rằng vốn là bạn thân của mình kiếp trước. Khi chúng ta tránh xa một người lạ, vì thấy va thì ta dội ngược lại, ký ức cũng ở đó, Linh hồn biết rằng anh đó là kẻ thù nghịch ngày xưa.

Những sự quen thuộc nầy và sự báo trước nầy vốn do tâm linh mà ra, mà tâm linh vốn là ta vậy. Chúng ta nhớ lại, mặc dầu vì cái óc làm việc, ta không thể ghi ký ức ta vào đó được. Trí và óc kiếp nầy đều mới, Linh hồn cung cấp cho cái trí những kết quả của quá khứ chớ không phải ký ức của những biến cố đó. Cũng như một nhà buôn bán, cuối năm khóa sổ và khi bắt đầu vô sổ mới, đâu có ghi tất cả những điều mục trong sổ cũ, mà chỉ ghi những kết số các khoản; cũng thế đó, Linh hồn chỉ ghi vô óc mới những sự xét đoán của nó về những kinh nghiệm của những đời sống đã qua, và luôn những kết luận cùng những quyết định của nó. Ấy là số dự trữ truyền lại cho kiếp mới, cũng gọi là động sản trí thức cho cái nhà mới; dĩ nhiên đó là một ký ức thực sự.

Ở nơi kẻ đã tấn hóa thì những tài sản nầy thật phong phú và khác nhau, và nếu người ta so sánh chúng nó với những sở hữu tương xứng của kẻ dã man thì giá trị của một ký ức lâu đời thấy rõ ràng. Không có cái óc nào chứa đựng được ký ức những sự biến cố của nhiều kiếp, trái lại, khi chúng nó cụ thể hóa thành những sự phán đoán đạo đức và trí thức rồi thì có thể dùng chúng nó được. Cả trăm tội sát nhơn đều quyết định: “Tôi không bao giờ nên giết ai cả”. Sự nhớ lại mỗi tội sát nhơn là một gánh nặng vô ích, nhưng mà sự xét đoán rút ra ở những kết quả của chúng nó, (nghĩa là, cái quan niệm tự nhiên rằng: đời sống con người là thiêng liêng) làm ra ký ức của sự sát nhơn nầy ở nơi con người văn minh.

Nhưng mà có khi người ta nhận thấy ký ức của những biến cố kiếp trước; mấy đứa trẻ thấy thoáng qua ở chỗ nầy, chỗ kia, những việc kiếp trước của nó nhờ vài sự biến cố hiện tại nhắc nhở. Đây là một trẻ nhỏ nước Anh, khi nó thấy những hình tượng lần thứ nhứt thì nó bỗng nhớ lại kiếp trước nó là một nhà điêu khắc. Kìa một trẻ Ấn độ lại biết một cái rạch mà nơi đó nó bị chết chìm, lúc nó còn nhỏ, hồi kiếp trước và nó còn biết người mẹ kiếp trước của nó nữa. Người ta đã ghi chép rất nhiều trường hợp nhớ chuyện kiếp trước như vậy.

Vả lại ta có thể nhớ lại chuyện kiếp trước, nhưng phải cần sự cố gắng liên tục sự tham thiền lâu ngày nhờ đó trí tuệ lúc trước hiếu động và luôn luôn cố ý muốn thoát ra ngoài nay bị kiểm soát và trở nên yên tịnh để hiểu biết được Chơn linh hòa hợp với nó và nhờ nó cho biết ký ức kiếp trước chỉ khi nào ta nghe được tiếng nói còn yếu ớt của Chơn linh thì chuyện kiếp trước mới trải ra trước mắt ta, bởi vì chỉ Chơn linh mới nhớ lại được và phóng ra những tia sáng của ký ức đã soi sáng sự tối tăm của bản tánh thấp thỏi và thường thay đổi mà tạm thời nó bị kết chặt vô đó.

Trong những điều kiện như thế thì có thể nhớ lại được nhờ những dây liên lạc quá khứ, nhận biết các bạn thiết thuở xưa, diễn lại những tấn tuồng kiếp trước trong khi thật hành kinh nghiệm về sự trường tồn bất diệt nầy thì có một sức mạnh và một sự yên tĩnh không thể hình dung được từ trong tâm phát sanh ra. Những sự buồn phiền hiện tại trở nên nhẹ nhàng, khi người ta thấy mặt thiệt của nó trong khuôn khổ những biến cố tầm thường và nhứt thời đối với một đời sống vô cùng, vô tận. Những lạc thú bây giờ mất hết màu sắc sáng lạn, khi người ta hiểu rằng: Chúng nó chỉ là những sự vui vẻ của quá khứ lập lại mà thôi. Sự buồn và sự vui đều được thừa nhận ngang hàng như nhau với tư cách là những kinh nghiệm hữu ích để làm cho tâm và trí được phong phú và góp sức vào sự phát triển đời sống.

Khi sự vui sướng và sự đau khổ được thấy với ánh sáng trường cửu (chỉ chừng đó mà thôi chớ không phải trước) thì có thể đương đầu với những kỷ niệm cấp bách kiếp trước mà không sợ nguy hiểm khi những kỷ niệm nầy trấn tĩnh những cảm xúc hiện thời và những điều mà có thể làm cho ta tan nát sẽ thành một chỗ nương dựa và một sự an ủy. Ông Goethe rất vui thích khi ông nghĩ rằng lúc ông đầu thai lại cõi trần ông sẽ quên hết những chuyện kiếp trước của ông; những người kém trí lực có thể vừa lòng về sự khôn ngoan của mình, trong mỗi kiếp sống mới trên con đường thích hợp với mình, sự khôn ngoan nầy nhờ những kết quả của những việc xảy ra ở kiếp trước, bồi bổ thêm chớ không phải bị tràn ngập những biến cố kiếp trước.
Gửi huynh Ánh Sáng T2 .

Tại hạ lại vừa đọc được thêm một bài nữa cũng rất lý thú. Huynh nghĩ sao về câu chuyện này ?!!!

thân ái
Hùng Sơn

==============================================

Chuyện cô Kumari Shanti Devi kiếp trước ở Muttra thác rồi tái sanh tại Delhi

Chuyện nầy làm chấn động dư luận thế giới vì nó có quan hệ với triết lý của cuộc đời.

Dưới đây là bài điều tra kỹ lưỡng của ba ông: Lala Deshbandhu Gupta chủ nhiệm báo The Daily Tej, nhà lãnh tụ ái quốc Pandit Neki Pram Sharma và trạng sư Chand Mathur, gởi cho báo chí.

“Shanti tới bốn tuổi cũng như đứa câm, không nói. Qua bốn tuổi rồi nó bắt đầu nói những việc mà dường như là cái kết quả sự nhớ lại chuyện kiếp trước do sự liên tưởng mà ra. Tỉ như người ta cho nó ăn thì nó nói: “Tôi ăn bánh nào đó tại nhà tôi ở Muttra”. Khi mẹ nó mặc quần áo cho nó thì nó tả cách nó mặc hồi kiếp trước tại Muttra. Nó thường nói: “Nó thuộc về hạn Choban và chồng nó là người buôn bán vải. Nó cho thêm những chi tiết về cái nhà của nó, nó nói nhà nó sơn màu vàng và kế cận thì có nhiều tiệm đặc biệt”. Ban sơ cha mẹ nó tưởng mấy lời lạ lùng nầy vốn là chuyện nhảm nhí của trẻ con, nên không để ý tới. Nhưng nó lập lại mãi. Cha mẹ nó không muốn khươi chuyện ấy ra vì theo tục lệ Ấn Độ, đứa nhỏ nào nhớ chuyện kiếp trước thì thường không sống được lâu, nếu mấy chuyện ấy có thật. Cô bé Shanti thường tỏ ý muốn đi Muttra. Những người lân cận đều rõ biết việc đó.

Những câu trả lời chắc chắn

Cho tới hai năm chót đây, cô bé không tỏ thật tên chồng nó ra (chồng kiếp trước). Khi cha mẹ nó hỏi nó thì nó trả lời một cách rụt rè rằng: nó gặp thì nó biết. Ấy là do tục lệ bên Thiên Trước, ai cũng biết người đàn bà vì khiêm tốn nên không hề nói tên chồng mình.

Cách một năm rưởi nay, một ngày kia ông cậu của nó là ông Bishan Chand, giáo sư trường Ramjasschool, Darya Ganj, Delhi, tới thăm nó và biểu nó nói tên chồng kiếp trước của nó và quả quyết: nếu nó nói thì dắt nó đi Muttra. Con bé bèn nói nhỏ bên tai Ngài: ấy là Pundit Kedar Nath Chaubey. Ông giáo sư hứa để điều tra trước khi dắt nó đi. Lâu lâu thì nó hỏi thăm tin tức sự tìm kiếm đó, nhưng mà ông giáo sư đồng ý với cha mẹ nó, nên để câu chuyện đâu nằm đó, không muốn tìm hỏi cái nhà hồi kiếp trước.

Trong bữa lễ Dushera, ông giáo sư thuật câu chuyện nầy cho ông Lala Kishau Chand M.A. vốn là hiệu trưởng đã hồi hưu ở số 7 đường Darya Ganj, tại Delhi nghe chơi. Ông nầy tỏ ý muốn biết đứa nhỏ. Trong cuộc gặp gỡ với ông hiệu trưởng, cô bé mới cho địa chỉ của “Kedar Nath” và tả hình trạng cái nhà của nó.

Ông Lala Kishau Chand ghi vào sổ địa chỉ của cô bé nói và viết một cái thơ cho Pandit Kedar Nath. Ngài và nhiều người khác rất ngạc nhiên khi được thơ của Chaubey Kedar Nath trả lời rằng những việc đó có thật. Trong thơ Kedar Nath lại đại khái ngõ ý rằng va có một người bà con tên Pundit Kanji Mal, làm trong sở ông Bhana Mal Gulzari tại Delhi và xin cho người nầy giáp mặt với cô bé. Người ta chịu. Chẳng những cô bé nhận được Kanji Mal là bà con còn nhỏ tuổi của chồng kiếp trước cô và cô trả lời rất trúng những câu hỏi về việc kín nhiệm trong gia đình. Sự lạ lùng càng tăng thêm; Kanji Mal bèn kêu anh là Kedar Nath Chaubey từ Muttra đi qua Delhi.

Những dấu chứng cô bé nhớ chuyện kiếp trước

Pandit Kedar Nath Chaubey đi với đứa con trai 10 tuổi và người vợ sau, tới Delhi ngày 13 Novembre 1935. Mới vừa gặp thì cô bé nhận ra Kedar Nath Chaubey là chồng trước của mình. Thấy chồng và con, cô bèn khóc tấm tức tấm tưởi trọn một giờ đồng hồ. Kedar Nath Chaubey được phép hỏi cô bé vài câu chuyện thầm kín trong gia đình đặng thử coi ký ức của cô bé thế nào ? Những câu trả lời của cô bé đều trúng hết làm cho Kedar Nath động lòng sa nước mắt. Khi người ta hỏi ý kiến của ổng thì ổng đáp rằng: “Tôi quả quyết ấy cũng một linh hồn vợ trước tôi, thác tại Muttra ngày nay đầu thai làm cô bé”.

Cô bé dòm con Chaubey và tỏ dấu thương yêu như tình mẹ con. Cô mới xin mẹ ruột của cô bây giờ cho đứa nhỏ vài món đồ chơi, mà cô nóng nảy cho đến đỗi không đợi bà mẹ chọn lựa, cô lấy xâu chìa khóa đi mở cửa phòng lấy cho đứa nhỏ một món đồ chơi và một bộ bài cào.

Khi Kedar Nath và đứa con trai muốn ra khỏi nhà thì cô bé xin cho cô đi theo. Người ta tưởng tốt hơn là kêu xe cho cả thảy lên đi để tránh sự a ý có thể xảy ra.

Sau khi đi dạo chơi rồi, cô bé trở về, nó nắm tay đứa con nó, theo sau là cha ruột nó và Kedar Nath. Buổi chiều đó nó rất vui vẻ. Theo lời nó xin, Kedar Nath và đứa con trai ở lại Delhi hai ngày nữa, va có nhiều dịp coi chừng cử chỉ của cô bé.

Chiều bữa 15 Novembre 1935 Kedar Nath và đứa con trai phải về Muttra. Khi cô bé hay tin đó thì muốn đi theo, mà cha mẹ cô không bằng lòng. Muốn cho cô quên, người ta mới dắt cô lên xe đi chơi và đi coi hát bóng.

Nhưng cô bé một mực quyết đi Muttra, và từ khi gặp chồng cô tới sau thì cô càng nài nỉ hơn nữa. Cô cứ nói quả quyết rằng nếu người ta dắt cô đi Muttra thì cô biết nhà chồng cô liền.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:10 am

Cô bé nói cô có chôn giấu tiền bạc

Cô bé tả rành mạch tôn miếu Vishrant Gat ở Dwarkadhish, những đường dắt đi tới nhà chồng cô, cũng như cô đã sống và ở tại đó. Cô bé lại nói thêm rằng: cô có chôn giấu tiền ở dưới đất trong một căn phố ở nhà cô tại Muttra và cô có nguyện cúng 100 rubi (roupies) trong số đó cho tôn miếu Vishrant Ghat. Cô có nói chuyện đó cho Kedar Nath Chaubey hồi ông nầy lại Delhi.

Cha mẹ cô bé và bà con cô, giữ phong tục xưa nên không chịu mạo hiểm cho cô đi. Nhưng chúng tôi giải bày cho cha mẹ cô bé nghe, sau rốt lại ông bà bằng lòng, rồi chúng tôi cả thảy 15 người, kể luôn ổng bả nữa, đồng đi Muttra ngày 25 Novembre 1935. Chúng tôi đem theo một người nhiếp ảnh đặng chụp những ảnh cần thiết. Khi đứa bé bước lên xe lửa rồi thì chúng tôi xem xét từ cử chỉ của nó và ghi chép kỹ lưỡng. Lúc cô bé lên xe ngồi rồi thì chúng tôi thấy gương mặt nó tỏ vẻ hân hoan, khác hơn ngày thường trọn ba giờ đồng hồ của cuộc hành trình. Xe gần tới Muttra, sự vui mừng của nó lộ ra . . . Nó nói rằng: Giờ chúng ta tới (nghĩa là 11 giờ sớm mai) thì tôn miếu Vishrant Gat đã đóng cửa. Những tiếng nói của nó nói là: “Mandir ko pat band ho jayenge” thường dùng ở Muttra. Khi chúng tôi gần tới ga thì cô bé bỗng trở lại nghiêm nghị dường như hoàn cảnh phản động lại nó.

Nó dòm ra cửa sổ xem coi cả thảy một cách rất kỹ lưỡng, khi xe vô nhà ga thì cô la lên: “Muttra Agai ! Muttra Agai ! (Tới Mutra rồi ! Tới Muttra rồi). Dường như người ta hay chúng tôi tới Muttra cho nên có nhiều người và cả những thân hào tại đó, tới chực ở bến xe. Nhưng mà những lối đi chúng tôi đã vạch sẵn rồi. Chúng tôi khuyên những người trong bọn họ đứng dang ra xa chúng tôi đặng để chúng tôi đi với cô bé. Thiên hạ nghe theo lời yêu cầu của chúng tôi cũng làm in như vậy, để chúng tôi đi thong thả. Và nên nhìn nhận rằng về phương diện đó người ta vẫn giúp sức chúng tôi.

Chuyện lạ lùng

Khi tới Muttra rồi, việc thình lình làm cho chúng tôi chủ ý tới, xảy ra tại bến xe.

Ông L. Deshbandhu bồng cô bé. Ông đi chưa được 15 bước bỗng có một người trộng tuổi ăn mặc theo cách riêng biệt ở thành thị, chen lộn với đám đông tới đứng trước mặt cô bé. Người ta hỏi cô bé biết ông đó không ?

Cô bé chưa gặp ông lần nào nhưng khi thấy ổng nó liền tuột xuống cúi hôn chơn ông đó một cách kính cẩn rồi đứng dựa một bên. Người ta hỏi ông đó là ai, thì cô bé kê miệng vô lổ tai ông Lala Deshbandhu nói nhỏ rằng: ấy là “Jeth” của cô. Jeth là anh cả của người chồng cổ. Việc đó thình lình làm cho ai nấy đều ngạc nhiên vì ông đó quả thật là anh cả của chồng cổ tên “Babu Kam Chaubey”.

Khi ra khỏi bến xe, chúng tôi lựa riêng một cỗ xe, không dùng những xe của mấy người đánh xe đem mời chúng tôi. Cô bé ngồi băng trước, và xe chúng tôi dẫn đầu mấy xe kia. Chúng tôi đã đủ cách đề phòng không cho những người đi bộ chỉ đường. Chúng tôi căn dặn người đánh xe đi theo đường của cô bé chỉ, không cần phải biết chúng tôi đi đâu. Cô bé dẫn chúng tôi đi ngang qua Holi Gate không khó khăn chút nào. Cô bé dùng chỗ đó như chỗ nhắm để từ bến xe vô nhà cô. Chúng tôi có hỏi tên nhiều nhà và nhiều con đường: cô bé đều trả lời trúng hết. Thí dụ cô nói: hồi cô còn sanh tiền đường nhà ga chưa tráng nhựa, cô chỉ nhiều dãy nhà mới và nói: Hồi đó chưa cất. Cô tả Holi Gate một cách đúng đắn trước khi chúng tôi tới đó. Cô bé cứ chỉ đường cho tới khi chúng tôi tới đầu một con đường đầy những tiệm tạp hóa. Cô bảo xe ngừng và chỉ một con đường đặc biệt dắt vô nhà cũ của cô. Để xe đó, chúng tôi xuống đi bộ theo cô Shanti.

Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên một lần nữa khi cô bé thấy một ông già 75 tuổi, cô cúi đầu chào rất lễ phép, hôn chơn ông và nói ấy là cha chồng cô.

Cô bé chỉ nhà

Cử chỉ tự nhiên của cô làm cho nhiều người đi coi lấy làm cảm động lắm. Cách xa đó một chút cô bé chỉ nhà của cô dẩu rằng bây giờ nó không phải sơn màu vàng và dãy nhà đó người khác đã mướn. Người ta đem cổ vô, có hai vị thân hào ở tại Muttra chú ý tới sự điều tra của chúng tôi nên đi theo chúng tôi. Cô bé mới chỉ cái phòng của cô thường ở. Muốn thử cổ, một vị thân hào mới hỏi cổ có thế chỉ cái “Jai Zarur” của cái nhà không ? Đối với dân chúng tại Delhi, tiếng Jai Zarur là tiếng hê brơ (hébreu) nghĩa là cầu tiêu.

Các người có mặt tại đó đều lấy làm ngạc nhiên khi cô bé nghe hỏi, không suy nghĩ xuống thang lầu chỉ cầu tiêu cho vị thân hào coi, dường như trong nhà chỗ nào cô cũng biết cả.

Muốn tránh công chúng và muốn được đeo đuổi cuộc điều tra của chúng tôi trong bầu không khí yên lặng. Chúng tôi mới dắt cô bé lại một Dharamshala. Tại đó cổ nhìn được người em của cô năm nay đã 25 tuổi và một người cậu bà con suôi gia. Một việc làm cho chúng tôi chú ý một cách đặc biệt là cô bé ở Muttra coi rất thơ thới. Thấy chúng tôi ăn chẫm rãi, cô bé mới nhắc cô phải đi tới một cái nhà khác, chỗ cổ đã giấu tiền. Chúng tôi mới dắt cổ qua một con đường hẻo lánh đặng tránh sự tọc mạch của dân chúng.

Dọc đường chỉ là cổ dẫn chúng tôi và cổ nhìn được cái nhà của cô một cách dễ dàng. Cổ nói, cổ đã ở trong nhà đó hơn nửa đời người, mà nhà đó hiện giờ gia quyến của Pandit Kedar Nath còn ở đó nữa.

Những tấn tuồng diễn ra sau khi chúng tôi vô nhà nầy phá tan hết thảy các mối hoài nghi về sự chơn thật của câu chuyện nầy. Cô bé vô nhà nầy cũng như lúc cổ còn làm chủ. Pandit Neki Ram biểu cô nói cái giếng mà cổ nói hôm cổ ở Delhi cho ông coi.

Cô bé chạy ra cái sân nhỏ ở trong nhà nhưng cổ lính quýnh khi không thấy cái giếng ở đâu, song cổ chắc ý lắm, cổ lấy tay chỉ vào một góc sân và nói: “Kuan Yiham tha” (cái giếng ở đó). Chừng Kedar Nath Chaubey lấy cục đá lấp ở miệng bày cái giếng ra, thì cổ tỏ dấu hân hoan vì người ta đã bít miệng giếng mấy năm rồi.

Khi người ta hỏi tiền chôn ở đâu thì cổ bảo chúng tôi theo cổ lên từng lầu trên. Điều đó lạ thật vì không có ai tưởng tượng rằng của đem chôn ở trên lầu được. Nhưng cổ quả quyết lắm, cổ dắt chúng tôi lại phòng cửa sổ, phòng nầy bây giờ khóa chặt. Người ta xin Chaubey mở ra. Nhưng phải chờ đi lấy chìa khóa. Cô bé nóng nảy dòm vô kẽ vách nói rằng phòng đó của cổ và tiền ở trỏng. Khi vô phòng rồi cô bé dòm quanh một vòng rồi lấy chơn để trên một góc mà nói: “Tiền ở đây”. Chaubey Kedar Nath ngần ngại một chập, chúng tôi không hiểu vì lẽ nào, nhưng phải chìu lòng cô bé. Người ta đào chỗ đó lên lối 3 tấc thì gặp một ga la (galla) (một chỗ theo tục đời xưa để giấu một vật quí) nhưng không có tiền, cô bé không chịu số tiền đó mất, cổ tự bươi đống đất lên, trong vài phút nhưng thất vọng khi không thấy chi cả. Cô cứ nói: “Tiền tôi để đó”. Về sau, chúng tôi hay rằng Kedar Chaubey đào lấy số tiền đó khi cô từ trần (kiếp trước).

Khi chúng tôi định từ giả nhà đó đặng đi lại rạch Jumna thì cô bé vụt nói quần áo của cổ bận đi tắm để ở trong phòng dưới đất. Cô rất buồn bực mà ra khỏi nhà xưa.

Nhưng còn một chuyện làm chúng tôi ngạc nhiên hơn nữa

Hồi ở Delhi cô không nhớ cha mẹ cô kiếp trước. Chừng chúng tôi dắt lại nhà cha mẹ cũ của cô ở một con đường gần Muttra, thì cô nhìn được nhà và vô nhận được cha mẹ cô, cô đứng chung trong đám đông năm chục người. Cô ôm cha mẹ cô, còn ổng bả thấy cô bé thì khóc than thảm thiết.

Còn chúng tôi, mỗi người đều tưởng rằng: quên chuyện kiếp trước là một hạnh phúc rất lớn. Chúng tôi thú thật, chúng tôi mang một trách nhiệm nặng nề khi cô bé về Muttra. Chúng tôi phải bắt cô bé lìa cha mẹ cổ (cha mẹ kiếp trước) và chúng tôi bỏ chốn đó đi liền không tìm kiếm thêm những bằng cớ khác nữa. Cô bé lên xe đi lại tôn miếu Dwarkadisk. Khi cô thấy tôn miếu thì cô reo lên những tiếng vui mừng. Cổ quì trước cửa như kính cẩn tôn trọng một vị thần thánh nào. Chuyện chót mà cô bé đã nhìn biết tại Muttra là Vishrant Ghat trên con rạch linh thiêng Jumna. Cổ nói hồi kiếp trước, cổ thường tắm ở nơi đó. Khi tới Ghat cổ năn nỉ xin múc nước rạch cho cổ uống rồi tự nhiên cổ thấy bông ở trong tràng hoa của cổ mang đem cúng. Cô muốn ở lại chốn đó lâu một chút nhưng không thế được.

Lối mười ngàn người hội họp lại trong miếng đất của một trường trung đẳng tại chỗ đó, trong đám ấy có mặt những người đã chứng kiến cuộc điều tra của chúng tôi. Chúng tôi mới thuật lại những điều đã xảy ra mà chúng tôi đã thấy với cô bé. Dân chúng Muttra ngỏ ý muốn cho cô bé ở lại vài ngày nữa, nhưng chúng tôi không thế làm vừa lòng họ vì những lẽ đương nhiên mà chúng tôi mới kể ra trên đây.

Chiều lại, lúc trở về Delhi, cô bé mỏi mệt nằm ngủ, không nói chi hết, đáng lẽ người ta phải để cô bé ở lâu hơn nữa tại Muttra.

Phỏng dịch tờ phúc trình của hội Liên Minh quốc tế da trắng ở Delhi.

(Rapport de la ligue internationale Aryene de Delhi)


===============================================

Một chuyện nhớ lại những kiếp trước rất lạ lùng

Từ sáu tháng nay, tại Turin (một thành ở nước Ý) những y sĩ chữa bịnh thần kinh, những nhà sử học, những nhà khảo cổ, những nhà chuyên môn về khoa khuyết sử thời đại tự hỏi: Có phải các ngài bị một tên đại bợm phờ phĩnh hay là đứng trước một hiện tượng mà vì trình độ hiện thời, khoa học không cắt nghĩa được.

Ấy là trường hợp của một người tên Lanfranco Davito. Va nhớ lại đã sống sáu lần trong những thế kỷ đã qua. Về mỗi kiếp luân hồi va cho những chi tiết và những sự đích thật đem so sánh với sự hiểu biết của những nhà chuyên môn về mấy thời đại đó thì giống hệt nhau.

(Davito, lính cảnh sát số 556 tại Turin). Người ta dựng lên hai thuyết:

a) Hoặc là tên lính số 556 là một người có tánh đùa cợt phi thường, học hỏi uyên thâm về các khoa: khuyết sử thời đại, sơ sử thời đại và cổ đại sử, một ông Pic de la Mirandole [12], vì mua vui nên mang áo cảnh sát thành phố.

b) Hoặc là hội bác sĩ đứng trước trường hợp của một người đã sống nhiều lần trên quả địa cầu chúng ta và nhớ lại rõ ràng những kiếp trước của va.

Trước hết Lanfranco Davito là ai ?

Đối với mấy ông chủ va và những bạn đồng nghiệp của va thì Lanfranco Davito là tên lính số 556, chớ không có ai khác hơn nữa. Va ở một căn phố nhỏ số 240 đường Via Fossata, nhà không có tủ sách, sống một cách yên ổn, vợ tên Lina. Và làm việc bổn phận đúng đắn, không có ai trách va về sự ngông cuồng lần nào cả.

Đối với các vị Bác sĩ chữa bịnh thần kinh thì Lanfranco là một người tầm thường, không có bịnh hoạn, không có thói dị kỳ, ăn nói thật thà chất phác, tỏ dấu là một người bực trung. Còn đối với những vị học thức uyên thâm thì va là một người chứng kiến lạ lùng đời tối cổ, hồi các đô thị xây trên mặt hồ (cité lacuste) hoặc từng sống hồi đời vua Sennachérilbe[13]. Những giai đoạn mà va thuật về cách sanh hoạt của xã hội trải qua trong các thời kỳ liên tiếp của lịch sử, không những phù hợp với những điều mà các nhà bác sĩ đã biết mà lại còn chứa đầy những sự đích thật, mấy việc nầy không thể nào bịa đặt ra được, nói rằng va tưởng tượng ra là vô lý hết sức.

Mà làm sao Lanfranco nhớ lại cái quá khứ quái dị ấy ? Theo va thì việc đó đã xảy ra dễ ợt. Một ngày kia trong năm 1939 va đi qua quãng trường Carducci tại Turin (Place de Carducci) bỗng va gặp một người sắc nâu lợt mà gương mặt không phải lạ với va. Va gặp y hồi nào ? Va tìm kiếm trong trí nhớ thì bỗng một tia sáng hiện ra trong não va. Va thấy một cảnh tượng phi thường, lúc ban đầu làm cho va tự hoài nghi mình không được tỉnh trí. Va thấy rằng người sắc nâu lợt cầm một cái chày vồ đập vào đầu va một cái hết sức mạnh. Thất sắc, mồ hôi trán nhỏ giọt. Lanfranco tên lính số 556 hồi tưởng lại hồi sáu ngàn năm trước, tấn bi kịch đã diễn ra sau khi đó va bỏ mình lần thứ nhứt. Một dọc hình từ chỗ tối tăm trong ký ức của va vụt hiện ra rõ ràng dường như anh chàng sắc nâu mà va gặp tại quãng trường Carducci đã phanh phui ra một cách bí mật, làm cho va phải hãi hùng.

Vốn tánh thực thà, Lanfranco phải chống chỏi với cơn ác mộng của va lâu lắm; va không dám tỏ nỗi niềm tâm sự cho ai biết. Nhưng mà những hình ảnh hiện ra càng ngày càng rõ ràng, càng chắc chắn và càng đầy đủ. Trước hết va thấy va sống ở bờ hồ trong một cái chòi, va câu cá và chiến đấu với bọn khỉ. Nhưng kiếp đó va bị một người lạ, không phải ở một bộ lạc với va, tức là chàng sắc nâu mà va mới gặp đó, liểu kết bằng một cú chày vồ.

Kiếp kế đó va thấy va sống hồi đời vua Sennachérilbe. Va chịu gian nan, khổ cực trên mấy con đường ở Chaldée và va có ra trận mạc ở Judée nữa. Qua kiếp thứ tư va đầu thai ở Tiểu Á Tế Á (Asie mineure) vân vân …

Được cái kỹ năng lạ lùng nầy, Lanfranco lấy làm sợ sệt, song va vượt qua được tánh nhút nhát tự nhiên của va, va bèn hỏi thăm một bác sĩ chữa bịnh thần kinh về trường hợp của va. Y sĩ bảo va thuật lại đầu đuôi rồi ngài mới mời mấy nhà sử học, những nhà thông thái chuyên môn khảo cứu về cổ tích nước Á-thuật (Assyrie) lại chứng kiến. Mấy vị nầy lại chất vấn Lanfranco cả trăm câu. Lanfranco đều trả lời trúng cho đến đỗi các nhà thông thái đều sững sốt.

Bây giờ đây, Lanfranco tên lính số 556 là một hiện tượng mà các nhà thông thái nhìn với cặp mắt vừa lạ lùng vừa nghi kỵ.

Anh đó là người gì mà đã sống 6 lần rồi ?

Mà Lanfranco trong khi canh gác sự thông thương trên quãng trường nhà ga “La Gare” cũng bâng khuâng mà tự hỏi: Ừ ! Tôi là ai đây ?

Nhưng vợ va, cô Lina kết luận:

Miễn điều đó giúp ở nhà tôi lên chức đội.

Phỏng dịch theo báo La Presse số 202

Ngày 26 septembre 1949
Gửi huynh Ánh Sáng T2 .

Tại hạ lại tìm được một bài nữa viết về tiền kiếp của một nhân vật ở Âu châu do các phóng viên đài truyền hình và truyền thanh đáng tin cậy phổ biến. Xin gửi tới huynh đọc chơi .

thân ái
Hùng Sơn

===============================================

Chuyện Tái Sinh Của Jenny
Tâm Diệu (thuật theo tài liệu của chương trình 20/20 ABC
( American BroadcastingCorporation ) phát hình vào lúc 10 giờ đêm
thứ sáu 10 tháng 6 năm 1994)

Vào mùa xuân năm 1993, một bà mẹ người Anh 40 tuổi đang sinh sống với chồng và hai con ở thành phố Northamptonshire Anh quốc đã đoàn tụ với năm người con của bà ở đời sống trước tại Malahide, một thị trấn nhỏ ở miền bắc nước Aí Nhĩ Lan.

Mùa xuân năm nay 1994, Bob Brown và nhóm phóng viên truyền hình của chương trình 20/20 ABC Hoa Kỳ đã đến tận nơi đây làm phóng sự về sự tái sinh của bà mẹ này cùng hội họp với những người con của kiếp sống trước của bà. Ðây là câu chuyện tái sinh có thực đã xảy ra vào cuối thế kỷ thứ hai mươi này. Một câu chuyện đầy thương tâm và nước mắt, một câu chuyện đi tìm con vượt biên cương và trải dài qua nhiều kiếp người của một bà mẹ.

Bà tên là Jenny và lúc nào cũng biết và nhớ là mình đã có một đời sống ở kiếp trước nơi một ngôi làng nhỏ bên bờ biển xứ Ái Nhĩ Lan với tên là Mary. Mary, một người đàn bà trẻ, tầm vóc trung bình đã từ trần 21 năm trước khi Jenny được sinh ra ở Anh Cát Lợi.

Một trong những giấc mơ và luôn luôn hiển hiện trong trí nhớ của Jenny là giây phút lìa đời của Mary trong nỗi đơn độc đau khổ của mình và lo âu về tương lai đầy bơ vơ của các con bà mà thằng lớn nhất mới có 13 tuổi. Nỗi lo âu và đau khổ này đã ám ảnh bà, đã hiển hiện thường trực trong tâm trí nàng từ lúc còn nhỏ. Nàng nghĩ rằng mình đã có lỗi khi phải từ bỏ các con bơ vơ nơi cõi trần và nàng quyết định phải đi tìm con cho bằng được.

Ngay từ lúc còn rất nhỏ, khi mới bắt đầu cầm được viết, Jenny đã vẽ bản đồ làng với những con đường dẫn đến một căn nhà mái tranh nơi Mary ở, đến nhà thờ, ga xe lửa, các cửa hàng bách hóa... và sau này so sánh với bản đồ Ái Nhĩ Lan ở trường học, Jenny đã khám phá ra rằng bản đồ mà nàng đã vẽ từ trong trí nhớ, và trong những giấc mơ tiền kiếp đã thật giống với bản đồ một làng nhỏ nằm ở phía bắc thành phố Dublin Ái Nhĩ Lan, có tên gọi là Malahide.

Theo năm tháng, Jenny lớn dần cùng với hình ảnh căn nhà mái tranh, với từng căn phòng, góc bếp, với hình ảnh nhà thờ quán chợ nơi thị trấn hiền hòa Malahide. Trong tâm tưởng, nàng vẫn cảm thấy có lỗi với các con khi bỏ chúng lại bơ vơ nơi cõi trần nên nàng quyết định đi tìm con.

Jenny sắp đặt kế hoạch nhưng lại không đủ khả năng tài chánh cho chuyến đi qua xứ Ái Nhĩ Lan nên đành hoãn lại và tình nguyện làm một người thôi miên cho một thôi miên gia chuyên môn tìm hiểu quá khứ. Ông này đã giúp Jenny nhớ lại thật nhiều hình ảnh chi tiết của Mary và ngôi làng của cô ở vào năm 1919, cách thức ăn mặc, đi đứng nằm ngồi và nấu nướng của Mary hồi ấy. Qua thôi miên Jenny đã mô tả chi tiết căn nhà, từng bức hình treo trên tường, kể cả một tấm hình của Mary. Jenny cũng mô tả và vẽ ra hình nhà thờ. Tuy nhiên có một điều thất vọng là Jenny vẫn chưa nhớ ra được tên họ tức last name của Mary là gì, điều này đã gây ra rất nhiều trở ngại cho việc kiếm tìm các con của nàng sau này.
Cuối cùng Jenny đã để dành đủ tiền để thực hiện một chuyến du hành qua Ái Nhĩ Lan đi tìm những dấu tích của căn nhà mái tranh, của những con đường xưa lối cũ. Ðến nơi đó, nàng đã đứng lặng trước một căn nhà mà bên kia là ngã ba đường dẫn về thành phố. Nàng thấy sao hình ảnh này quen thuộc quá, giống như trong trí tưởng, giống như bản đồ nàng đã vẽ. Nàng nhủ thầm rằng Malahide đây chính là chìa khóa mở cửa vén lên bức màn về sự thật của kiếp sống trước của nàng, là bước chân khởi đầu trên con đường tìm con.

Sau chuyến đi, Jenny trở về Anh quốc và bắt đầu thực hiện kế hoạch tìm con. Nàng viết thư cho tất cả các báo ở Ái Nhĩ Lan, các tổ chức sử học, các văn phòng hộ tịch, các chủ phố, và dân làng Malahide để yêu cầu giúp đỡ về tin tức của một người đàn bà tên Mary chết vào năm 1930 cùng với những người con của bà này.

Một thời gian lâu sau đó, Jenny nhận được thư của một chủ đất ở Malahide cho biết ở đó có một gia đình mà người mẹ tên là Mary đã chết sau một thời gian ngắn khi sanh đe,� để lại sáu đứa con còn sống. Last name của người đàn bà bất hạnh đó là Sutton và sau khi bà Sutton qua đời, các đứa con đã được gửi vào các cô nhi viện.

Ðúng như trong trí tưởng và trong các giấc mơ về nỗi lo âu của Mary khi lìa đời, các con của bà đã thực sự bơ vơ đi vào các trại mồ côi. Jenny cảm thấy nỗi đau khổ trùng trùng. Nàng biên thư cho tất cả các viện mồ côi ở Ái Nhĩ Lan để dò hỏi tin tức và sung sướng thay, Jenny được tin tức từ một vị giáo sĩ ở một nhà thờ thành phố Dublin. Sau khi thư từ qua lại với các sở họ đạo và cả với bộ giáo dục Ái Nhĩ Lan, vị giáo sĩ này cho tên của tất cả sáu người con của bà và nói rằng sáu đứa trẻ này đã trở thành Ki Tô hữu tại nhà thờ Thiên Chúa Giáo Saint Syvester ở Malahide. Lá thư của vị giáo sĩ không dài lắm nhưng đã mang lại niềm tin và hy vọng lớn lao cho Jenny.

Sau đó, qua niên giám điện thoại Jenny đã gửi thư đến tất cả những ai mang họ Sutton tại Aí Nhĩ Lan. Nàng cũng nhận được một bản sao giấy khai tử của Mary và hai bản sao giấy khai sinh của hai người con, nhưng vẫn không tìm ra tung tích. Một lần nữa Jenny lại gửi thư cho tất cả các báo ở Dublin và thư cho giáo sư Tiến sĩ Stevenson một chuyên gia nghiên cứu về các hiện tượng ở đời sống quá khứ để nhờ giúp đỡ. Stevenson giới thiệu Jenny với Gitti Coast một nhà nghiên cứu thuộc cơ quan truyền thông Anh quốc BBC.

Một thời gian khá lâu sau đó, Jenny nhận được điện thoại từ người con thứ hai ở Ái Nhĩ Lan. Cuộc nói chuyện hết sức khó khăn với nhiều tình cảm lẫn lộn nhưng nói chung có những dấu hiệu tốt đẹp. Jenny hứa sẽ gửi toàn bộ hồ sơ lưu trữ từ nhiều năm qua. Tư tưởng của nàng lúc này cũng lộn xộn. Mặc dầu biết là các con của Mary bây giờ đều đã ở vào lứa tuổi 50 và 60 nhưng Jenny vẫn có cảm giác mạnh mẽ về tình mẫu tử đối với các con của nàng, vẫn có cảm giác mạnh là mẹ của họ.

Mary và các con của nàng hay là các con của Jenny ở kiếp sống trước đang dần dần trở nên một thực thể, tâm tư của nàng bây giờ thật xáo trộn: Nàng thuộc về đâu? thuộc về đời sống hiện tại hay thuộc về đời sống quá khứ với các con nàng tìm ra? Có lẽ không trông mong một điều gì là tốt hơn cả. Nàng nhủ thầm như vậy và hãy để thời gian trả lời.
Jenny đang bước vào giai đoạn cuối cùng của công cuộc tìm kiếm, nàng thông báo đầy đủ diễn tiến mới cho Gitti Coast của đài BBC. Ðài BBC muốn dự án tìm con của Jenny trở thành một tài liệu sống của sở nghiên cứu của đài nên đã thương lượng với Jenny. Phần Jenny, nàng chỉ yêu cầu có một điều duy nhất là đặt sự phúc lợi và niềm an bình hạnh phúc của gia đình lên trên hết.

Chờ mãi không thấy sự hồi âm của đứa con thứ hai mà Jenny đã nói chuyện qua điện thoại. Nàng quyết định liên lạc với Sonny, hiện đang ở thành phố Leeds Anh quốc. Sonny là người con đầu của Mary Sutton, khi Mary qua đời cậu mới 13 tuổi và bây giờ vào ngày thứ ba 15 tháng 5 năm 1990 Sonny đã 71 tuổi. Qua cuộc điện đàm Jenny mô tả cho Sonny biết về quá khứ của cậu, về hình ảnh căn nhà mái tranh, về tính nết của cậu, về những lời nói hay câu mắng của Mary với cậu hồi đó. Ði từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và khó có thể ngờ được người đầu dây bên kia lại chính là mẹ mình. Sonny ngỏ ý muốn được gặp Jenny ngay.

Như đã thỏa hiệp với đài BBC, Jenny thông báo những biến chuyển mới. Ðài BBC muốn phỏng vấn Sonny trước và trong thời gian này hai người không được liên lạc với nhau. Họ muốn nghiên cứu tường tận về Sonny rồi phân tích và so sánh với những dữ kiện mà họ đã có về Jenny. Cũng trong thời gian này họ đã phỏng vấn thêm Jenny về những điểm chưa sáng tỏ.

Cuộc điều tra của đài BBC kéo dài 4 tháng và cuối cùng Jenny đã đích thân lái xe đưa cả gia đình của nàng đến thành phố Leeds hội ngộ cùng Sonny. Cuộc đoàn tụ đã diễn ra thật cảm động; Giấc mơ đi tìm con của Jenny đã trở thành sự thực, hai mẹ con, mẹ trẻ con già đã ôm nhau với những giòng nước mắt tuôn trào. Sonny cũng như Jenny đều đã nhận được bảng phân tích và so sánh dữ kiện của đài BBC trước đó. Các chuyên gia đài BBC đều không thể ngờ được một khái niệm về trí tưởng lại có thể đúng một cách chính xác với thực tế như vậy. Họ cũng không ngờ rằng có một đời sống sau khi chết đang hiển hiện rõ ràng.

Với sự giúp đỡ của Sonny, công cuộc kiếm tìm các con của Mary được tiếp tục suốt những năm tháng dài sau đó và cuối cùng vào năm 1993 Jenny đã hội ngộ đoàn tụ với tất cả 5 người con còn sống. Hơn 60 năm từ khi mẹ chúng qua đời anh em mới được đoàn tụ với nhau và đặc biệt hơn cả là đoàn tụ với người mẹ trẻ đã tái sinh ra trong kiếp này để đi tìm chúng.

Năm nay 1994 Bob Brown và nhóm phóng viên truyền hình chương trình 20/20 ABC Hoa Kỳ đã một lần nữa mang Jenny và 5 người con trở về thị trấn Malahide đoàn tụ với nhau nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 75 của Sonny. Trong dịp này Jenny đã được cậu con cả, nay đã 75 tuổi dẫn đến thăm mộ phần của nàng kiếp trước. Nàng đã nói trước ống kính thu hình và trước phần mộ nàng rằng: "mộ phần này không có gì cả, không có ai ở đây bây giờ. Có thể còn trong đó là những nắm xương khô. Thực sự không có gì cả, phần năng lực tinh thần hiện đang ở trong tôi."
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:25 am

Quả vậy, kiếp sống con người trùng trùng duyên khởi, không có bắt đầu và cũng không có kết thúc. Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác. Trong giòng đời vô tận ấy, chúng ta đã liên hệ với biết bao nhiêu người, giầu nghèo sang hèn xấu đẹp và biết đâu họ chẳng là cha mẹ, là ông bà, là anh em, là những người thân của của chúng ta và ngày nay nhờ có những máy điện toán tối tân, các nhà toán học và nhân chủng học đã cho chúng ta biết rằng mỗi chúng ta có tới 68 tỷ cha mẹ ông bà từ quá khứ đến hiện tại và tất cả nhân loại đều là anh em họ hàng của chúng ta. Nhận được sự liên hệ ấy, chúng ta cảm thấy dễ thương, dễ hiền hòa và dễ tha thứ trong sự giao thiệp hàng ngày với mọi người.


Tâm Diệu (thuật theo tài liệu của chương trình 20/20 ABC ( American BroadcastingCorporation ) phát hình vào lúc 10 giờ đêm thứ sáu 10 tháng 6 năm 1994
Đây là một bức tranh vẽ Bánh Xe Luân Hồi của Mật Tông Tây Tạng



"Người nào thuộc về hạng trí thức thấp kém không thể bình phẩm được một biện pháp hợp lẽ về toán học.
Người mà kém về phần đạo đức thì không thể nào thấy được sức mạnh vô cùng của một lý tưởng cao siêu."

( trích "Luật Luân Hồi" )

Hùng Sơn
Gửi: Thứ Năm 23/11/2006 1:28 AM Tiêu đề:






BÁNH XE LUÂN HỒI


Đồng hồ như bánh xe quay

đời người như gió heo may vô thường

đảo điên một kiếp vấn vương

ôm tròn gối mộng vui-thương-giận-hờn !


đủ chưa duyên nợ ba sinh

luận bàn, bàn luận cũng tình thế nhân

trời cao đầt rộng xoay vần

mở con mắt tục thấy gần hay xa !

ha ha ha

Hùng Sơn
Chào Huynh Hùng Sơn ,

Hoan hô sự sưu tập những tài liệu về Luân Hồi của Huynh cho mọi người cùng tham khảo ; để đáp lại tấm thạnh tình của Huynh , Ngu Đệ có viết một bài tham luận dưới đây với một dạng KHOA HỌC GIÃ TƯỞNG TÂM LINH CON NGƯỜI ; hy vọng xuyên qua đó , những thắc mắc của Huynh cùng những vấn nạn trong các bài sưu tập về Luân Hồi sẽ được soi sáng thêm phần nào .
Ngu Đệ xin kính mời Huynh cùng quý Thầy và các bạn hảy nâng chén trà nạm sen lên nhâm nhi , mà nghe đệ ca sáu câu vọng cổ nhé :

KHOA HỌC GIÃ TƯỞNG TÂM LINH CON NGƯỜI


Đầu tiên là kính xin Huynh cùng quý Thầy và các bạn xem lướt qua hai đồ hình sau đây :
ĐỒ HÌNH 1

NHỮNG CẤU TRÚC TÂM LINH SIÊU HÌNH CỦA CON NGƯỜI .




A và B : Là những thể vi tế của Vô Thức hay Linh Hồn và vô thức hay linh hồn được cấu tạo bởi hai thần thức âm - và dương + thượng đẳng của con người .

C : Tất cả Vô Thức , hay linh hồn của con người hay nhân loại đều có sự liên lạc và liên hệ với nhau theo một mô dạng và một công thức đặc biệt . Trong trường hợp bình thường thì nó ở trạng thái độc lập và riêng biệt ở mổi người ; bởi lẻ người thường không hiểu rỏ cơ chế của linh hồn một cách rỏ ràng ,mà chỉ có thể đoán mơ hồ về sự tồn tại của nó .

D : Con đường gạch đứt đi từ giữa ngực lên đến Âm Dương Thần Thức + - ở trên đầu là con đường siêu thức ANTASKARANA là con đường ánh sáng , nối liền ý thức con người với linh hồn hay vô thức bên trên . Con đường nầy sẻ tải những trường lực hình tư tưởng của người cầu nguyện đi lên linh hồn hay vô thức , và nhờ con đường nầy mà những nguồn cảm hứng hay những thông tin bên trên được mang xuống cho ý thức . Con đường ánh sáng siêu thức ANTASKARANA nầy bị bít , nghẹt và không được khai thông ở đa số người thường ; nhưng nó lại được khai thông ở những vị tu tập đắc đạo , những nhà ngoại cảm cao cấp và một số ít con người mà nảo bộ đã được cấu trúc ở những dạng đặc biệt và đã trang bị sẳn sàng con đường thông lộ nầy cho họ .

E : Hào quang chung quanh đầu con người là tượng trưng cho ý thức và tiềm thức hòa lẩn vào nhau .

F : Là con đường nối tiếp tiềm thức và ý thức của con người , nó thường gởi đến và đi các hình tư tưởng của những tư duy , trí nhớ và những ấn tượng thu nhận của ngũ quan vật chất của con người .

G : Những lằn gạch chung quanh cơ thể là đại biểu cho tiềm thức hay thể vía của con người , nó bao gồm tất cả ấn bản sao tinh hoa của tất cả tế bào vật chất của cơ thể .

H : Cơ thể vật chất là nơi trú ngụ của hai thể thấp là ý thức và tiềm thức của con người được sinh tồn tại cỏi vật chất .

I : Hình quả trứng hay oval bao quanh con người là trường từ lực hay thể phách của con người .

L : Có nhiều con đường vô hình nối liền con người với vật hay người khác khi liên lạc ; như đường chỉ nối liền người nầy với người kia là K , thỉnh thoảng con đường nầy bị ngăn chận bởi một vật khác như khúc gổ J trong hình ; đi theo dọc con đường L , là con đường tải những sinh lực và hình tư tưởng của người dùng thần giao cách cảm hay đọc tư tưởng của người khác .

ĐỒ HÌNH THỨ 2

CƠ CHẾ CỦA THẦN GIAO CÁCH CẢM VÀ CẦU NGUYỆN TÂM LINH .



A .- Là cơ thể vật chất .

B .- Là thể vía của con người .

C .- Hình chùm nho ở thể vía là phần hạ thể của con người hay là tiềm thức ; nó sẻ rời cơ thể khi con người chết .

D .- Con đường vợn sóng dưới chùm nho là đại diện cho sinh lực khí của con người , dùng cho thể vía , và là một bình dự trử điện , dự trử sinh lực khí cho con nggười , nó tủa ra mọi nơi và là đường dây liên lạc cho mọi vật , khi con người tiếp xúc đến những vật nầy .

E.- Sợi dây nối liền từ rún cơ thể vật chất và thể vía là kim quang tuyến hay là sợi chỉ bạc , nó nối liền thể xác và thể vía của con người , khi thể vía và ý thức rời cơ thể trong lúc ngũ , nhập định hay trong khi xuất vía ;đường răng cưa nằm trong ống là sự lưu thông của sinh lực khí trong đó .

F.- Vòng tròn hào quang chung quanh đầu tiêu biểu cho ý thức của con người .

G.- Là đường dây nối tiếp của sự truyền sinh lực và hình tư tưởng của người dùng thần giao cách cảm hay để trị bệnh hay đọc tư tưởng của người khác ở xa .

H .- Là đường dây truyền dẩn hai chiều từ người nầy qua người khác , nó mang những thông tin của hình tư tưởng và sinh lực khí . Những vòng tròn nhỏ trên đường dây nầy tiêu biểu cho những chỉnh thể tâm linh hoàn chỉnh , được cấu thành do nhiều tinh hoa của nhiều hình tư tưởng khác nhau bao gồm những tín hiệu mả số của các cơ quan cảm quan của con người như nghe , thấy ,nếm , ngưởi v..v...Nói cách khác nó là ngũ quan tâm linh dùng cho thể vía hay thần thức để nghe ,thấy , ngưởi v..v... ở cỏi không gian nhiều chiều đo .

I . – Là hiệu số điện thế thấp của sinh lực khí chạy trong con đường vận hà ánh sáng ANTASKARANA , mang hình tư tưởng của người cầu nguyện lên linh hồn , và nó giúp linh hồn có năng lượng để tạo những sự kỳ diệu hay những giải đáp toàn hảo xuống cho người cầu nguyện hay sự trị liệu nào đó .

J .- Ba vạch vợn sóng là tiêu biểu cho hiệu số điện thế cao của sinh lực khí , chạy từ linh hồn xuống dưới đến các thể thấp , như trí , vía , phách và cơ thể vật chất . Hiệu số điện thế cao ( có khả năng phá vở những cấu trúc vật chất của nguyên tử ) của sinh lực khí nầy có thể thay đổi tức khắc những tế bào của cơ thể để trị liệu lành bệnh . Hoặc nó có thể tạo ra những hiện tượng vật lý đặc biệt trên cỏi vật chất .

K .- Tiêu biểu cho Vô Thức hay linh hồn của con người .

L .- Con mắt nằm trên đường dây nối liền thể vía và linh hồn , là con mắt tâm linh mà con người dùng để đọc những thông tinh đã sẳn có trong vô thức hay linh hồn , cũng như ngũ quan tâm linh khác , mà con người đắc đạo có thể dùng được để đọc những thông tin ở những cỏi cao hơn .

M .- Hai đường vợn sóng nằm trong hào quang thể trí của ý thức là tiêu biểu cho hiệu số điện thế trung cấp của sinh lực khí dùng cho ý thức để tư duy hay ý chí .

NHỮNG PHẠM TRÙ TÂM LINH CON NGƯỜI :

Tôi có thể có những sự nghi ngờ , nhờ đó tôi biết là tôi .

Nhờ vào sự nghi ngờ , tôi suy nghỉ tìm tòi , từ đó tôi suy tư và tôi ý thức được TÔI .

Tôi : là Thức Thần .- Ý thức .
TÔI : là Nguyên Thần – Bản lai diện mục .

Descartes saying : I am able to have doubts , therefore I am .

Phân biệt giữa Ý Thức và Ý thức về Ý Thức

Ý Thức : là Thức Thần –Âm Thần .
Ý Thức về Ý Thức : Là Nguyên Thần – Dương Thần .

Distinguish between

CONSCIOUSNESS and CONSCIOUSNESS ABOUT CONSCIOUSNESS .

Ý Thức không phải là một vật sở hửu khác thường của cấu trúc thuộc về sinh vật và ý thức không phải là lý thuyết về Lượng Tử Học ; Nhưng những cấu trúc của sinh học có thể làm vận hành ý thức và lý thuyết về Lượng Tử Học , thực sự là sản phẩm do Ý thức của chúng ta làm ra .

Consciousness is not a strange property of biological structures and consciousness is not quantum theory , but biological structures enable the function of consciousness and quantum theory is a certainly a product of our conciousness .

Trường sinh thái : Morphogenetics fields . ( Scientist Rupert Sheldrake ) .
Là một mẩu dạng có một trật tự cấu trúc của những đặc tính bên trong của một sinh mô kể , cả nảo bộ con người ; trường nầy được tạo nên bởi một tiến trình cộng hưởng hình thái - Morphic resonance – của những chủng loại trong quá khứ và nó biểu hiện như một ký ức tập thể thuộc chủng loại của nó . Các loại sinh vật có thể bắt liên lạc với nó – tune in – xuyên qua nó để có được những thông in về hình thái và kinh nghiệm của chủng loại của mình ; Vật chất di truyền từ trong DNA của những Genes , có thể tạo ảnh hưởng lên hệ thống bắt sóng nầy , nhưng những mẩu dạng và bản năng sinh thái nầy không có nằm trong sự thừa hưởng di truyền của DNA ; cũng giống như những hình ảnh ghi nhận được trong màn ảnh tv , không có nghĩa là chúng có sẳn trong những dây điện và transitor của tv ; đương nhiên là mạch điện của tv cần phải bắt đúng , nhưng những hình ảnh là do sự bắt sóng từ bên ngoài tv . Giống như thế , bộ nảo con người giống như một hệ thống bắt sóng phức tạp , nó thể rà bắt được những làn sóng của quá khứ cũng như chung quanh qua sự cộng hưởng của trường sinh thái nầy – Như vậy , bộ nảo của con người có thể rà các làn sóng để bắt được ký ức của mình và ký ức của những người khác qua sự cộng hưởng của trường sinh thái vũ trụ nầy , trương tự như lý thuyết về Ký Ức Tập Thể – Collective Unconscious - của Nhà Tâm Lý Học C.G.JungMorphogenetics fields .

Hạ thể : Lower self – Astral body – Sub-conscious -Là thể vía hay tiềm thức . Nó có sự liên lạc với dương thần , ký ức của dương thần và linh hồn hay vô thức của con người .

Trung thể : Midle self - Conscious - Là ý thức trong cỏi hạ trí , được sự hướng dẩn của thần thức tâm linh hay là dương thần - Spirit . Ý thức còn là Thần giữ cửa Gate keeper – Filter của thể xác ở hai cỏi vật chất và cỏi vía .

Thượng thể : Higher self – Nó gồm hai phần âm dương là Spirit – Dương Thần hay Thần thức – Âm Thần hay linh hồn cá nhân hay vô thức . Dương và âm thần là hai mặt của một thể là linh hồn cá nhân nằm trong linh hồn của vũ trụ hay là Ký Ức của vũ trụ hay Tiên thiên ký ảnh –AKASHIC RECORD .

Ba hồn bảy vía :
Ba hồn là Giác hồn ( Thể Trí – Dương thần ) – Hương hồn ( Tinh tú Thể – Tiềm thức )– Sinh hồn ( Thể Phách – Sinh mạng lực ). Bảy vía là : Tham –Sân – Si – Hỷ – Nộ – Ái – Ố .

Ba hồn , bảy phách :
Hồn thuộc Mộc , nằm ở gan , kỳ số là 3 . Phách thuộc Kim nằm ở phổi , kỳ số là 7 . Theo Thần vảng lai gọi là Hồn . Theo Tinh xuất nhập gọi là phách

Thể vía : gồm chỉ hai thể : 1.- là để chỉ lục dục , thất tình của con người . 2.- là chỉ Tinh Tú thể là Astral body , thể ánh sáng .

Nhị Thần : là tên của Dục thần , là thể vía , thuộc phần tình cảm con người , là tính của khí chất , được sinh ra do sự cấu tinh của cha mẹ , thức thần nhập vào khi đứa bé đã sanh ra khỏi bụng mẹ , thức thần là thần của túc mạng ; dục thần là tình dục thể , thấy vật liền sanh tình , thức thần do túc căn mà lại , nên linh hoạt thông minh kỳ hảo , luôn luôn tư duy kim cổ , không lúc nào ngừng . Nên khi luyện đơn , của đạo gia cần trừ đi sự nhiểu loạn của dục thần , sau đó mới thấy được nguyên tinh và nguyên thần , để ngũ khí triều nguyên , tam hoa tụ đỉnh .

Tam Thần :
1.- Nguyên Thần : là Linh Hồn , Vô trí vô thức , A lại da – 2.- Dục Thần : dục thần là tính của khí chất , là tình dục thể , thấy vật liền sanh tình , 3.-Thức Thần : là Ý thức và tiềm thức Đa trí đa thức –

Tứ Thần :
Là Chân Thần : là Dương Thần , Ký ức dương thần , Thượng trí , viên trí , viên thức . Do dùng ba thần kia tu luyện mà thành ra Chân Thần .



Linh hồn cá nhân – Soul - là nơi cư ngụ của trí nhớ và ký ức , là tấm gương phản ảnh tâm trí của mổi người .

Linh hồn là nơi ngụ của ký ức ; nơi đây đã có chứa sẳn và ghi giữ tất cả những dử kiện của chúng ta .
Linh hồn vũ trụ còn có tên khác là vô thức của tập thể COLLECTIVE UNCONSCIOUS hay Ký Ức của Vũ trụ AKASHIC RECORD .

Ý Thức - Conscious là kẻ tư duy – The Thinker , nhưng khi kẻ nầy tư duy thì nó lại đi vào tiềm thức và vô thức để lấy dử kiện và thông tin làm chất liệu cho tư duy của nó .

Tinh thần hay dương thần - Spirit , hay Tâm như một đại diển viên , linh hồn cá nhân –Soul , như môi trường hoạt động của tâm và thể xác vật chất – Body là kết quả của nó .Chúng ta có thể cho Linh hồn cá nhân như một lực mù lòa , vâng theo mệnh lệnh ý chí của tâm thần – dương thần - Spirit , và thể xác là kết quả của tâm thần được thể hiện sự hoạt động của nó xuyên qua khuôn mẩu vật chất .
Con người tự giác ra mình có khả năng tự ý thức và khám phá ra rằng mình đã được trang bị một khả năng tinh thần và trí lực , một thể xác và một môi trường để hoạt động .Từ đó con người khám phá ra những qui luật của thiên nhiên và những qui luật nầy có sự liên hệ mật thiết với nhau ; cuối cùng con người biết rằng cần tuân theo và hợp tác với thiên nhiên và vạn vật , thì thiên nhiên và vạn vật sẻ phục vụ lại con người .

Man , know thyself . Con người hảy tự biết mình . Con người đầu tiên khám phá ra rằng mình có khả năng tư duy , là một sự kiện cụ thể ; con người luôn luôn có thể tư duy và sự kiện nầy đả chứng minh sự tồn tại của mình , tôi tư duy , tôi tồn tại ; sự tư duy nầy cho con người có một khả năng biết được những nhu cầu của mình và có khả năng tự cung cấp cho những nhu cầu đó . Và điều đó đã trở thành tự động , khả năng tư duy nầy luôn đi cùng hắn và khi con người chết thì khả năng nầy cũng chết theo . Như vậy bộ nảo vật chất là cơ quan của tư duy . Bộ nảo chết , thì tư duy tiêu tan .
Con người không có cách gì để hiểu Thượng Đế bằng việc nghiên cứu con người , hay nói cách khác là Thượng Đế hảy tự khám phá ra mình .

Tâm thần –dương thần - Spirit là hoạt động và tự thức ; tâm thần là ý thức và có khả năng tự thức .

Linh hồn cá nhân là một lực mù lòa , không tự biết mà chỉ hành động ; nên nó được gọi là người đầy tớ của thần thức và là môi trường hoạt động của tư duy , sức mạnh và hành động của thần thức . Linh hồn chỉ biết làm , mà không biết tại sao . Như tấm gương phản chiếu hình ảnh của tâm thức vậy . Linh hồn là vật chất của tâm thần ý thức , linh hồn có khả năng thực thi nhửng mệnh lệnh của ý thức .

Con người không tạo ra những qui luật và nguyên tắc , nhưng con người chỉ khám phá ra những qui luật và nguyên tắc nầy và ứng dụng chúng nó mà thôi , qui luật và những nguyên tắc của tâm linh cũng vậy .

Tất cả nhân loại sống trong ba dạng : Tâm thần – Linh hồn và Thể xác hay nói cách khác là biểu hiện dưới ba thể : Trí óc thông minh – Tinh lực – Khuôn Mẩu vật chất hay Nguyên nhân tác động – Môi trường – Kết quả . Khoa học Tâm linh bắt đầu nơi khoa học vật lý chấm dứt – Metaphysics begins where physics leave off . Tất cả vạn vật đều ở trạng thái hoạt động , mọi vật trong thế giới vật chất hay có hình thể đều có những tầng số rung động khác nhau và là kết quả của nó .

Ký ức vũ trụ – Tiên thiên ký ảnh – Linh hồn vũ trụ – Akashic record – The book of life :
Là một nơi trong không gian mà mắt thường không thấy được ; là nơi ghi chép và cất giữ tất cả những sinh hoạt và ký ức của vạn vật , trong đó bao gồm đủ loại bức xạ tàn dư của con người và sinh vật .....

Sinh Quang Tử : Biophotonics - Là một đơn bị sinh quang lượng tử được luôn phóng xuất ra từ tất cả sinh vật sống ; sinh quang lượng tử là chủ đề nghiên cứu của vật lý Lượng Tử Học và sinh quang lượng tử phơi bày những hiện tượng vũ trụ của các hệ thống sinh tồn của sinh vật .

Bức xạ hoại tữ : (Necrotic Radiation ) :
Là một loại hình laser sinh thái điện từ chứa nhiều làn sóng khác nhau được phóng ra từ một sinh vật khi chết .
Is a kind of the electromagnetic holographic replica of the dying organism alike a multidimensional wave packet , emission from a dying organism . Janusz Slawinski followed the link between biophotons and biochemical reaction .
- Nhà vật lý Balan Janusz Slawinski - Department of Radio & Photochemistry , Intitute of Chemistry & Technical Electrochemistry , Poznan University of Technology Piotrowo Str.3 , 60-965 Ponan , Poland
Email :slawinski@sol.poznan.pl

Bức xạ tàn dư :
Là một phần nhỏ của linh hồn cá nhân ......nằm trong linh hồn vũ trụ hay ký ức của vũ trụ hay là Tiên thiên ký ảnh – AKASHIC RECORD ; là một mẩu thông tin được mả hóa hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh của con người hay con thú trước khi chết phóng xuất ra và được lưu giữ trong môi trường chung quanh .

Bức xạ tàn dư hoàn chỉnh :
So sánh như phần mềm software được thảo chương tự động hóa trong bộ nảo vi tính được gắn trong người máy , hay là một dỉa inter- active cd-crom phức hợp cao cấp được hoạt động tự động hóa khi nó được đưa vào một máy vi tính thích hợp kỷ thuật với nó . Là một mẩu thông tin được cấu tạo của thể phách hay thể năng lượng cùng thể vía và thể hạ trí của người chết phóng ra trước khi chết và được lưu giữ ở môi trường chung quanh . Thể nầy khi gặp được điều kiện thích hợp của sự rung động đồng bộ , nảo bộ của người sống hay khí hậu thay đổi của môi trường chung quanh , có thể xuất hiện như một con ma hay Linh thể để cho con người thấy và có thể nói chuyện , ý thức như người sống . Nhưng không còn sự linh hoạt và tự động sinh tồn như thần thức của người sống . Bức xạ tàn dư hoàn chỉnh nầy có thể chứa đựng toàn bộ những kinh nghiệm , ký ức cá nhân , những kiến thức về các bộ môn khoa học nhân văn hay khoa học xã hội hay những khả năng chuyên môn của người chết , được ghi chép vào đó .Và nó luôn phóng ra những làn sóng rung động như đài tv phát sóng , nó sẻ được thâu nhận và tái hiện tất cả tinh hoa của nó tự động trong đầu của một người nào đó , mà nảo bộ có một cấu trúc đặt biệt có thể thu nhận làn sóng nầy và thân xác cá nhân của người nầy sẻ là môi trường để những tinh hoa nầy hoạt động thể hiện ra ở thế giới vật chất trong xã hội . Vì bức xạ tàn dư hoàn chỉnh nầy có đầy đũ những tinh hoa như thế , nên khi nó được thể hiện trở lại sự thu hút đồng bộ của một người nào đó , thì hiện tượng luân hồi , hay linh hồn kiếp trước được đầu thai trở lại .

Bức xạ tàn dư bán hoàn chỉnh :
Là một mẩu thông tin được cấu tạo bởi thể phách và thể vía . Nó có thể hiện ra như một bóng ma than khóc , trêu cợt hay hù nhát người khác , nhưng không gây tác hại , nếu con người biết nó và không sợ nó .

Bức xạ tàn dư không hoàn chỉnh :
Là một mẩu thông tin được cấu tạo bởi thể phách , còn phần thể vía và thể trí đã bị tan mất . Nó có thể hiện lên như một bóng ma mờ ảo khi ẩn , khi hiện và rất tiêu cực , không có gây ra một sự phá hoại hay hù nhát nào cả , nếu có là do con người không biết mà tự kinh sợ nó .

Phowa :
Là kỷ thuật chuyển di thần thức và linh hồn của một người xuyên qua hài nhi được sanh ra từ trong bụng mẹ ; nhưng kinh nghiệm và khả năng kiến thức có thể không được hoàn hảo bảo toàn và có thể bị rơi mất hoặc thất lạc . Nhưng thật sự kỷ thuật Phowa chỉ giúp người chết được chết một cách an lạc và êm ái và sau đó thần thức cũng bị tan rả sau khi bộ óc xác thịt bị chết . Khi đứa trẻ đã được sinh ra và được thần thức của một người nào đó , dùng kỷ thuật Đoạt xã mà nhập vào , nên trí nhớ và khả năng kinh nghiệm liền có , mà không cần học hỏi , nhưng người ta tưởng rằng là do linh hồn tái sinh đã nhập vào bụng mẹ trước khi sinh ra . Vì không biết nên gười ta lầm lẩn Phowa tái sinh và Phowa trọng thức hay là Đoạt xã ; thực sự là hai kỷ thuật khác nhau .

Phowa : Thuật chuyển di thần thức :
Có 3 loại thành tựu : Thượng đẳng là chuyển thức thành Pháp Thân . Trung đẳng chuyển thức thành Báo Thân . Tam Đẳng chuyển thức trở về làm người , là chuyển thức thành Hoá Thân .Có hai kỷ thuật tập luyện Phowa , một kỷ thuật dùng tập luyện thường ngày và một kỷ thuật được xử dụng trong lúc lâm chung ........

Phowa Trọng Giác hay Đoạt xã : Còn có tên gọi khác là Tá Thi Hoàn Hồn .
Là một phương pháp chuyển di Thần thức và Linh Hồn của mình đi qua một người khác và hoàn toàn làm chủ thể xác nầy như một chủ nhân chính thức . Qua kỷ thuật nầy , tất cả kinh nghiệm cùng kiến thức khả năng của người đó , đều được bảo tồn không bị thất thoát . Nên người thường không biết và thường nói là cha mẹ sinh con trời sinh tính . Đoạt xã khác với Phụ Thể hay ma nhập , vì ma nhập là một trạng thái mà y học tâm thần ngày nay gọi là một con người hai cá tính , mà bên trong người nầy có hai ý thức thể đang tranh giành quyền xử dụng thể xác nầy ; Sáng thì là một người Đạo đức , đến tối thì hoàn toàn là một người Sa Đọa khác . Đây là kỷ thuật chuyển di thần thức cao cấp của Mật tông và Đạo gia .

Antaskarana : Siêu thức tuyến - Là con đường giao thông mà ý thức của những người đắc đạo , ngoại cảm cao cấp hay thiên tài bẩm sinh có thể dùng để liên lạc với thần thức , linh hồn hay ký ức của vũ trụ để mang những thông tin về xử dụng ở thế giới vật chất .

Tiềm thức : Sub-Conscious - Là những ký ức , ấn tượng cảm quan , kiến thức hay kinh nghiệm của một cá nhân , mà người nầy có thể gọi lại , tái hiện lên trên bình diện ý thức một cách dể dàng .

Vô thức : Un-conscious - Là những ký ức , ấn tượng cảm quan , kiến thức hay kinh nghiệm của một cá nhân, được ghi giữ vào đó , mà người bình thường không thể nhớ lại được ; ngoại trừ trường hợp ,người nầy nối được đường thông lộ siêu thức Antaskarana của mình .

Ý thức : Conscious - Hay còn gọi là hạ trí ; Là khả năng tự tri thức và biết tự động tư duy của con người . Ý thức sẽ trở thành dương thần khi con người có định lực và tâm lực cao nhờ sự thiền định .



Dương thần -Solar body – A lại da thức :
Gồm hai phần : Phần thứ nhất là Thần thức hay là thượng trí của con người dùng để hướng dẩn ý thức hạ trí và thể vía . Phần thứ hai là ký ức của dương thần là nơi lưu giữ những ký ức và kinh nghiệm ...của một cá nhân trong một đời sống vật chất ( ký ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ).Ký ức của dương thần được gọi theo bình dân là sổ nam tào bắc đẩu , ghi chép công tội của một người vậy .

Âm thần : Lunar body – Unconcious – Individual soul - Linh hồn cá nhân :
Là nơi chứa phần thứ hai của dương thần là ký ức và linh hồn cá nhân cũng là nơi thông lộ phát và thu thông tin ra thế giới bên ngoài để liên lạc với ký ức của những linh hồn khác và ký ức của vũ trụ hay là linh hồn của vũ trụ .

Tự ngã : Là tự thể tồn tại của con người trong suốt đời người ; bộ chỉ huy trung ương của tự ngã là một tập hợp của : Ý thức - Dương thần , ký ức của dương thần và linh hồn cá nhân ; thể xác vật chất của con người có thay đổi theo thời gian , nhưng tự ngã vẩn là một .

Bản ngã : Là toàn bộ ý thức , tình cảm , kinh nghiệm cùng kiến thức của một người được hình thành từ trẻ đến trưởng thành và đến chết , bản ngã của mổi người khác nhau do ảnh hưởng của môi trường , xã hội và gia đình . Bản ngã được biểu hiện do một tập hợp của ý thức , thể vía và tiềm thức . Bản ngã thay đổi , phong phú hóa và phức tạp theo sự trưởng thành của thể xác .

Con người cần phải tập tỉnh thức trong lúc ngũ , trong lúc bỏ xác thân hư cũ và tỉnh thức khi di chuyển sang một thể xác mới ; Như vậy , sinh mạng thức mới được toàn vẹn và liên tục .....

Một chân lý dù đúng , nhưng đều bị mọi người trong một thời đại nào đó , từ chối và lánh xa ; nó sẽ trở thành một viên kim cương trong đá và sẽ làm giàu cho những ai có thể nhìn thấy và biết giá trị của nó .

Hảy nhìn những gì không thể nhìn thấy , hảy nghe những gì không thể nghe được , hảy nói những gì không thể nói được , hảy nghĩ những gì không thể nghĩ được , hảy ý thức những gì không thể ý thức được ; thì đó mới chính là chân lý tuyệt đối .
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:27 am

Một chân lý vĩ đại , bao giờ cũng được người đời và những bậc vĩ nhân giãng giãi một cách mơ hồ và ví von .Nên , nếu ta , có để ý một chút , khi nhìn những hiện tượng chung quanh , mà có thể biết được nguyên nhân ; nhìn tất cả những kết quả cuối cùng có thể biết được hư , thật - có , không ....mà ta không cần phải nói ra , hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ý của mọi người . Mặc dù , chân lý nầy không có ai nói đến , hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở . Việc gì cũng có lý do của nó .

Khoa học qui ước :
Là những khoa học đang được xã hội hiện đại chấp nhận .
Khoa Học không qui ước :
Là khoa học chưa được đa số xã hội hiện đại chấp nhận , như Huyền bí học , Năng lượng tự do , Phản lực địa từ , Tâm lực , Linh năng ......





KHOA HỌC GIÃ TƯỞNG TÂM LINH TỔNG HỢP

Những hiện tượng tâm linh và linh hồn , đã và đang là một vấn nạn từng trải qua bao thời đại ; nó rất phức tạp và đa dạng ; Do đó , vì những trở ngại mọi mặt trong một xã hội qui ước của con người , mặc dầu rất khó khăn cho người tìm chân lý – Seer – nhưng nhờ ta có thể nhìn những hiện tượng chung quanh , mà có thể biết được nguyên nhân ; nhìn tất cả những kết quả cuối cùng có thể biết được hư , thật - có , không ....mà ta không cần phải nói ra , hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ý của mọi người . Mặc dù , chân lý nầy không có ai nói đến , hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở . Việc gì cũng có lý do của nó .
Tinh hoa của con người là Thần thức và Linh hồn ; do đó con người có thể làm cho nó trở thành bất tử , qua kỷ thuật tâm linh siêu cấp , nhờ đó mà sinh mạng thức toàn vẹn của con người , được tiếp nối liên tục và sinh tồn mãi mãi .......luôn hưởng hạnh phúc và phồn thịnh , trên cảnh thiên đàng nơi hạ giới nầy .....

Con người nhờ sự di truyền của cha mẹ mà được sanh ra ở thế giới vật chất . Con người sanh ra được sở đắc một thể xác vật chất do mẩu DNA di truyền của cha mẹ tạo nên , theo một khuôn mẩu đã định sẳn trong DNA .
Với một bộ nảo vật chất mổi ngày một phát triển với một mức độ hoàn hảo , nơi đây trở thành trung tâm lưu giữ những ký ức , ấn tượng thu nhận của các giác quan , kinh nghiệm cùng kiến thức , văn hóa học tập của một cá nhân ; ngoài ra nảo bộ còn là trung tâm thu và phát sóng và trao đổi thông tin đến các cá nhân khác hay các tác nhân đồng bộ trong môi trường và vũ trụ xa gần chung quanh .
Khi đứa bé sinh ra , các hoạt động sinh tồn đều đặt dưới ảnh hưởng của DNA , vô thức hay linh hồn – A lại da thức lúc nầy rất đơn giản ; nhờ sự tiếp xúc của ngũ thức : mắt , tai , mủi ,miệng , thân mà ý thức được tạo ra và sự chất chứa những thông tin bên ngoài mổi ngày được tăng lên và trở thành đa dạng và phức tạp , từ đó tiềm thức hay thể vía - tình cảm của đứa bé được tạo thành , với tuổi đời chồng chất , kho vô thức hay linh hồn trở thành nơi chứa của Dương Thần – Ký ức của dương thần và linh hồn cá nhân .
Các chức năng vi tế của nảo bộ là ý thức – tiềm thức và vô thức ; ý thức là dụng cụ cho con người xử dụng tư duy hằng ngày để sinh tồn trong thế giới vật chất , tiềm thức hổ trợ cho ý thức trong hoạt động tư duy và còn là chiếc cầu nối cho ý thức liên lạc với Dương thần – Ký ức của dương thần và linh hồn , khi con đường siêu thức Antaskarana được khai thông .
Dương thần vừa hướng dẩn ý thức trong tư duy vừa là nơi cung cấp tất cả ký ức , kinh nghiệm và kiến thức xưa nay của cá nhân thu thập trong suốt một đời người . Ý thức chỉ có thể lưu thông với thể vía hay tiềm thức và chỉ giao thông được với ký ức của dương thần , dương thần và linh hồn , khi nó nối được cầu siêu thức ANTASKARANA .
Còn linh hồn cá nhân hay Âm thần là nơi chứa Dương thần cùng ký ức của dương thần ( ký ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ) và cũng là nơi thông lộ liên lạc của một cá nhân với linh hồn của những người khác , đồng thời cũng là nơi liên lạc và đọc được những thông tin được lưu giữ trong ký ức của vũ trụ –AKASHIC RECORD .
Khi con người còn sống , nhờ tập luyện phát triển những tiềm năng tiềm ẩn của con người , nên những người nầy khả năng tâm đặc biệt có thể đọc được những bức xạ tàn dư của người chết và đọc được ký ức của vũ trụ ; khi cơ thể người nầy bị hư hại vì tai nạn ,bệnh tật hay già yếu , người nầy dùng phương pháp Tá Thi Hoàn hồn hay là Đoạt Xã Trọng Thức để chuyển toàn bộ tinh hoa tâm linh của họ qua một hài nhi mới sanh hay qua một cơ thể khõe mạnh khác hay qua thể xác mới của mình nhờ vào phương pháp CLONE hiện đại . Nếu không tìm được một thể xác lý tưởng cho việc đoạt xã , thì thần thức của người nầy phải tan rả như người bình thường .
Còn những người bình thường , khi họ chết , thì tự ngã , ý thức tự thể và dương thần của họ cũng bị chết và tan mất ; chỉ còn lại bốn hạt lưu tánh nguyên tử : 1.- Linh hồn cá nhân và ký ức của dương thần , là một phần của dương thần đả mất ý thức , 2.- Trí – Midle self –hạ trí , 3.- Vía – Lower self - Sub-conscious –tiềm thức , 4.- Phách – Etheric double ; được phóng ra trong không gian và được lưu trử như là một loại bức xạ tàn dư hoàn chỉnh , bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh ; nó sẻ được tái hiện trở lại cỏi vật chất qua bộ nảo của một người nào có kết cấu rung động đồng bộ với nó ......Như những hiện tượng hồn ma , luân hồi , nói chuyện với người chết , thế giới của cỏi âm ..v...v......
Chúng ta quên đi những tiền kiếp , vì chúng ta khi chết đi , thần thức của chúng ta cũng chết đi ; và khi đứa bé mới được sinh ra , thì phần tâm linh do nảo bộ cấu thành hoàn toàn trong trắng và vô tư , nếu nhờ sự cấu trúc đặt biệt của nảo bộ rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư hoàn chỉnh , nên đứa bé hay người nào đó sẻ trở thành thiên tài hay cao nhân trong tức khắc , và bức xạ tàn dư hoàn chỉnh nầy hoàn toàn nằm dưới quyền xử dụng của dương thần hay tự ngả mới của đứa bé hay người đó . Hoặc trong trường hợp đặt biệt do thể xác đứa bé hay một người nào đó bị đoạt xã , bởi một người khác biết kỷ thuật nầy , thì thể xác của đứa bé hay người đó sẻ hoàn toàn chiếm ngự bởi tự ngả cùng bản ngả của người dùng kỷ thuật đoạt xả hay tá thi hoàn hồn .
Ở những người bình thường , khi tâm nảo của họ bị thôi miên hay đi vào đại định thì họ có thể nhớ lại vĩ vãng cùng những kỷ niệm của họ ; nhưng khi đi sâu hơn nữa , thì nảo bộ được xặp xếp lại theo một mức độ rung động khác thường , nên nó có khả năng bắt được một bức xạ tàn dư nào đó , làm cho con người có cảm tưởng là mình đã từng sống ở một kiếp xa xăm nào đó và tưởng lầm mình là người đó ở kiếp trước . Cả những trường hợp thí nghiệm , đặt nảo bộ dưới một kích thích điện từ hay tiêm một chất hóa học nào đó , cũng có thể điều chỉnh , tái phối trí các dòng điện nảo của nảo bộ , và nó sẽ tạo sự cộng hưởng với những bức xạ tàn dư nào đó , thì con người cũng có thể thấy hay đọc được những thông tin nầy và lầm tưởng là hiện tượng luân hồi , tái sinh hay kiếp sống trước đó của mình .
Vì tất cả những thông tin ở môi trường chung quanh con người , đều phải đi xuyên qua ngũ quan của con người , cuối cùng đều biến đổi thành những luồng xung động thần kinh đã được mã hóa đặc biệt dưới ngôn ngữ của bảo bộ ; nên những cuộc thí nghiệm như , kích thích nảo bộ của con người đang nhắm mắt hay đang ngũ , bằng một dòng điện từ đã được mã hóa những thông tin mutimedia nào đó , thì người nầy có thể thấy , nghe và như là đang sống thật trong ảo giác đó .
Trường hợp của Cô Kumari Shanti và Jeny được xem là tái sinh , cũng là trường hợp nảo bộ của hai người có cấu trúc đặt biệt có thể tự nhiên và thường xuyên bắt được bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của người đã chết , mà hạ trí của họ bị đồng hóa với hạ trí được lưu giữ trong bức xạ tàn dư ; nên hai người có thể nhớ lại toàn bộ sinh hoạt và tình cảm của người đã chết nầy như trong câu chuyện nêu trên ; nhưng vì là tự ngã của hai người vẩn còn , nên hai người nầy còn có thể nhận biết cha mẹ hiện giờ của họ là ai và cha mẹ kiếp trước trong bức xạ tàn dư là ai . Đây có thể xem trong tâm thần bệnh học là một con người hai cá tính .
Còn trường hợp của Lanfranco Davito có thể nhớ lại 6 kiếp trước , là do nảo bộ của anh ta có một cấu trúc phức hợp có thể lần lượt thu nhận tự nhiên được 6 bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của 6 người đã chết ở những địa điểm và thời gian khác nhau ; với hệ thống tín ngưởng và phong tục hiện nay của xả hội không giải thích được hiện tượng trên , nên lầm tưởng là người nầy đã sống qua 6 kiếp trước vậy , vì 6 bức xạ tàn dư nầy không có sự tồn tại Dương thần của người đã chết , nên 6 bức xạ tàn dư nầy được thông dịch và đọc ra bởi tự ngả và ý thức của chàng Lanfranco Davito ; như máy DVD hay máy vi tính đọc dĩa hay nối với mạng multi-media internet vậy . Việc nầy được những nhà ngoại cảm cao cấp hay những nhà tâm linh đắc đạo có thể phân biệt và nhận chân được những dạng bức xạ nầy .
Ngày nay , dần dần nhờ có sự sự hợp tác của khoa học qui ước và khoa học không qui ước ở phạm vi xả hội hay phạm vi cá nhân ; luật luân hồi và tái sinh của linh hồn được giải thích với một nhản quang mở rộng hơn và cập nhật hơn , thích hợp với kỷ nguyên bảo bình của tâm linh và trực giác con người .
Dần dần , con người có thể làm chủ vận mạng của mình , thông qua sự tu luyện thiền định và yoga ....con người có thể nâng cao định lực , tâm lực và linh lực của mình ; nhờ đó , con người có thể tách rời cảm thể khỏi thể xác để khỏi chịu sự đau đớn của xác thân khi bệnh tật hay tai nạn ..; con người có thể du hành khắp mọi nơi qua kỷ thuật Remote viewing – xuất thần ngao du ; con người có thể nói chuyện với nhau qua kỷ thuật truyền âm nhập mật – tha tâm thông ; con người có thể dùng thuật khinh thân Lunggom để thâu ngắn con đường thiên lý ; sống trong băng giá mà không bị lạnh qua kỷ thuật nội hỏa Tumo ; con người có thể tự giải thoát thân tâm qua sự thăng hoa và chế ngự sự loạn động các thể xác , vía , trí .....
Một nền văn hóa mới sẽ dần dần được hình thành và sẽ giúp đở nhân loại sống hài hòa và hạnh phúc hơn với đà tiến bộ với tốc độ ánh sáng của khoa học kỷ thuật qui ước và không qui ước của kỷ nguyên Bảo Bình đầy hoa và ánh sáng nầy .....
Khoa học giả tưởng tâm linh tổng hợp đến đây xin chấm hết .

Mua vui cũng được một vài trống canh .......
Chúc Thầy Hùng Sơn và Quý Thầy , Quý Bạn , Quý Anh Chị , Quý Bà Con Cô Bác được vui vẽ , an lạc , khõe mạnh , thịnh vượng và may mắn .....

Ngu đệ
ÁNH SÁNG –TS – HBH - ÚC CHÂU
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
MANY LIVES, MANY MASTERS

Tác Giả : Bác Sĩ BRIAN L. WEISS
Dịch Giả: THÍCH TÂM QUANG

PHẬT LỊCH 2549 - DƯƠNG LỊCH 2006


VỀ TÁC GIẢ

Sau khi tốt nghiệp Đại Học ở cấp độ II tại Đại Học Columbia và nhận bằng y khoa tại Trường Y Khoa Đại Học Yale, Bác Sĩ Brian L.Weiss, thực tập nội trú tại Trung Tâm Y Khoa Bellevue của Đại Học Nữu Ước và trở thành bác sĩ nội trú, Khoa Tâm Thần thuộc Trường Đại Học Y Khoa Yale. Hiện nay, Bác Sĩ Weiss là chủ nhiệm Khoa Tâm Thần tại Trung Tâm Y Khoa Mount Sinai ở Miami Beach, Florida, và là phó giáo sư, Khoa Tâm Thần tại Trường Y Khoa Đại Học Miami. Ông chuyên nghiên cứu và điều trị các trạng thái buồn phiền và lo âu, mất ngủ, rối loạn vì lạm dụng ma túy, bệnh Alzheimer (mất trí nhớ), và cấu trúc hóa chất tại não bộ.

Là một nhà chữa bệnh tâm lý truyền thống, Bác sĩ Brian Weiss sửng sốt và hoài nghi khi một trong những bệnh nhân của ông bắt đầu nhớ lại những chấn thương ở tiền kiếp mà nó dường như là chìa khóa của những cơn ác mộng và lo âu tái diễn. Tuy nhiên sự hoài nghi của ông đã bị xói mòn khi cô bắt đầu gửi những thông điệp "từ không gian giữa các kiếp sống" chứa đựng những tiết lộ rõ rệt về gia đình Bác Sĩ Weiss và đứa con trai của ông bị chết. Sử dụng cách chữa trị tiền kiếp, ông đã có khả năng chữa khỏi người bệnh và bắt tay vào một giai đoạn mới có ý nghĩa hơn trong nghề nghiệp của mình.

NHẬN XÉT CỦA MỘT SỐ NHÀ TRÍ THỨC :

"Một tác phẩm thật đẹp gây suy nghĩ đã phá vỡ hàng rào của việc chữa trị tâm lý thông thường, trình bày cách điều trị mới và rất hiệu quả. Những ai trong nghề nghiệp chữa bệnh tâm thần phải coi trọng tác phẩm này" -- Edith Flore, Tiến sĩ, tâm lý điều trị và tác giả cuốn Bạn Đã Ở Đây Trước Kia.

Tác phẩm này tổng hợp bác sĩ tâm thần học với các huyền bí, tìm hiểu chân lý tối hậu, và hứa hẹn luân hồi trực tiếp. Đọc tác phẩm giống như đọc cuốn tiểu thuyết có sức thu hút khiến tôi không thể rời tay. -- Harry Prosen, Bác Sĩ, Giáo sư và Giám Đốc Viện Tâm Thần Học và Khoa học về Bệnh Tâm Thần, Đại Học Y Wisconsin

"Một lai lịch bệnh sử say mê đã chứng minh sự hiệu quả cách chữa trị tiền kiếp. Tác phẩm này sẽ mở ra cánh cửa cho nhiều người chưa bao giờ suy xét giá trị của luân hồi. -- Richard Sutphen, tác giả cuốn Tiền Kiếp, Tình Thương Tuơng Lai và Bạn Lại Tái Sinh Để Chung Sống.

"Bác Sĩ Weiss sát nhập những khái niệm của tâm lý trị liệu truyền thống với sự thám hiểm cái vô thức tinh thần của bệnh nhân. Quan điểm của tôi và người khác chẳng bao giờ giống nhau". -- Joel Rubinstein, Bác Sĩ, nguyên giảng viên tâm thần học tại Trường Y Khoa Harvard, hiện nay có phòng mạch tư.

"Một khám phá được viết rất hay, và gây suy nghĩ, lý thú về cách chữa trị tiền kiếp dựa vào cách ứng xử hiện tại. Bạn không thể bỏ qua mà không thông cảm với những kết luận của Bác Sĩ Weiss. -- Andrew E. Slaby, Bác Sĩ, Tiến Sĩ, Thạc Sĩ Sức Khỏe công cộng, Giám Đốc Y Khoa, Bệnh Viện Fair Oaks.

"Một câu chuyện xúc cảm sâu xa về sự tỉnh thức bất ngờ của một con người. Đó là một tác phẩm rất can đảm mở cửa cho cuộc hôn nhân giữa khoa học và siêu hình học. Phải đọc để hiểu một thế giới đói khát tìm kiếm linh hồn". -- Jeanne Avery, tác giả cuốn Chiêm Tinh Học và Tiền Kiếp của Bạn.
Câu Chuyện Thật Của Một Bác Sĩ Chuyên Khoa Tâm Thần, Một Bệnh Nhân Trẻ Của Ông,
và Cách Chữa Trị Tiền Kiếp Đã Thay Đổi hẳn Đời Sống của Cả Hai.

-ooOoo

LỜI NGƯỜI DỊCH

Thời đại ngày nay là thời đại khoa học, nhưng có thể nói chính xác hơn là thời đại khoa học vật chất, còn khoa học tinh thần thì có lẽ mới chỉ là những bước đi chập chững. Từ thượng cổ người ta đã suy nghĩ và tìm hiểu xem có tiền kiếp và luân hồi không, nhưng cho tới nay hầu như chưa có câu trả lời "khoa học". Những ý niệm, khái niệm, ý tưởng về điều đó vẫn là một vấn đề nhức nhối gây bán tín bán nghi. Thì đây, tác phẩm này đích thực là một công trình khoa học dưới dạng thức văn học về tiền kiếp và luân hồi, một vấn đề xuyên suốt quá trình triết học, tôn giáo trong lịch sử loài người.

Đúng như tác giả, Bác Sĩ Brian L. Weiss viết "loài người đã chống lại những thay đổi và không chấp nhận những ý tưởng mới". Quả thật là như vậy. Vì đây là những vấn đề hết sức khó chứng minh một cách khoa học nhưng lại thật đơn giản trong khoa học tôn giáo đích thực. Bạn đọc hoàn toàn có thể tự do so sánh đối chiếu để tìm ra chân lý. Bạn có thể tin rằng có nhiều tiền kiếp và nhiều lần luân hồi hay không, điều đó cũng chẳng khác câu chuyện của Galileo xưa kia. Dù sao, trái đất vẫn cứ quay.

Vì đây là chuyện khoa học nên nó được viết rất chân thật, giản dị, trong sáng song rất hấp dẫn vì xen lẫn hiện tại, quá khứ, những suy tư quí báu của tác giả. Tin chắc rằng bạn đọc sẽ rút ra được những kết luận bổ ích cho cuộc sống, và biết đâu nó cũng thay đổi hẳn cuộc sống của mình.

Tự biết khả năng còn nhiều hạn chế, nhưng với tấm lòng nhiệt thành chúng tôi cố gắng hoàn thành dịch phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc.

Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư Tôn Đức đã khích lệ và góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biệt chúng tôi xin tri ân Đạo Hữu Trần Quốc Cường đã bỏ nhiều công phu để hiệu đính, sửa chữa những thiếu sót sai lầm, một đóng góp to lớn trong việc phát hành tác phẩm này. Chúng tôi cũng xin chân thành tri ân các Đạo Hữu Diệu Linh Phạm Bích Kiều - Bác Sĩ Richard J. Kochenburger, Kỳ Châu - Diệu Thức cùng các bạn đạo tại Houston Texas, Chơn Phổ Nguyễn Thị Phương, Trí Quang Nguyễn Thế Nhiệm, Bác Sĩ Hoàng Giang, Đạo Hữu Trần Minh Tài, Nguyên Khiêm Lương Thị Thanh Kiểm, Võ Hiếu Liêm - Đặng Thị Hạnh, Minh Hỷ Phan Duyệt - Diệu Tâm Nguyễn Thị Thuyên, D.S Hoàng Trọng Bình - D.S Nguyễn Thị Vân, Diệu Chơn Lương Thị Mai, Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Mạnh Cương, Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Tuấn, Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Thị Mai Trinh, Nguyễn Hữu Nhung, Nguyễn Cung Thị Hỷ đã phát tâm cúng dường ấn tống tác phẩm này.

Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý Đạo Hữu cùng bửu quyến thân tâm thường an lạc, hạnh phúc và các hương linh Ninh Viết Khánh, pháp danh Tuệ Trường, Bùi Kim Hạnh, pháp danh Diệu Ngôn, Châu Nguyệt Vân Thu, Nguyễn Mỹ Linh, Hoàng Văn Nhượng, Nguyễn Ngọc Hoạt và Phương Thị Tính, pháp danh Diệu Thủy, Nguyễn Thị Thái, Phan Thị Lộc vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Sau cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để tác phẩm được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.

Xuân Bính Tuất, Phật Lịch 2549, Dương Lịch 2006
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang


-ooOoo--ooOoo--ooOoo--ooOoo--ooOoo-

Tặng Carole, Người Bạn Đường Của Tôi,

Tình yêu của Carole đã nuôi dưỡng và nâng đỡ tôi khiến tôi không bao giờ quên

Chúng tôi luôn bên cạnh nhau, cho đến giây phút cuối cùng.

Lời cảm ơn và tình thương yêu của tôi gửi đến các con tôi Jordan và Amy, vì đã thứ lỗi cho tôi làm cho các con mất nhiều thì giờ để viết tác phẩm này.

Tôi cũng xin cảm ơn Nicole Paskow đã ghi âm những buổi trị liệu.

Cảm ơn Julie Rubin về những ý kiến biên tập quí báu sau khi đọc bản thảo đầu tiên của tác phẩm này.

Gửi lời cảm ơn chân thành tới Barbara Gess, biên tập viên, nhà xuất Bản Simon và Schuster, vì tài năng chuyên môn và lòng can đảm của bà.

Cảm kích sâu xa của tôi tới tất cả những người ở khắp nơi, đã khiến cho tác phẩm này được thành tựu.

-- Bác Sĩ BRIAN L. WEISS

LỜI TỰA

Tôi biết mọi chuyện đều có lý do. Có lẽ vào lúc một sự việc nào đó xẩy ra chúng ta không thấu hiểu hay biết nhìn xa trông rộng để nhận thức thấu đáo lý do đó, nhưng với thời gian và kiên nhẫn, nguyên nhân này sẽ được đưa ra ánh sáng.

Cũng như vậy với Catherine. Tôi gặp cô lần đầu vào năm 1980 khi cô hai mươi bẩy tuổi. Cô đến văn phòng tôi để chữa bệnh trầm cảm, lên cơn sợ hãi, và ám ảnh sợ. Tuy cô đã có những triệu chứng này từ hồi còn thơ ấu, nhưng gần đây tình trạng càng ngày càng tồi tệ hơn. Hàng ngày cô cảm thấy tinh thần bị tê liệt và hoạt động kém. Cô sợ hãi và bị suy nhược.

Trái với sự chao đảo xẩy ra trong đời sống của cô vào lúc đó, đời sống của tôi trôi chẩy suông sẻ. Tôi có gia đình khá vững vàng, hai con nhỏ, và một sự nghiệp đang phát triển.

Từ lúc đầu, đời sống của tôi dường như luôn luôn thăng tiến. Tôi lớn lên trong một gia đình yêu thương. Thành công ở đại học đến với tôi dễ dàng, và ngay vào năm đại học thứ hai tôi đã có quyết tâm trở thành một bác sĩ tâm thần học.

Tôi được cấp bằng Phi Beta Kappa, Cấp II (Magna Cum Laude) tại Trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước năm 1966. Rồi tôi vào Trường Đại Học Y Khoa Yale và nhận bằng Bác Sĩ Y khoa năm 1970. Sau khi thực tập nội trú tại Trung Tâm Đại Học Y Khoa Nữu Ước-Bellevue, tôi trở lại Đại Học Yale để hoàn tất chương trình thực tập nội trú. Sau khi hoàn tất, tôi nhận một chức vụ của khoa tại Đại Học Pittsburg. Hai năm sau, tôi tham gia giảng dạy y khoa tại đại học Miami, trưởng ban dược lý trị liệu. Nơi đây tôi được nhà nước công nhận trong lãnh vực tâm thần sinh học và lạm dụng vật chất. Sau bốn năm ở trường Đại học tôi được đề bạt làm Trợ Lý Giáo Sư ngành Tâm thần tại trường Y khoa, và được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Tâm Thần tại một bênh viện lớn đã sát nhập với Trường Đại Học Miami. Vào lúc này tôi đã công bố ba mươi bẩy tham luận khoa học và sách đề tài trong lĩnh vực của tôi.

Nhiều năm nghiên cứu khắt khe đã rèn luyện tâm trí tôi suy nghĩ với tư cách khoa học gia và thầy thuốc, hướng tôi đi theo con đường bảo thủ hẹp hòi trong nghề nghiệp của tôi. Tôi không tin vào cái gì nếu không thể chứng minh được bằng phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có ý thức về một số nghiên cứu trong khoa cận tâm lý được thực hiện tại các đại học lớn trong nước, nhưng những nghiên cứu này cũng không làm cho tôi chú ý. Tất cả điều đó dường như quá cường điệu đối với tôi.

Rồi tôi gặp Catherine. Trong mười tám tháng tôi đã sử dụng phương pháp trị liệu thông thường để giúp cô khắc phục những triệu chứng của cô. Khi thấy không có gì hiệu quả, tôi thử thôi miên. Trong trạng thái mơ màng từng đợt, Catherine nhớ lại tiền kiếp chứng minh những nhân tố đã gây ra những triệu chứng cho cô. Cô cũng có thể hành động như cáp thông tin từ " thực thể tinh thần" tiến hóa cao và qua họ, cô đã cho thấy nhiều bí mật về đời sống và cái chết. Chỉ vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất, và cô đã tiếp tục cuộc sống, hạnh phúc và an lạc hơn trước nhiều.

Không có gì trong học vấn và kinh nghiệm của tôi đã sửa soạn cho tôi về việc này. Tôi tuyệt đối ngỡ ngàng khi những biến chuyển này bộc lộ.

Tôi không có lời giải thích khoa học nào về điều đã xẩy ra. Tâm trí con người có quá nhiều cái vượt khỏi tầm nhận thức của chúng ta. Có lẽ, do thôi miên, Catherine đã có thể tập trung vào phần tiềm thức chứa những ký ức thực sự về tiền kiếp hay có thể cô đã kết nối vào cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi là tập hợp vô thức, nguồn gốc của năng lượng bao quanh chúng ta và chứa đựng những ký ức về toàn thể loài người.

Các khoa học gia đang bắt đầu tìm kiếm câu trả lời ấy. Chúng ta, là một xã hội, đạt được nhiều cái do khám phá ra những bí mật của tâm trí, linh hồn và sự tiếp tục sau khi chết, và ảnh hưởng của những kinh nghiệm của tiền kiếp đối với cách ứng xử hiện tại của chúng ta. Rõ ràng, những sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt trong lĩnh vực y học, tâm thần học , thần học, và triết học.

Tuy nhiên sự nghiên cứu khoa học mạnh mẽ trong lĩnh vực này chỉ ở trong trứng nước. Đã có những tiến bộ lớn trong việc khám phá ra kiến thức này, nhưng tiến trình lại chậm và vấp phải sự phản kháng của các khoa học gia cũng như của dân chúng.

Suốt dòng lịch sử, loài người luôn chống lại sự thay đổi và không chấp nhận những ý kiến mới. Toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết lịch sử đầy những thí dụ. Khi Galileo khám phá ra những vệ tinh của Mộc Tinh, những nhà thiên văn học lúc đó đã từ chối, không chấp nhận và thâm chí không xem xét những vệ tinh này vì sự hiện hữu của các vệ tinh này mâu thuẫn với niềm tin đã được chấp thuận của họ. Vậy nên ngày nay các nhà tâm thần học và các bác sĩ chuyên khoa khác cũng từ chối xem xét và đánh giá chứng tích được thâu thập về sự sống sót sau khi thân xác chết và về những ký ức về tiền kiếp. Họ đã nhắm mắt.

Tác phẩm này là sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào tiến trình nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lý, nhất là ngành nghiên cứu những kinh nghiệm trước khi sinh và sau khi chết. Mỗi lời nói mà bạn đọc là sự thật. Tôi không thêm gì cả, và tôi chỉ bỏ những phần lặp đi lặp lại. Tôi đã thay đổi chút ít nhận dạng của Catherine để bảo đảm sự bảo mật.

Tôi đã mất bốn năm để viết về cái đã xẩy ra, bốn năm để có can đảm liều lĩnh trong nghề nghiệp tiết lộ những tin tức không truyền thống này.

Đột nhiên một đêm trong khi tôi đang tắm, tôi cảm thấy như bị ép buộc phải viết ra những gì đã kinh qua. Tôi có một cảm giác mạnh là đã đến lúc tôi không nên giữ tin tức này lâu hơn nữa. Những bài học mà tôi biết phải được chia sẻ với những người khác và không nên giữ riêng cho mình. Kiến thức phát ra qua Catherine và nay phát qua tôi. Tôi biết rằng không có hậu quả nào có thể xảy ra nếu tôi phải đương đầu có thể chứng tỏ là tàn phá bằng việc không chia sẻ kiến thức mà tôi có được về sự bất tử và ý nghĩa thực sự của cuộc sống.

Tôi vội vàng ra khỏi phòng tắm, ngồi vào bàn với chồng băng thâu trong những buổi làm việc với Catherine. Vào lúc gần sáng, tôi nghĩ đến ông nội, người Hung ga ri của tôi đã chết khi tôi hãy còn là một thiếu niên. Bất cứ khi nào tôi nói với ông là tôi sợ liều lĩnh, ông cũng khuyến khích tôi một cách thương yêu bằng cách nhắc lại câu thành ngữ tiếng Anh ưa thích của ông : "địa ngục gì mà sợ", ông sẽ nói. "địa ngục gì mà sợ".

-ooOoo-
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:28 am

CHƯƠNG MỘT

Lần đầu tôi gặp Catherine, cô mặc một bộ đồ đỏ tươi và bồn chồn dở trang tạp chí để tại phòng đợi của tôi. Rõ ràng là cô thở hỗn hển. Hai mươi phút trước đó, cô đi tới đi lui trong hành lang bên ngoài Khoa Tâm Thần, cố gắng thuyết phục mình giữ đúng hẹn gặp tôi mà không bỏ đi.

Tôi ra phòng đợi và chào cô, và chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhận thấy tay cô lạnh và ẩm ướt, xác nhận có sự lo âu. Thực ra sau hai tháng trời thu thập can đảm để làm hẹn gặp tôi mặc dù hai thầy thuốc tư vấn mà cô tin tưởng khuyên cô tìm sự giúp đỡ nơi tôi. Cuối cùng cô đã ở đây.

Catherine là một phụ nữ quyến rũ lạ thường, với mái tóc vàng hoe dài vừa phải và cặp mắt mầu nâu nhạt. Lúc đó, cô là một chuyên viên phòng thí nghiệm tại bệnh viện mà tôi là Trưởng Khoa Tâm Thần, và cô kiếm thêm tiền bằng cách làm nghề mặc áo tắm.

Tôi bảo cô vào phòng tôi, đi qua chiếc đi văng tới chiếc ghế da lớn.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cái bàn bán nguyệt của tôi ngăn cách chúng tôi. Catherine ngả lưng trên ghế, im lặng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi chờ đợi, muốn để cho cô khởi đầu, nhưng sau vài phút, tôi bắt đầu hỏi về quá khứ của cô. Trong lần khám bệnh đầu, chúng tôi bắt đầu làm sáng tỏ cô là ai và tại sao cô đến tìm gặp tôi.

Trả lời câu hỏi của tôi, Catherine cho biết câu chuyện về đời sống của cô. Cô là một đứa trẻ trung bình, sinh ra trong một gia đình Cơ Đốc Giáo ôn hòa tại một thành phố nhỏ ở Massachussetts. Người anh cô, sinh ra trước cô ba năm, rất khỏe mạnh, được hoàn toàn tự do mà cô thì không được phép. Em gái của cô là đứa con được cưng chiều nhất của cả bố mẹ.

Khi cô bắt đầu nói về những triệu chứng của cô, cô trở nên căng thẳng và giao động nhiều. Cô nói thật nhanh và ngả người về phía trước, tựa khuỷu tay lên bàn. Đời cô luôn luôn bị đè nặng bởi sợ hãi. Cô sợ nước, sợ bị nghẹn đến mức không thể nuốt nổi viên thuốc, sợ máy bay, sợ bóng tối, và cô rất hãi hùng về cái chết. Trong thời gian vừa qua, sự sợ hãi của cô bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Để cảm thấy an toàn, cô thường ở phòng nhỏ có lối đi trong căn hộ của cô. Cô phải mất hai hay ba giờ mới ngủ được. Khi ngủ, cô ngủ chập chờn không ngon giấc, chốc chốc lại thức. Những cơn ác mộng và những tình tiết mộng du gây tệ hai cho cô lúc còn nhỏ bắt đầu trở lại. Khi sợ hãi và những triệu chứng ngày càng làm cô tê liệt, cô càng trở nên phiền muộn.

Trong khi Catherine nói chuyện, tôi có thể cảm thấy cô đau khổ sâu xa đến nhường nào. Nhiều năm qua tôi đã giúp nhiều bệnh nhân như Catherine thoát khỏi những thống khổ của sợ hãi, và tôi cảm thấy tin tưởng cũng có thể giúp cô. Chúng tôi quyết định đào sâu thời ấu thơ của cô tìm ra căn nguyên phát sinh các khó khăn của cô. Thường thường kiểu nhìn vào bên trong giúp làm nhẹ đi lo âu. Nếu cần thiết, và nếu cô có thể uống thuốc, tôi sẽ cho cô một số thuốc chống lo âu loại nhẹ để cô được thoải mái hơn. Đó là cách chữa trị theo tiêu chuẩn sách vở cho các triệu chứng của Catherine, và tôi không bao giờ ngần ngại dùng thuốc an thần, hay thuốc chống suy nhược thần kinh, để chữa trị những chứng sợ hãi và lo âu nghiêm trọng và kinh niên. Bây giờ tôi ít khi dùng những thứ thuốc đó và chỉ dùng chúng tạm thời hay là không dùng nữa. Không có thứ thuốc nào có thể trừ được tuyệt căn những triệu chứng ấy. Những kinh nghiệm của tôi với Catherine và với những người khác như cô đã chứng minh điều đó với tôi. Bây giờ tôi biết có thể có những phương thuốc không chỉ ngăn chặn hay bao trùm những triệu chứng.

Trong buổi chữa bệnh đầu tiên, tôi cố gắng đánh nhẹ vào thời thơ ấu của cô. Vì lạ lùng là Catherine chỉ nhớ được một số ít biến cố hồi thơ ấu, để tiến nhanh đến việc khắc phục sự ức chế này, tôi đã để tâm xem xét đến cách chữa trị bằng thôi miên. Cô không thể nhớ tí gì đến những lần chấn thương đặc biệt nào trong lúc thơ ấu có thể giải thích được sự sợ hãi lan tràn trong đời cô.

Vì cô gắng sức căng tâm trí ra để mà nhớ lại, những mảng ký ức riêng biệt đã xuất hiện. Khi cô năm tuổi, cô đã kinh sợ khi một người nào đó đẩy cô từ cái cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô nói là ngay cả đến trước khi việc xẩy ra này, cô không bao giờ thấy thoải mái ở dưới nước. Khi Catherine mười một tuổi, mẹ cô bị suy nhược trầm trọng. Mẹ cô bỏ nhà một cách kỳ cục, đòi hỏi phải được khám bệnh bởi một bác sĩ tâm thần với sự điều trị bằng sốc điện. Cuộc điều trị này đã khiến cho mẹ cô rất khó nhớ lại các sự việc. Kinh qua việc này với mẹ cô làm Catherine sợ hãi, nhưng, vì mẹ cô đã đỡ nhiều và trở lại như xưa, Catherine nói, những nỗi sợ hãi của cô tiêu tan. Cha cô là một người rượu chè và đôi khi người anh Catherine phải tìm đến quán rượu địa phương để đưa ông về. Cha cô càng ngày càng uống nhiều rượu dẫn đến đánh lộn thường xuyên. Mẹ cô, bà trở nên ủ rũ và thu mình lại. Tuy nhiên Catherine thấy đó là mẫu hình gia đình đã được chấp nhận.

Mọi sự tốt hơn bên ngoài gia đình. Cô có hò hẹn ở trường trung học và hòa đồng dễ dàng với bạn bè, đa số bạn cô, cô biết họ đã nhiều năm. Tuy nhiên cô thấy thật khó mà tin người, nhất là những người ở ngoài nhóm bè bạn nhỏ nhoi của cô.

Tôn giáo của cô thì bình dị và không có vấn đề gì. Cô được nuôi dưỡng để tin vào hệ tư tưởng cách tu tập của Cơ Đốc Giáo truyền thống, và thực sự là chẳng bao giờ cô hoài nghi về tính đứng đắn và giá trị của Cơ Đốc Giáo. Cô tin rằng nếu bạn là một người Cơ Đốc ngoan đạo và sống đúng bằng cách tuân theo niềm tin và nghi thức, sẽ được lên thiên đàng, nếu không bạn sẽ phải chuộc tội hay địa ngục. Thượng Đế Cha và Con Ngài ban ra những quyết định cuối cùng. Sau này tôi được biết Catherine không tin luân hồi; thật ra cô biết rất ít về khái niệm này, tuy thỉnh thoảng cô có đọc về những người Ấn Giáo. Luân hồi là một ý niệm trái ngược với sự dạy dỗ và hiểu biết của cô. Cô không bao giờ đọc sách về siêu hình hay huyền bí, vì chẳng bao giờ để ý đến chuyện ấy. Cô vững tin vào tín ngưỡng của mình.

Sau trung học, cô hoàn tất hai năm kỹ thuật, trở thành một chuyên viên phòng thí nghiệm. Có một nghề nghiệp và được khuyến khích bởi người anh, cô chuyển về Tampa, giành được chỗ làm ở Miami tại một bệnh viện huấn nghiệp lớn liên kết với Trường Đại Học Y Khoa Miami. Cô dọn về Miami vào mùa xuân năm 1974 lúc 21 tuổi.

Hóa ra là đời sống của Catherine ở Miami lại khó khăn hơn ở một thành phố nhỏ, tuy nhiên cô thấy sung sướng là đã thoát khỏi những vấn đề gia đình.

Trong năm đầu tại Miami, Catherine gặp Stuart. Là người Do Thái hai con, Stuart khác hẳn với những người mà cô từng hò hẹn. Anh là một thầy thuốc thành công, mạnh mẽ và năng động. Có một quá trình bí mật không cưỡng nổi giữa hai người, nhưng cuộc ngoại tình của họ không vững chắc và đầy bão tố. Một cái gì đó ở anh đã lôi cuốn tình cảm mạnh mẽ của cô và đã tỉnh thức cô, như thể cô bị anh mê hoặc. Vào lúc Catherine bắt đầu chữa bệnh, cuộc tình với Stuart đã được sáu năm, vẫn còn rất mặn nồng nếu không phải là sâu đậm. Catherine không thể cưỡng lại nổi Stuart tuy anh đối xử với cô không đẹp, và cô tức giận về những dối trá, không giữ lời hứa và những mánh khóe của anh.

Một vài tháng trước khi gặp tôi để khám bệnh, Catherine cần phải giải phẫu dây thanh vì một khối u lành. Cô đã rất lo lắng trước khi giải phẫu và hết sức kinh hoàng lúc tỉnh lại tại phòng hồi sức. Phải mất nhiều giờ ban trợ y mới làm cho cô bình tĩnh lại được. Sau khi bình phục ở bênh viện, cô bèn tìm đến Bác Sĩ Edward Poole. Bác sĩ Edward là một bác sĩ nhi khoa rất tốt bụng mà Catherine đã gặp trong khi làm việc tại bệnh viện. Hai người đều cảm thấy có ngay mối quan hệ và nảy nở tình bạn hữu thân thiết. Catherine bầy tỏ hết với Bác sĩ Edward, cho biết về những sợ hãi, quan hệ với Stuart, và cô cảm thấy mất tự chủ trong cuộc sống. Bác Sĩ Edward khăng khăng bảo cô gặp tôi, chỉ tôi chứ không bác sĩ tâm thần đồng nghiệp nào khác để chữa bệnh. Khi Edward điện thoại cho tôi để giới thiệu, ông giải thích, vì lý do nào đó, ông nghĩ rằng chỉ có tôi mới có thể hiểu tường tận Catherine, dù cho các bác sĩ tâm thần khác cũng rất có tín nhiệm và là những bác sĩ chuyên khoa lành nghề. Tuy nhiên Catherine không gọi tôi.

Tám tuần lễ trôi qua. Là Viện Trưởng Khoa tâm thần, tôi rất bận với công việc nên đã quên bẵng cuộc điện đàm với Bác sĩ Edward. Sợ hãi và ám ảnh sợ hãi của Catherine trở nên tồi tệ. Bác Sĩ Frank Acker, trưởng Khu phẫu thuật, tình cờ biết Catherine từ nhiều năm, thường đùa vui với Catherine khi ông đến thăm phòng thí nghiệm nơi Catherine làm việc. Ông cảm thấy cô không vui và bị căng thẳng. Mấy lần ông muốn nói với cô song lại lưỡng lự. Một buổi chiều, Frank lái xe trên một con đường nhỏ để ra khỏi bệnh viện để tới nơi thuyết trình. Trên đường đi, ông thấy Catherine lái xe về nhà ở gần bệnh viện, ông vội vẫy cô vào lề đường, rồi nói to với Catherine, " Tôi muốn Catherine gặp ngay Bác Sĩ Weiss", ông la lên qua kính xe "Không được chậm trễ". Mặc dầu các bác sĩ giải phẫu thường thôi thúc hành động, nhưng ngay cả Frank cũng ngạc nhiên là làm sao ông đã nhấn mạnh đến nhường nào.

Những cơn sợ hãi và lo âu ngày càng hay xảy ra và kéo dài dài. Cô bắt đầu bị hai cơn ác mộng tái phát. Một ác mộng về một cây cầu sập khi cô đang lái xe qua cầu. Xe cô đâm xuống nước, cô bị mắc kẹt và chết đuối. Trong ác mộng thứ hai, cô bị kẹt ở trong căn phòng quét hắc ín đen, trượt chân và vấp vào mọi thứ, không thể tìm thấy lối ra. Cuối cùng cô đã đến gặp tôi.

Lần chữa trị đầu tiên, tôi không hình dung là cuộc sống của tôi sắp đảo ngược mà người thiếu nữ sợ sệt bối rối ngồi bên kia bàn tôi, là chất xúc tác, và tôi không bao giờ còn như trước nữa.
CHƯƠNG HAI

Mười tám tháng tâm lý liệu pháp trôi qua, Catherine đến gặp tôi một hay hai lần một tuần. Cô là một bệnh nhân tốt, bộc lộ, có khả năng hiểu thấu, và muốn hồi phục nhanh chóng.

Trong thời gian này, chúng tôi khảo sát tỉ mỉ cảm nghĩ, tư tưởng và những giấc mộng của cô. Công nhận kiểu ứng xử hay tái diễn giúp cô có sự sáng suốt và hiểu biết. Cô đã nhớ được nhiều chi tiết có ý nghĩa về quá khứ của cô, chẳng hạn như cha cô buôn bán đường biển thường vắng nhà và thỉnh thoảng rất hung tợn sau khi uống nhiều rượu. Cô hiểu nhiều hơn về sự quan hệ của cô với Stuart, và cô bộc lộ cơn giận một cách thích đáng. Tôi cảm thấy lẽ ra cô khá hơn nhiều. Bệnh nhân hầu như thường khá hơn khi họ nhớ lại được những ảnh hưởng không mấy vui trong quá khứ, khi họ biết công nhận và sửa chữa kiểu ứng xử vụng dại và khi họ phát triển sự sáng suốt và xem những trở ngại của họ bằng cách nhìn rộng rãi hơn và khách quan hơn. Nhưng Catherine không mấy khá lên.

Lo âu và kinh sợ vẫn hành hạ cô. Cơn ác mộng mạnh tái diễn tiếp tục và cô vẫn sợ bóng tối, sợ nước, và sợ bị vây. Giấc ngủ của cô vẫn chập chờn và không khoan khoái. Tim cô hồi hộp. Cô tiếp tục từ chối bất cứ thuốc gì, sợ bị nghẹn khi uống các viên thuốc. Tôi cảm thấy như thể tôi tiến tới trước một bức tường, và dù tôi đã làm gì đi nữa, bức tường ấy vẫn quá cao và chẳng ai trong chúng tôi có thể vượt qua được bức tường ấy. Mặc dầu cảm nghĩ thất vọng, một cảm giác quyết tâm đến với tôi. Dù thế nào, tôi vẫn giúp Catherine.

Và rồi một sự việc lạ lùng xẩy ra. Mặc dù cô rất sợ hãi phải đi máy bay và phải trấn an mình bằng vài ly rượu trong khi đi máy bay, nhưng Catherine đã cùng Stuart đi dự một cuộc hội thảo y khoa vào mùa xuân năm 1982. Tại đây, cô thúc Stuart đi xem cuộc triển lãm Ai Cập tại viện bảo tàng nghệ thuật ở Chicago, nơi đây cô và Stuart đi theo một đoàn du khách.

Catherine luôn luôn quan tâm đến những đồ tạo tác cổ của Ai Cập và những phiên bản di vật ở thời kỳ đó. Cô không phải là một học giả và cũng chưa bao giờ nghiên cứu lịch sử thời kỳ ấy, nhưng không biết làm sao những vật ấy dường như rất quen thuộc với cô.

Khi người hướng dẫn miêu tả một số đồ tạo tác trong cuộc triển lãm, cô thấy người này nói sai, và cô đã sửa lại cho đúng, và cô nói đúng ! Người hướng dẫn ngạc nhiên và Catherine cũng ngỡ ngàng. Làm sao cô đã biết những thứ như vậy? Tại sao cô cảm thấy mình rất đúng, chắc chắn và đến nỗi sửa sai cho người hướng dẫn trước công chúng? Có lẽ những ký ức bị lãng quên từ khi còn thơ ấu được nhớ lại.

Vào lần khám bệnh kế tiếp, cô kể cho tôi nghe điều đã xẩy ra. Mấy tháng trước đây, tôi có đề nghị dùng thôi miên, nhưng Catherine sợ hãi và từ chối. Vì việc xảy ra tại cuộc triển lãm Ai Cập, bây giờ cô miễn cưỡng đồng ý.

Thôi miên là một công cụ tuyệt hảo để giúp bệnh nhân nhớ lại những việc xẩy ra đã bị quên lãng từ lâu. Không có gì là huyền bí cả về việc này. Đó chỉ là một trạng thái thái tập trung. Theo chỉ dẫn của một nhà thôi miên thành thạo, cơ thể bệnh nhân thư giãn, làm cho ký ức nhậy bén. Tôi đã thôi miên cả trăm bệnh nhân và thấy rằng thôi miên giúp giảm bớt lo âu, loại bỏ được chứng sợ hãi, thay đổi được thói quen xấu, và giúp nhớ được dữ kiện bị kìm nén. Có dịp tôi đã thành công trong việc giúp bệnh nhân hồi nhớ lại thời kỳ thơ ấu, thậm chí lúc họ mới hai hay ba tuổi, do đó gợi lại được những ký ức về những chấn thương bị lãng quên từ lâu đã ngăn trở cuộc sống của họ. Tôi tin thôi miên có thể giúp Catherine.

Tôi bảo Catherine nằm trên giường khám bệnh, mắt nhắm hờ và đầu nằm trên một gối nhỏ. Đầu tiên chúng tôi tập trung vào hơi thở của cô. Với mỗi lần thở ra cô giải thoát sự căng thẳng và lo âu chất chứa và mỗi lần hít thở cô thư giãn nhiều hơn nữa. Sau ít phút như vậy tôi bảo cô hãy tưởng tượng là cơ bắp từ từ thư giãn, bắt đầu từ cơ bắp mặt và hàm, rồi đến cổ và vai, cánh tay, lưng, cơ bắp bụng, và sau cùng là chân. Cô cảm thấy toàn ngày càng chìm sâu vào giường khám bệnh.

Rồi tôi bảo cô hãy mường tượng một ánh sáng trắng chói lọi ở đỉnh đầu cô, trong thân thể cô. Sau đó khi tôi đem ánh sáng lan tỏa xuống cơ thễ cô, nó hoàn toàn làm giãn mọi cơ bắp, mọi dây thần kinh, mọi cơ quan - tất cả thân thể - đưa cô vào một trạng thái thư giãn sâu xa và an bình. Cô cảm thấy ngày càng buồn ngủ hơn, an ổn và bình tĩnh càng nhiều hơn. Cuối cùng theo chỉ dẫn của tôi, ánh sáng tràn ngập cơ thể cô cũng như bao quanh cô.

Tôi đếm ngược chậm rãi từ số mười đến số một. Với mỗi số, cô tiến sâu vào mức độ thư giãn. Cô chìm vào trạng thái hôn mê. Cô có thể tập trung vào giọng nói của tôi và loại trừ tất cả những tiếng ồn ào chung quanh. Khi đếm tới số một, cô đã ở tình trạng bị thôi miên trung bình. Toàn bộ tiến trình mất khoảng 20 phút.

Sau một lúc tôi bắt đầu hướng cô về quá khứ, yêu cầu cô nhớ lại những ký ức về thời thơ ấu. Cô có thể nói chuyện và trả lời câu hỏi của tôi trong khi duy trì ở mức độ thôi miên sâu. Cô nhớ lại sự việc khó chịu tại phòng nha sĩ khi cô sáu tuổi. Cô nhớ lại rõ ràng sự việc hãi hùng lúc 5 tuổi khị cô bị đẩy từ cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô bị tắc và nghẹn, bị uống nước, và trong khi nói chuyện về việc này, cô bắt đầu như nghẹn tại phòng khám của tôi. Tôi nói với cô việc này đã qua rồi, và cô đã ra khỏi nước. Ngừng tắc nghẹn và cô thở lại bình thường.Cô vẫn ở trong trạng thái hôn mê sâu.

Vào năm ba tuổi, một sự cố xấu nhất đã xẩy ra. Cô nhớ cô tỉnh giấc trong phòng ngủ tối tăm và thấy cha cô ở trong phòng. Ông ta nồng nặc mùi rượu và lúc này cô vẫn còn ngửi thấy mùi đó. Ông ta sờ mó cô và xoa đến cả "phía dưới" của cô. Cô quá kinh hãi và bắt đầu khóc, ông ta bịt miệng cô bằng bàn tay thô bạo của ông. Cô không thở được. Trong phòng mạch của tôi, hai mươi lăm năm sau, trên giường khám bệnh Catherine bắt đầu thổn thức. Tôi cảm thấy bây giờ chúng tôi đã có được tin tức, chìa khóa để mở cửa. Tôi chắc chắn những triệu chứng sẽ được cải tiến nhanh và mạnh mẽ. Tôi nhẹ nhàng bảo cô, chuyện đó đã qua rồi, và cô không còn ở trong phòng ngủ nữa, mà đang thanh thản và vẫn đang hôn mê. Cô hết thổn thức. Cuối cùng tôi đem cô về tuổi hiện thời. Tôi đánh thức cô sau khi đã bảo cô, bằng hậu thôi miên, hãy nhớ tất cả những gì cô đã nói với tôi. Chúng tôi đã dùng thời gian còn lại của buổi điều trị bàn luận về ký ức sống động đột xuất về chấn thương với cha cô. Tôi cố gắng giúp cô chấp nhận và bổ sung vào kiến thức "mới" của mình. Bây giờ cô hiểu mối quan hệ với cha cô, phản ứng của ông ta với cô, sự cách biệt của người cha, và sự sợ hãi người cha của cô. Cô vẫn còn bàng hoàng khi rời phòng mạch, nhưng tôi biết sự hiểu biết mà cô đạt được rất đáng giá với một chốc lát khó chịu.

Trong loạt sự việc khi phát hiện cô có ký ức bị kiềm chế sâu và đau đớn, tôi đã quên hẳn không xem xét đến việc cô có thể có liên quan tới kiến thức về đồ tạo tác Ai Cập. Nhưng ít nhất cô đã hiểu thêm về quá khứ của mình. Cô đã nhớ được vài biến cố kinh hoàng, và tôi trông đợi một sự cải thiện đáng kể về những triệu chứng của cô.

Bất chấp sự hiểu biết này, tuần lễ sau đó cô thông báo là, những triệu chứng vẫn như cũ và có phần nặng hơn. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không thể hiểu nổi có điều gì không đúng. Có thể có điều gì xẩy ra trước lúc cô ba tuổi? Chúng tôi đã phát hiện quá đủ những lý do về sự sợ hãi bị nghẹn, sợ nước, sợ bóng tối, và sợ mắc bẫy, vậy mà sự sợ hãi nhức nhối và các triêu chứng, sự lo âu bất trị soát vẫn hoành hành lúc cô thức. Những cơn ác mộng vẫn khủng khiếp như trước. Tôi quyết định đưa cô về quá khứ xa hơn nữa.

Trong khi thôi miên, Catherine đã thì thầm nói chậm và thong thả. Do đó tôi đã có thể viết xuống từng lời cô và đã trích dẫn trực tiếp những lời cô nói. (Hiện tượng thiếu mạch lạc rõ ràng những lúc nghỉ trong câu nói, không phải là xóa bỏ hay là sự biên tập của tôi. Tuy nhiên một số dữ kiện lặp đi lặp lại không được bao gồm ở đây).

Từ từ, tôi đưa Catherine quay về lúc hai tuổi, nhưng cô không nhớ được những ký ức có ý nghĩa. Tôi chỉ dẫn minh bạch và dứt khoát :" Hãy quay về lúc các triệu chứng phát sinh". Tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì cho việc sắp xẩy ra.

"Tôi nhìn thấy những bậc thềm mầu trắng dẫn đến một tòa nhà, một tòa nhà trắng lớn với những cột nhà to, phía trước trống trải. Không có ô cửa nào. Tôi mặc y phục dài..... cái áo choàng làm bằng vật liệu thô sơ. Tóc tôi bện lại, mớ tóc màu vàng hoe dài"

Tôi bối rối. Tôi không biết chắc điều đang xẩy ra. Tôi hỏi cô, đó là năm nào , và tên là gì . "Aronda... , tôi mười tám tuổi. Tôi thấy một cái chợ trước tòa nhà. Có những cái thúng.....họ mang những cái thúng trên vai. Chúng tôi sống ở một thung lũng ..... Không có nước. Năm 1863 trước Công Nguyên. Vùng này trơ trụi, nóng và có cát. Có một cái giếng, không có sông. Nước từ núi chảy vào thung lũng".

Sau khi kể lại nhiều chi tiết về địa hình, tôi bảo cô hãy đi tới một vài năm xa hơn và nói cho tôi biết cô thấy gì.

"Có cây cối và một con đường đá. Tôi thấy bếp lửa để nấu nướng. Tóc tôi màu vàng hoe. Tôi đang mặc y phục dài mầu nâu sồng và đi dép. Tôi 25 tuổi. Tôi có một đứa con gái, tên nó là Cleatra... Cleatra là Rachel (Rachel hiện là cháu của cô, cô và Rachel quan hệ với nhau rất mật thiết). Trời rất nóng."

Tôi giật mình. Dạ dày tôi thắt lại, và căn phòng lạnh lẽo. Những tưởng tượng và hồi tưởng của cô dường như qúa rõ ràng. Cô không một chút do dự gì. Tên, ngày tháng, quần áo, cây cối, tất cả được thấy một cách sống động ! Cái gì đã diễn ra nơi đây? Làm sao một đứa con của cô có bây giờ lại là cháu cô? Tôi bối rối hơn. Tôi đã khám nghiệm cả ngàn người bệnh tâm thần, rất nhiều người bằng thôi miên, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này - ngay cả trong mơ. Tôi chỉ dẫn cho cô đi xa hơn lúc cô chết. Tôi không biết chắc cách phỏng vấn người nào đó đang ở trong một hiện tượng kỳ quặc rõ ràng ( hay ký ức) , nhưng tôi đang tìm kiếm những biến cố gây chấn thương có thể nằm dưới những sợ hãi và triệu chứng hiên nay. Những biến cố lúc gần chết có thể đặc biệt gây chấn thương. Hình như, lũ lụt hay sóng thủy triều đang tàn phá làng này.

"Có những cơn sóng lớn quật đổ cây cối. Không có chỗ nào mà chạy đến. Trời lạnh; nước lạnh. Tôi phải cứu con tôi, nhưng tôi không thể ... . . chỉ ôm con thật chặt. Tôi chết đuối. Nước làm tôi bị nghẹt. Tôi không thể thở được, không thể nuốt được... nước mặn. Con tôi bị giằng ra khỏi tay tôi".

Catherine hổn hển và khó thở. Đột nhiên cơ thể của cô thư giãn hoàn toàn, và hơi thở của cô trở nên sâu và điều hòa.

"Tôi nhìn thấy những đám mây ... Con tôi nay với tôi. Và những người khác trong làng tôi. Tôi thấy anh tôi"

Cô đang nghỉ ngơi; cuộc sống này đã chấm dứt. Cô vẫn ở trong hôn mê sâu. Tôi ngỡ ngàng ! Những kiếp trước? Luân hồi? Năng lực trí lực trị liệu bảo tôi rằng cô không bịa đặt ra chuyện này, cô không dựng chuyện. Tư tưởng, cách trình bày của cô, sự chú ý đến những chi tiết đặc biệt, tất cả đều khác với trạng thái có ý thức của cô. Toàn bộ cung bậc khả năng chẩn bệnh tâm thần lóe lên trong tâm trí tôi, nhưng trạng thái tâm thần và cấu trúc cá tính của cô không giải thích nổi những khám phá này. Loạn tinh thần? Không, cô chưa bao giờ có chứng cớ nào bị rối loạn suy nghĩ hay nhận thức. Cô chưa bao giờ mắc chứng ảo giác về việc nghe tiếng, về thị giác hay ảo ảnh khi thức, hay bất cứ loại nào khác trong các giai đoạn thần kinh. Cô không ảo tưởng cũng chẳng xa rời thực tế. Cô không có nhiều cá tính hay chứng tâm thần phân lập. Chỉ có một Catherine, và tâm thức của cô hoàn toàn biết việc này. Cô không mỵ dân và không có khuynh hướng xa lánh hay chống xã hội. Cô cũng không phải là một nữ tài tử. Cô không dùng ma túy và cũng không ăn các chất gây ảo giác. Cô rất ít uống rượu. Cô không có bệnh thần kinh hay tâm lý có thể giải thích kinh nghiệm trực tiếp rõ ràng này trong khi thôi miên.

Có những ký ức nào đó nhưng từ đâu? Phản ứng chính của tôi là tôi đã vấp phải cái gì đó mà tôi biết rất ít - luân hồi và những ký ức tiền kiếp. Tôi nhủ thầm không phải là tâm trí được đào tạo một cách khoa học của tôi chống lại việc đó. Nhưng ở đây nó đang xẩy ra ngay trước mắt tôi. Tôi không thể giải thích nổi, mà cũng không thể phủ nhận sự thật của nó.

Tôi nói, "tiếp tục", một chút nản lòng nhưng bị quyến rũ về cái đang xẩy ra. " Cô còn nhớ gì nữa không?" Cô nhớ lại một vài phần của hai kiếp khác.

"Tôi mặc y phục dài có dải áo đen, có một dải đen trên đầu tôi. Mái tóc đen của tôi đã ngả muối tiêu. Đó là năm 1756 sau công nguyên. Tôi là người Tây Ban Nha. Tên tôi là Louisa và tôi 56 tuổi. Tôi đang khiêu vũ, và những người khác cũng đang khiêu vũ. (ngừng lại lâu) Tôi bị ốm. tôi bị sốt, cảm lạnh. Rất nhiều người bị bệnh; nhiều người đang bị chết... Các bác sĩ không biết là do nước."

Tôi bảo cô nói về thời gian sau đó. "Tôi bình phục, nhưng đầu tôi vẫn đau; mắt tôi và đầu tôi vẫn đau do sốt , do nước... Nhiều người chết.

Sau này cô nói với tôi cô là gái mãi dâm trong kiếp đó nhưng cô không tiếp tục tin tức này vì cô bị bối rối bởi tin ấy. Hiển nhiên, trong khi bị thôi miên, cô đã có thể kiểm duyệt những ký ức truyền cho tôi.

Vì Catherine công nhận cháu gái của cô trong một tiền kiếp, tôi bốc đồng hỏi cô có bao giờ tôi hiện diện trong kiếp sống nào của cô không. Tôi tò mò về vai trò của tôi nếu có trong những ký ức của cô. Cô trả lời ngay, trái với sự chậm rãi và thong thả trước đây.

"Ông là thầy giáo của tôi, ngồi trên bục giảng. Ông dạy chúng tôi từ những cuốn sách. Ông già và tóc muối tiêu. Ông mặc áo dài có viền vàng... . Tên ông là Diogenes. Ông dạy chúng tôi ký hiệu, tam giác. Ông rất khôn ngoan, nhưng tôi không hiểu. Đó là năm 1568 trước Công nguyên. ( Xấp xỉ một nghìn hai trăm năm trước nhà triết học khuyến nho nổi tiếng Diogenes. Tên này không phải là một cái tên khác thường)

Buổi đầu tiên kết thúc. Những buổi lạ lùng hơn còn tiếp theo.

Sau khi Catherine đi khỏi, và tiếp theo vài ngày sau đó, tôi cân nhắc những chi tiết về thôi miên lùi về dĩ vãng. Cân nhắc là điều tự nhiên với tôi. Có ngay cả đến trong việc điều trị "bình thường" ít chi tiết xuất hiện thoát khỏi sự phân tích tinh thần ám ảnh của tôi, và buổi điều trị này hầu như không "bình thường". Hơn nữa, tôi rất hoài nghi về đời sống sau khi chết, luân hồi, xuất hồn, và những hiện tượng liên quan. Tóm lại, phần lo gic của tôi suy gẫm đây có thể là sự tưởng tượng của cô ta. Thực tế là tôi không thể chứng minh bất cứ những khẳng định hay sự mường tượng của cô ta. Nhưng tôi cũng nhận thức một tư tưởng ít nhiều xúc động hơn và sâu xa hơn tuy không mấy rõ ràng. Giữ tâm trí mở rộng, tư tưởng nói, khoa học thực sự bắt đầu bằng khảo sát. "Những ký ức" của cô có thể không phải là quái dị hay tưởng tượng. Có thể là một thứ gì đó nhiều hơn được trông thấy - hay bất cứ giác quan nào khác. Hãy giữ tâm mở rộng. Hãy tìm nhiều dữ kiện hơn.

Tôi có một tư tưởng dai dẳng khác. Có nên để Catherine bắt đầu lo âu và sợ hãi, bị quá kinh hoàng lại trải qua thôi miên nữa không? Tôi quyết định không gọi cô. Hãy để cho cô hiểu thấu kinh nghiệm này đi đã. Tôi sẽ đợi cô đến tuần lễ tới.
CHƯƠNG BA

Một tuần lễ sau, Catherine nhún nhẩy đến phòng mạch tôi cho buổi thôi miên kế tiếp. Mở đầu rất đẹp, cô trông rạng rỡ hơn bao giờ hết. Cô sung sướng báo rằng nỗi sợ suốt đời bị chết đuối đã biến mất. Nỗi sợ bị nghẹn cũng được giảm bớt một chút. Giấc ngủ của cô không còn bị gián đoạn bởi ác mộng về cầu gẫy. Mặc dù cô nhớ những chi tiết về tiền kiếp, nhưng cô chưa thực sự thâm nhập vào thực chất.

Quan niệm về tiền kiếp và luân hồi xa lạ với vũ trụ học của cô, và tuy những ký ức quá sống động, quang cảnh, âm thanh và mùi vị quá rõ ràng, sự nhận biết rằng cô đã ở đấy quá mạnh và trực tiếp, cô cảm thấy hẳn là cô đã thực sự ở đấy. Cô không nghi ngờ gì cả; việc xẩy ra quá mạnh. Tuy cô quan tâm đến việc làm sao điều đó lại thích hợp với sự nuôi nấng và niềm tin của cô.

Trong tuần đó tôi có xem lại sách giáo khoa từ một khóa dạy về sự so sánh các tôn giáo trong năm đại học đầu tiên của tôi tại Columbia. Quả thật có nhắc đến luân hồi trong Cựu và Tân Ước. Vào năm 325 sau Công nguyên, Hoàng Đế La Mã Constantine Đại Đế, cùng với người mẹ, Hellena, đã hủy bỏ những trang đề cập đến luân hồi ghi trong Tân Ước. Đại Hội Đồng Đệ Nhị

tại Constantinople họp vào năm 553 sau Công nguyên, xác nhận việc làm này, và tuyên bố quan niệm luân hồi là một dị giáo. Hiển nhiên, họ nghĩ quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của Giáo Hội bởi nó cho con người quá nhiều thời gian để tìm sự cứu rỗi. Tuy vậy những dẫn chứng gốc đã là điểm đó, các cha cố trong Giáo Hội cổ đã chấp nhận quan niệm về luân hồi. Những người Ngộ Đạo thời cổ - Clement ở Alexandria, Origen, Saint Jerome, và nhiều khác nữa - tin rằng họ đã sống trước đó và sẽ sống lại nữa.

Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào luân hồi. Thực tế là tôi chưa bao giờ bỏ nhiều thì giờ suy nghĩ về việc này. Mặc dù việc dạy dỗ về tôn giáo trước đây của tôi có dạy tôi một loại hiện hữu mập mờ nào đó về "linh hồn" sau khi chết, nhưng quan niệm ấy không thuyết phục được tôi.

Tôi là anh cả của bốn anh em, tất cả cách nhau ba tuổi. Chúng tôi là thành viên của Giáo đường bảo thủ Do Thái ở Red Bank, một thành phố nhỏ gần bờ biển ở New Jersey. Tôi là người hòa giải và chính khách trong gia đình. Cha chúng tôi dính líu vào tôn giáo nhiều hơn tất cả chúng tôi. Ông theo tôn giáo rất nghiêm túc, ông theo tôn giáo suốt cả đời. Thành tích học hành của các con là niềm vui lớn lao nhất trong đời ông. Ông dễ bị bối rối trước sự bất hòa trong gia đình và rút lui để tôi hòa giải. Mặc dầu hóa ra điều đó là sự rèn luyện tuyệt vời cho một sự nghiệp trong tâm thần học, nhưng hồi tưởng lại thời thơ ấu của tôi nặng nề hơn và trách nhiệm nhiều hơn tôi muốn. Tôi nổi bật từ đó là một thanh niên nghiêm nghị, là người quen chịu nhiều trách nhiệm.

Mẹ tôi luôn luôn biểu lộ lòng thương yêu của bà. Không có giới hạn nào ngăn cản bà. Một người bình dị hơn cha tôi, bà lợi dụng tội lỗi, nỗi thống khổ, sự bối rối cùng cực, và sự đồng cảm chung với các con làm công cụ lôi kéo, hoàn toàn không đắn đo. Tuy nhiên bà ít khi buồn rầu, và lúc nào chúng tôi cũng có thể tin chắc vào tình yêu và sự hỗ trợ của bà.

Cha tôi có một công việc tốt, nhiếp ảnh công nghệ, và tuy chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm, nhưng tiền bạc rất eo hẹp. Người em út của tôi, Peter, sinh ra năm tôi 9 tuổi. Sáu người gia đình chúng tôi chia nhau trong hai căn phòng ngủ nhỏ.

Sinh hoạt trong căn phòng nhỏ này thật là bề bộn và ồn ào, và tôi tìm nơi nương tựa ở sách vở. Tôi không ngừng đọc sách khi không chơi bóng chày hay bóng rổ, những đam mê khác ở thời thơ ấu của tôi. Tôi biết học hành là con đường ra khỏi thành phổ nhỏ này, yên tâm với ý nghĩ đó, tôi luôn luôn đứng thứ nhất nhì trong lớp học.

Vào lúc tôi được học bổng toàn phần của trường Đại Học Columbia, tôi là một thanh niên đứng đắn và chăm chỉ. Thành công đại học đến với tôi dễ dàng. Tôi theo ngành hóa học và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sĩ tâm thần vì lĩnh vực này gồm cả sự quan tâm đến khoa học và thích thú của tôi với nhiều công việc về tâm con người. Hơn nữa, nghề y khoa sẽ cho phép tôi bày tỏ sự quan tâm và lòng trắc ẩn với người khác. Trong lúc đó tôi gặp Carole trong kỳ nghỉ hè tại khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi đang là hầu bàn phụ và Carole là chiêu đãi viên. Chúng tôi nếm mùi lôi cuốn lẫn nhau ngay và cảm giác thân tình và thoải mái mạnh mẽ. Chúng tôi thư từ, hẹn hò, yêu nhau, đính hôn vào năm tôi ở năm thứ hai trường Đại Học Columbia. Nàng vừa thông minh vừa đẹp. Mọi sự dường như rơi vào đúng chỗ. Một số ít có người trẻ tuổi lo về đời sống và cái chết và đời sống sau cái chết, nhất là khi mọi thứ trôi chẩy êm đềm, và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đang trở thành một khoa học gia, và đang học cách suy nghĩ theo kiểu cách lô gic, vô tư, "chứng minh đúng".

Hơn nữa, trường y khoa và khu nội trú ở Đại Học Yale đã kết tinh phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về não bộ hóa chất và vai trò của thần kinh truyền tin là những thông tin hóa chất trong mô não.

Tôi theo ngành mới về tâm sinh lý, ngành hợp nhất những lý thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống mới về hóa chất bộ não. Tôi viết nhiều bài về khoa học, thuyết giảng tại các hội nghị địa phương và toàn quốc, và trở thành một người năng động thành công trong lĩnh vực của tôi. Tôi hơi bị ám ảnh, sôi nổi và cứng rắn, nhưng đó là những điểm hữu ích cho một thầy thuốc. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để chữa trị cho bất cứ ai bước vào phòng mạch tôi để chữa bệnh.

Rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1863 trước Công nguyên. Hay đó là một cách nào khác? Và nơi đây tôi chứng kiến cô lại vui vẻ hơn bao giờ hết.

Tôi lại lo là Catherine sẽ tiếp tục sợ hãi. Tuy nhiên, cô nhiệt tình sửa soạn cho buổi thôi miên và đắm chìm ngay.

"Tôi đang ném những vòng hoa xuống nước. Đó là một nghi lễ. Tóc tôi vàng hoe và được tết lại. Tôi mặc một bộ nâu viền vàng, và mang dép. Một người nào đó chết, một người nào đó trong Hoàng gia ... người mẹ. Tôi là một người hầu trong Hoàng Gia, và tôi giúp làm đồ ăn. Chúng tôi để thi hài vào trong nước muối ba mươi ngày. Người ta làm khô và các bộ phận được lấy đi. Tôi có thể ngửi thấy, mùi của các xác."

Tự nhiên cô quay về kiếp sống Aronda, nhưng ở một giai đoạn khác, vào lúc nhiệm vụ của Aronda là phải sửa soạn các xác sau khi họ chết.

Catherine tiếp tục, "trong một tòa nhà riêng biệt, tôi có thể nhìn thấy những xác chết. Chúng tôi bọc những xác ấy lại. Linh hồn đi qua. Hãy mang theo đồ đạc và hãy sửa soạn cho kiếp tới, một kiếp vĩ đại hơn". Cô đang bầy tỏ cái dường như giống quan niệm về cái chết và kiếp mới sau khi chết của một người Ai Cập, khác hẳn bất cứ niềm tin nào của chúng ta. Theo tôn giáo đó, bạn có thể mang theo đồ đạc.

Cô rời bỏ kiếp sống này và yên nghỉ. Cô ngưng lại vài phút trước khi đi vào thời cổ đại.

"Tôi thấy đá đóng băng, lủng lẳng trong hầm ... vách đá ... " Cô mơ hồ miêu tả một chỗ tối tăm khổ sở, và trông cô lúc này rất khó chịu. Sau này cô đã miêu tả cô nhìn thấy chính cô. "Tôi rất xấu xí, bẩn thỉu và hôi hám". Cô rời bỏ đi vào một thời gian khác.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:29 am

"Có một số tòa nhà và một cái xe ngựa có bánh xe bằng đá. Tóc tôi nâu hoe với một cái nơ trên tóc. Xe ngựa chất đầy rơm. Tôi rất sung sướng. Cha tôi ở đấy ... Ông ôm hôn tôi. Đó là ... đó là Edward (bác sĩ khoa nhi nài nỉ cô đến gặp tôi). Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có nhiều cây. Có những cây ô liu và cây vả trong sân. Người ta viết trên giấy. Có những dấu vết buồn cười trên giấy, giống như chữ. Người ta viết cả ngày, làm thành một thư viện. Đó là năm 1536 trước Công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus."

Năm không đúng lắm, nhưng tôi chắc chắn cô ở trong cùng một kiếp mà cô đã thuật lại trong buổi thôi miên tuần trước. Tôi bảo cô giữ kiếp này nhưng đi ngược thời gian.

"Cha tôi biết ông (nghĩa là tôi). Ông và cha tôi nói về mùa màng, luật lệ, và chính phủ. Cha tôi nói ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông". Tôi đưa cô đi xa hơn nữa. "Ông nằm trong một phòng tối. Ông già và ốm đau. Trời lạnh ... Tôi cảm thấy trống rỗng ". Cô tiếp tục đến lúc chết.

"Bây giờ tôi già và yếu đuối. Con gái tôi ở đấy, gần giường tôi. Chồng tôi đã chết. Chồng con gái tôi cũng ở đấy cùng với các con của chúng. Có nhiều người chung quanh".

Lần này cái chết của cô an bình. Cô đang trôi nổi. Trôi nổi? Việc này khiến tôi nhớ đến những sự nghiên cứu của Bác Sĩ Raymond Moody về kinh nghiệm của những người sắp chết. Những đối tượng của ông cũng nhớ đến sự trôi nổi, rồi lại nhập vào xác thân. Trước đây mấy năm tôi đã có đọc cuốn sách của ông và bây giờ tôi quyết tâm sẽ đọc lại nữa. Tôi không biết Catherine có thể nhớ gì nữa sau khi chết, nhưng cô chỉ nói "tôi đang bay lơ lửng" Tôi đánh thức cô và chấm dứt buổi thôi miên.

Với niềm mong muốn khát khao tìm bất cứ tài liệu khoa học nào đã được xuất bản về luân hồi, tôi bèn đi lùng tại những thư viện y khoa. Tôi đã nghiên cứu công trình của Bác Sĩ Ian Stevenson, một vị giáo sư được kính nể về tâm thần học của Đại Học Virginia, người đã xuất bản nhiều tài liệu tâm thần học. Bác Sĩ Ian Stevenson đã thu thập hơn hai ngàn trường hợp về trẻ em có những ký ức và kinh nghiệm kiểu luân hồi. Nhiều trường hợp biểu lộ ngoại ngữ, khả năng nói tiếng ngoại quốc mà chúng chưa bao giờ bộc lộ. Những báo cáo về các trường hợp của ông được hoàn tất rất cẩn thận, được nghiên cứu kỹ, và rất xuất sắc.

Tôi đã đọc bài cái nhìn khái quát khoa học tuyệt vời của Edhar Mitchell. Với sự quan tâm lớn lao, tôi khảo sát dữ kiện ESP (tri giác ngoại cảm) của Trường Đại Học Duke, và những bài viết của Giáo sư C.J. Ducasse tại Đại Học Brown, và tôi đã phân tích kỹ lưỡng những công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Martin Ebon, Bác sĩ Helen Wambach, Bác sĩ Gertrude Schmeidler, Bác sĩ Frederick Lenz, và Bác sĩ Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm. Tôi bắt đầu hiểu rằng dù cho tôi đã coi mình là có học vấn về mọi phương diện của tâm trí, vốn học hành của tôi còn rất hạn chế. Nhiều thư viện tràn đầy những nghiên cứu tìm hiểu và tài liệu nhưng ít người biết đến nó. Nhiều các cuộc nghiên cứu đã được tiến hành, kiểm tra và tái tạo bởi những nhà trị liệu và khoa học tiếng tăm. Liệu tất cả những người đó có bị lầm lẫn hay bị lừa gạt không? Bằng chứng dường như hỗ trợ quá mạnh, tuy tôi vẫn nghi ngờ. Quá mạnh hay không, tôi thấy rất khó tin.

Catherine và tôi cả hai, bằng những con đường riêng, đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi thí nghiệm này. Catherine đang khá hơn về cảm tính, và tôi đang mở rộng tầm nhận thức của tôi. Catherine đã bị hành hạ nhiều năm bởi sợ hãi, và cuối cùng đang cảm thấy đỡ. Dù đó là những ký ức có thật hay những tưởng tượng sống động, tôi đã tìm ra được cách để giúp cô, và bây giờ tôi sẽ không ngưng lại.

Trong một lúc ngắn ngủi, tôi nghĩ về tất cả điều đó khi Catherine trôi dạt vào hôn mê lúc bắt đầu buổi thôi miên tiếp theo. Trước khi đi vào thôi miên, cô có nói đến một giấc mơ về một trò chơi trên những bậc thềm đá cổ, một trò chơi với một bàn cờ có lỗ. Giấc mơ dường như thật sống động nơi cô. Bấy giờ tôi bảo cô hãy quay trở về vượt qua giới hạn không gian và thời gian và xem có phải giấc mơ có nguồn gốc ở một hiện thân trước không.

"Tôi nhìn thấy những bậc thềm dẫn đến một tháp canh ... trông ra núi và biển. Tôi là một đứa con trai ... Tóc tôi vàng hoe ... , mái tóc lạ. Quần áo của tôi ngắn ngủn, màu nâu và trắng, làm bằng da thú. Một số người đứng trên đỉnh tháp, đang nhìn ra ... những lính gác. Họ rất bẩn thỉu. Họ chơi trò chơi giống như chơi cờ, nhưng không phải. Bàn cờ tròn không phải vuông. Họ chơi bằng những con cờ giống như dao găm sắc cắm vào lỗ. Những con cờ này có đầu thú. Địa hạt Kirustan (đánh vần theo âm) Địa hạt? Từ Hòa Lan, vào khoảng 1473.

Tôi hỏi tên chỗ cô ở và liệu cô có thể đến xem hay nghe một năm. " Bây giờ tôi đang ở một hải cảng; đất trải dài tới biển. Có một pháo đài ... và nước. Tôi thấy một cài chòi ... mẹ tôi đang nấu ăn trong cái nồi bằng đất sét. Tên tôi là Johan".

Cô tiến tới cái chết của cô. Vào lúc này trong buổi thôi miên, tôi vẫn tìm kiếm một biến cố chấn thương mạnh có thể gây ra hay giải thích những triệu chứng trong đời sống hiện tại của cô. Dù cho những tưởng tượng rõ ràng là khác thường này, và tôi không chắc chắn về điều đó, cái mà cô tin hay nghĩ ngợi vẫn có thể nằm dưới những triệu chứng. Tóm lại, tôi đã thấy nhiều người bị chấn thương bởi những giấc mơ của họ. Một số người không thể nhớ được liệu một chấn thương hồi thơ ấu thực sự đã xẩy ra hay xuất hiện trong giấc mơ, tuy ký ức về chấn thương này vẫn ám ảnh đời sống họ lúc trưởng thành.

Điều mà tôi chưa hoàn toàn cảm nhận là những ảnh hưởng gây tác hại hoành hành ngày lại ngày, cũng như những lời công kích cay nghiệt của cha mẹ, có thể gây chấn thương tâm lý nhiều hơn chỉ một biến cố chấn thương. Những ảnh hưởng tai hại này là do chúng pha trộn vào bối cảnh sống hàng ngày của chúng ta, rất khó để nhớ lại và xua đuổi chúng. Một đứa trẻ luôn luôn bị chỉ trích có thể mất nhiều lòng tin tưởng và lòng tự trọng như một người nhớ lại bị làm nhục vào một ngày đặc biệt hãi hùng nào đó. Một đứa trẻ ở trong một gia đình nghèo khổ chỉ có ít thực phẩm cho mỗi ngày có thể bị cùng những vấn đề tâm lý như một đứa trẻ đã trải qua nhiều ngày gần bị chết đói. Tôi hiểu ngay rằng những ảnh hưởng tiêu cực hoành hành ngày lại ngày phải được nhìn nhận và phải được giải quyết bằng nhiều lưu ý như đối với một biến cố chấn thương nặng.

Catherine bắt đầu nói.

"Có những chiếc thuyền, giống như ca nô, sơn sáng chói. Vùng Providence. Chúng tôi có súng ống, giáo, ná bắn đá, cung và tên, nhưng lớn hơn. Có những mái chèo lớn lạ lùng trên những con thuyền ... ai cũng phải chèo thuyền. Chúng tôi có thể bị lạc, trời tối. Không có đèn đuốc. Tôi sợ hãi. Có những con thuyền khác cũng như chúng tôi (hình như của phe tấn công). Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên bộ da thú bẩn thỉu. Chúng tôi đang đi thám sát. Giầy của tôi trông thật ngộ nghĩnh, giống như bao tải ... buộc dây ở mắt cá ... bằng da thú. (ngừng lâu) Mặt tôi nóng lên vì lửa. Người của tôi đang giết những người kia, nhưng tôi không. Tôi không muốn giết. Con dao ở trong tay tôi"

Đột nhiên cô bắt đầu nói ríu rít và thở hỗn hển. Cô thuật lại là một kẻ địch đã chộp được cô từ phía sau cô, nắm lấy cổ và cắt họng cô bằng con dao của nó. Cô nhìn thấy mặt kẻ thù trước khi chết. Đó là Stuart (Bác sĩ, người tình nhân Do Thái của cô). Trông nó khác nhưng cô biết là chính nó. Johan chết vào lúc 21 tuổi.

Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của mình, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.

"Người nào đó đang ẵm tôi", cô thì thầm nhè nhẹ và mơ màng, "người nào đó giúp tôi ra đời. Bà đang mặc bộ đồ xanh với một cái tạp dề trắng. Bà đội một cái mũ trắng, gấp lại ở các góc. Căn phòng có những cửa sổ ngộ nghĩnh, nhiều ngăn. Tòa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mớ tóc đen dài. Bà muốn ẵm tôi. Bà mặc một cái áo ngủ vải thô thật nực cười... Áo đó sẽ bị hư khi chà sát lên nó. Thật dễ chịu ở dưới ánh mặt trời và lại được ấm áp ... Đúng là ... đúng là cùng người mẹ của tôi hiện nay!".

Trong những buổi thôi miên trước, tôi bảo cô quan sát kỹ những người đáng chú ý trong những kiếp sống ấy để xem liệu cô có thể nhận ra họ là những người đáng chú ý trong kiếp sống hiện nay của Catherine không. Theo đa số các tác giả, các nhóm linh hồn hay cùng nhau luân hồn lại nhiều lần, giải quyết nghiệp của họ (thiếu nợ người khác và của chính mình, những bài học phải học) trên khoảng thời gian của nhiều kiếp sống.

Trong hoài bão muốn hiểu biết màn kịch ngoạn mục lạ lùng đang được trải ra chưa được biết đến đối với phần còn lại của thế giới, trong phòng mạch lặng lẽ với ánh sáng lờ mờ, tôi muốn kiểm tra lại kiến thức này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng phương pháp khoa học mà tôi đã sử dụng mạnh mẽ trên 15 năm qua trong việc nghiên cứu của tôi để đánh giá thông tin hết sức bất thường này nảy sinh từ miệng Catherine.

Trong những buổi thôi miên chính Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh. Cô có trực giác về con người và các sự kiện đã chứng minh là đúng. Trong lúc thôi miên, cô bắt đầu đoán trước được những câu hỏi của tôi trước khi tôi có dịp hỏi những câu hỏi. Nhiều giấc mơ của cô có xu hướng biết trước hay tiên đoán.

Có lần, khi cha mẹ cô đến thăm cô, cha của cô đã bầy tỏ sự nghi ngờ khủng khiếp về việc đang xẩy ra. Để chứng minh cho ông đó là sự thực, cô đưa ông đến trường đua ngựa. Ở đó ngay trước mắt ông, cô đã đoán trúng ngựa nào thắng trong mỗi cuộc đua. Ông hết sức ngỡ ngàng. Một lần cô biết chắc là đã chứng minh được điểm đó, cô đã đem tất cả tiền thắng trong cuộc đua cho người vô gia cư khổ sở đầu tiên cô gặp trên đường lúc ra khỏi trường đua. Cô trực giác cảm thấy quyền năng mới mà cô vừa đạt được không nên dùng để kiếm tiền. Đối với cô, những quyền năng này có ý nghĩa cao cả hơn nhiều. Cô nói với tôi kinh nghiệm này làm cho cô hơi sợ hãi, nhưng cô rất vui với tiến bộ cô đạt được và cô mong muốn tiếp tục lùi về dĩ vãng. Tôi vừa bị choáng váng vừa bị cuốn hút trước khả năng tâm linh của cô, nhất là tình tiết ở trường đua ngựa. Đó là chứng cớ hiển nhiên. Cô đã có vé trúng ở mỗi cuộc đua. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào. Điều gì đó kỳ quặc đã xẩy ra trong mấy tuần lễ vừa qua, và tôi đã vật lộn để bảo vệ cách nhìn của tôi. Tôi không thể phủ nhận khả năng tâm linh của cô. Và nếu những khả năng này là thật và có thể đưa ra những chứng cớ hiển nhiên, thì việc đọc lại những sự kiện ở tiền kiếp của cô cũng có thể là thật không?

Bây giờ cô trở lại về kiếp sống mà cô mới vừa sinh ra. Hóa thân này dường như gần đây hơn nhưng cô không nhận ra được năm nào. Tên cô là Elizabeth.

"Bây giờ tôi lớn hơn, có một anh và hai chị gái. Tôi nhìn thấy cái bàn ăn ... Cha tôi ở đấy ... Ông là Edward (bác sĩ nhi khoa một lần nữa trở lại làm cha). Mẹ tôi và cha tôi lại đánh nhau. Thức ăn là khoai tây và đậu. Cha tôi giận dữ vì đồ ăn nguội. Họ đánh nhau nhiều. Ông lúc nào cũng uống rượu... Ông đánh mẹ tôi (Giọng của Catherine sợ hãi và cô run lên rõ ràng). Ông đẩy những đứa con. Ông không giống ông như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông. Tôi muốn ông đi đi" Cô nói như một đứa trẻ nói.

Câu hỏi của tôi trong buổi này khác hẳn câu mà tôi thường dùng trong việc trị liệu tâm lý thông thường. Tôi hành động như một hướng dẫn viên cho Catherine, cố gắng xem lại toàn bộ một kiếp sống trong một hay hai tiếng, tìm kiếm những sự kiện gây chấn thương và những loại có hại có thể giải thích những triệu chứng hiện tại của cô. Trị liệu thông thường được tiến hành với nhịp độ thong thả và chi tiết hơn. Mỗi lời nói do bệnh nhân lựa chọn đều được phân tích về sắc thái và nghĩa bóng. Mỗi nét mặt, mỗi cử chỉ, mỗi biến đổi giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Mỗi phản ứng của cảm xúc đều được xem xét tỷ mỷ. Các kiểu ứng xử được cẩn thận lắp ráp vào với nhau. Tuy nhiên với Catherine, những năm tháng qua đi vù vù trong một phút. Các buổi thôi miên của Catherine giống như lái xe trong cuộc đua xe hơi Indy 500 dậm đạp hết ga ... cố gắng nhận ra các bộ mặt trong đám đông khán giả.

Tôi chuyển sự chú ý tới Catherine và yêu cầu cô hãy tiến xa hơn nữa.

"Bây giờ tôi có chồng. Nhà tôi có một phòng lớn. Chồng tôi có tóc vàng hoe. Tôi không biết anh (tức là chồng không xuất hiện trong hiện kiếp của Catherine) . Chúng tôi chưa có con. Anh rất tử tế với tôi. Chúng tôi yêu nhau và rất hạnh phúc". Hiển nhiên cô đã thoát khỏi sự áp chế ở nhà cha mẹ. Tôi hỏi liệu cô có thể nhận ra khu vực mà cô đã ở không.

"Brennington" Catherine ngập ngừng thì thầm. " Tôi nhìn thấy những cuốn sách có những bìa cũ ngộ nghĩnh. Cuốn to nhất đóng lại bằng một cái dây. Đó là cuốn Kinh Thánh. Có những chữ to lạ lùng ... tiếng Gaelic" (tiếng Xen-tơ).

Cô nói ở đây một số tiếng cô không nhận ra được. Không biết có phải là tiếng Gaelic hay không, tôi không biết.

"Chúng tôi sống trong vùng nội địa không gần biển. Xứ đó ... . Brennington? Tôi thấy một nông trại có lợn và cừu. Đó là trại của chúng tôi". Cuối cùng cô tiếp tục. "Chúng tôi có hai con trai ... Đứa lớn đã lấy vợ. Tôi có thể nhìn thấy gác chuông nhà thờ... . một tòa nhà bằng đá rất cổ.". Đột nhiên cô đau đầu, và Catherine trong cơn đau đớn, ôm lấy thái dương bên trái. Cô kể là bị ngã trên bậc thềm đá, nhưng đã bình phục. Cô chết lúc tuổi già trên giường ở nhà với gia đình xung quanh.

Cô lại lơ lửng ra khỏi xác thân sau khi chết, nhưng lần nay cô không hoang mang hay bối rối.

"Tôi nhận thấy một ánh sáng chói lọi. Thật là tuyệt vời; bạn có năng lượng từ ánh sáng ấy." Cô đang nghỉ ngơi, sau khi chết giữa những kiếp sống. Ít phút trôi qua lặng lẽ. Đột nhiên cô nói, không phải nói thì thầm chậm rãi như thường lệ trước đó, bây giờ cô nói to và khàn, không chút ngập ngừng.

"Nhiệm vụ của chúng tôi là học để trở thành như thần thánh qua kiến thức. Chúng tôi biết quá ít. Ông ở đây làm thầy tôi. Tôi phải học nhiều. Bằng kiến thức chúng ta gần Thượng Đế, và rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta trở lại dạy và giúp đỡ người khác".

Tôi không nói được lời nào. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô, từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Nguồn gốc của tài liệu này là gì? Nó không giống của Catherine chút nào. Cô không bao giờ nói như thế, dùng những lời như thế , câu cú như thế. Cả đến giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác hẳn.

Vào lúc đó tôi không hiểu được rằng mặc dù Catherine thốt ra những lời như vậy, cô đã không tạo ra những suy nghĩ ấy. Cô đang truyền điều đang được nói với cô. Sau này cô nhận diện ra là các bậc Thầy, những linh hồn tiến hóa cao không hiện diện nơi thân thể, là nguồn gốc. Họ có thể nói với tôi qua cô. Không chỉ Catherine có thể lùi về các tiền kiếp, mà bây giờ cô còn có thể truyền kiến thức từ thế giới bên kia. Kiến thức đẹp đẽ. Tôi phấn đấu để giữ tính cách khách quan.

Một phương chiều mới đã được mở ra. Catherine chưa bao giờ đọc những công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Elisabeth Kubler-Ross hay Bác Sĩ Raymond Moody, cả hai bác sĩ này đã viết về những kinh nghiệm lúc cận tử. Cô cũng chưa bao giờ nghe nói về cuốn sách của người Tây Tạng về Người Chết. Thế mà cô đang kể ra những kinh nghiệm tương tự với những kinh nghiệm được miêu tả trong những bài viết này. Âu cũng là là một bằng chứng. Giá mà có nhiều sự việc hơn, nhiều chi tiết rõ ràng hơn, tôi có thể xác minh. Sự hoài nghi của tôi thay đổi bất thường tuy vẫn còn. Có thể là cô đã đọc chuyện nghiên cứu về cận tử trong một tạp chí hay đã xem một cuộc phỏng vấn trên chương trình truyền hình. Mặc dù cô phủ nhận bất cứ một ký ức nào về bài báo hay chương trình truyền hình như thế, nhưng có lẽ cô đã giữ ký ức trong tiềm thức. Nhưng cô đã vượt qua những bài viết trước đây và truyền tin tức từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Giá mà tôi có nhiều sự việc có thật hơn.

Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ những chi tiết về tiền kiếp, vẫn như thường lệ. Tuy nhiên cô không thể nhớ những gì xẩy ra sau khi chết lúc là Elizabeth. Trong tương lai cô sẽ không bao giờ nhớ được chi tiết nào trong trạng thái nửa nọ nửa kia. Cô chỉ nhớ được những kiếp sống.

"Bằng kiến thức, chúng ta gần Thượng Đế". Chúng ta đang ở trên con đường của chúng ta.
CHƯƠNG BỐN

"Tôi nhìn thấy một ngôi nhà trắng hình vuông với một con đường cát ở mặt tiền. Những người cưỡi ngựa đi tới đi lui". Catherine đang nói vói giọng nói thì thầm mơ màng như thường lệ. " Có nhiều cây cối ... một đồn điền, một ngôi nhà lớn với một dãy nhà nhỏ, giống như nhà nô lệ. Trời rất nóng. Đó là miền Nam... Virginia?" Cô nghĩ là năm 1873. Cô là một đứa trẻ nhỏ.

"Có nhiều ngựa và nhiều vụ mùa, ... ngô, cây thuốc lá". Cô và những người hầu hạ khác ăn trong bếp của ngôi nhà lớn. Cô là người da đen và tên là Abby. Cô cảm thấy có linh tính và thân thể cô căng thẳng. Cái nhà chính đang cháy, và cô đang thấy nó cháy rụi. Tôi dịch chuyển 15 năm của cô đến năm 1888.

"Tôi mặc một bộ đồ cổ, đang lau tấm gương ở tầng thứ hai, một ngôi nhà gạch có cửa sổ ... có nhiều ô. Tấm gương bị gợn, không phẳng, và có các quả đấm ở đầu mút. Người chủ ngôi nhà này có tên là James Manson. Ông ta có một cái áo choàng ngộ nghĩnh có ba khuy và một cổ áo đen lớn. Ông có râu ... Tôi không nhận ra ông (là ai trong hiện kiếp của Catherine). Ông đối xử tốt với tôi. Tôi sống trong một ngôi thuộc cơ ngơi này. Tôi dọn dẹp phòng ốc. Có một trường học trong cơ ngơi này nhưng tôi không được phép đi học. Tôi cũng làm bơ!

Catherine nói thì thầm chậm rãi, dùng những từ đơn giản và để ý nhiều vào chi tiết. Trên năm phút tiếp theo, tôi học cách làm bơ. Hiểu biết về khuấy bơ của Abby cũng thật mới lạ với Catherine. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa.

"Tôi đang cùng ở với một người nào đó, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đã cưới nhau. Chúng tôi ngủ cùng nhau... nhưng chúng tôi không luôn luôn sống cùng nhau. Tôi cảm thấy vừa lòng với anh ta, nhưng không có gì đặc biệt cả. Tôi không thấy đứa bé nào. Có những cây táo và những con vịt. Những người khác ở cách xa. Tôi đang hái những trái táo. Có thứ gì đó làm mắt tôi cay. Catherine nhăn mặt trong khi nhắm mắt. Gió thổi phía này ... khói từ gỗ cháy. Họ đang đốt các thùng gỗ". Bây giờ cô đang bị ho. "Điều đó luôn luôn xẩy ra. Họ đang quét bên trong các thùng bằng hắc ín ... để nước không thấm vào".

Sau phần sôi nổi ở buổi thôi miên tuần trước, tôi rất mong nuốn lại tiến tới trạng thái nửa nọ nửa kia. Chúng tôi đã mất 90 phút để thăm dò kiếp sống làm người đầy tớ của cô. Tôi đã học được về cách trải giường, làm bơ và thùng; tôi mong muốn có một bài học tinh thần. Không còn kiên nhẫn, tôi bảo cô tiến tới lúc chết.

"Rất khó thở, ngực tôi đau lắm". Catherine đang thở hỗn hển, trong cơn đau đớn rõ ràng. " Tim tôi đau, nó đập nhanh. Tôi lạnh quá... thân thể tôi run lên". Catherine bắt đầu rùng mình. "Người ta ở trong phòng, cho tôi uống trà. Mùi nó là lạ. Họ đang xoa dầu trên ngực tôi. Sốt ... nhưng tôi cảm thấy rất lạnh". Cô chết lặng lẽ.

Lơ lửng trên trần nhà, cô có thể nhìn thấy xác thân trên giường, một bà già nhỏ thó héo hon vào khoảng sáu mươi tuổi. Cô vừa mới lơ lửng đang đợi chờ người nào đó đến giúp. Cô trở nên ý thức về ánh sáng, cảm thấy bị lôi cuốn đến đó. Ánh sáng trở nên rực rỡ hơn, và chói lọi hơn. Chúng tôi chờ đợi trong im lặng và giây phút từ từ qua đi. Đột nhiên cô lại ở vào một kiếp khác, hàng ngàn năm trước Abby.

Catherine đang nhẹ nhàng thì thào , "Tôi nhìn thấy rất nhiều tỏi, treo trong một cái phòng bỏ trống. Tôi ngửi thấy mùi tỏi. Người ta tin tỏi được dùng để giết ma quỷ trong máu và tẩy sạch thân thể, nhưng bạn phải dùng nó hàng ngày. Tỏi cũng có ở ngoài, ở phía trên cái vườn. Có những cây dược thảo ... cây vả, cây chà là và các cây rau dược thảo khác. Những cây này có ích cho bạn. Mẹ tôi mua tỏi và các cây dược thảo khác. Trong nhà có người bị bệnh. Đây là những rễ cây lạ. Đôi khi bạn ngậm những rễ cây ấy trong miệng, để trong tai hay những chỗ mở ra. Bạn chỉ cần giữ chúng.

"Tôi nhìn thấy một ông già có bộ râu. Ông là một trong những thầy lang trong làng. Người này nói cho bạn biết phải làm gì. Có một loại bệnh dịch gì đó đang giết dân chúng. Họ không ướp xác vì sợ bệnh này. Họ được đem chôn. Người ta không vui về việc ấy. Họ cảm thấy linh hồn không đi tiếp được bằng cách ấy (trái ngược với tường thuật sau khi chết của Catherine) . Nhưng có quá nhiều người chết. Trâu bò cũng đang chết. Nước ... lụt ... người ta bị bệnh vì lụt (Cô hiển nhiên mới nhận thức được một chút về dịch tễ học). Tôi cũng mắc một vài chứng bệnh do nước. Nó làm tôi đau dạ dày. Bệnh về ruột và dạ dày. Thân thể bạn mất nhiều nước. Tôi ở bên cạnh nước, để mang về nhiều hơn, nhưng đó là cái giết chúng tôi. Tôi mang nước trở lại. Tôi thấy mẹ tôi và các anh tôi. Cha tôi đã chết. Các anh tôi rất ốm yếu. "

Tôi tạm ngưng lại trước khi phát hiện về thời gian. Tôi say mê bởi cách có quan niệm về cái chết và kiếp sống sau thay đổi quá nhiều hết kiếp này đến kiếp khác. Tuy nhiên kinh nghiệm về chính cái chết rất đồng nhất, rất giống nhau, ở mỗi lần. Phần thức của cô rời khỏi xác vào lúc chết bay lơ lửng rồi bị cuốn vào một ánh sáng năng lượng tuyệt vời. Cô phải đợi người nào đó đến để giúp cô. Linh hồn tự động đi tiếp. Ướp xác, lễ chôn cất hay bất cứ cách thức nào khác sau khi chết không liên quan gì đến nó. Linh hồn tự động, không cần chuẩn bị, giống như đi qua cái cửa mở.

"Đất trơ trụi và khô cằn ... Tôi không thấy có núi non quanh đây, chỉ có đất, rất phẳng và khô. Một trong các anh tôi chết. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng vẫn còn đau đớn" Tuy nhiên cô không sống lâu hơn. "Tôi nằm dài trên một ổ rơm có cái gì đó bao bọc." Cô bệnh nặng và không có lượng tỏi hay dược thảo nào có thể cứu cô khỏi chết. Ngay sau khi cô bay lơ lửng trên xác, cô bị cuốn vào một ánh sáng quen thuộc. Cô đang kiên nhẫn chờ một người nào đó đến với cô.

Đầu cô bắt đầu ngó ngoáy hết bên này đến bên kia như thể cô đang lướt xem cảnh tượng nào đó. Giọng cô lại khỏe lên và rõ ràng.

"Họ nói với tôi có nhiều thượng đế, Thượng Đế ở trong mỗi chúng ta"

Tôi nhận ra giọng nói từ trạng thái ở giữa nửa nọ nửa kia bởi sự khàn khàn của nó cũng như giọng nói đầy tinh thần trong lời nhắn nhủ. Những gì cô nói khiến tôi không thể thở được, như kéo hết không khí trong buồng phổi của tôi.

"Cha ông ở đây, và con ông là một đứa bé. Cha ông nói ông sẽ biết ông ấy vì tên của ông là Avrom, và con gái của ông được đặt tên theo cha ông. Và cái chết của cha ông là do bệnh tim. Tình cảm của con ông cũng rất quan trọng, vì nó rụt rè, như con gà chết. Nó đã hy sinh mạng sống cho ông vì lòng yêu thương của nó. Linh hồn của nó rất cao cả... Nó chết để trả những nợ nần cho cha mẹ. Nó cũng muốn cho ông thấy thứ thuốc đó chỉ có thể hữu hiệu đến thế vì phạm vi của nó rất hạn chế."

Catherine ngưng nói, tôi ngồi trong sự im lặng dễ sợ và tâm trí tê cóng của tôi cố gắng lọc lõi các sự việc. Căn phòng như đông lạnh.

Catherine biết rất ít về đời tư của tôi. Trên bàn làm việc của tôi có một tấm hình nhỏ của con gái tôi, nhe răng cười với hai cái răng ở hàm dưới trong cái miệng trống rỗng. Tấm hình đứa con trai tôi ở bên cạnh. Mặt khác, Catherine không biết gì về gia đình tôi hay tiểu sử của tôi. Tôi đã được học cẩn thận về phương pháp chữa bệnh truyền thống. Bác sĩ chuyên khoa có nhiệm vụ làm cái phông trắng để người bệnh có thể chiếu lên đó tất cả những cảm nghĩ riêng tư, tư tưởng và thái độ. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phân tích chúng, mở rộng phạm vi hoạt động của tâm trí bệnh nhân. Tôi đã giữ khoảng cách chữa bệnh này với Catherine. Cô thật sự chỉ biết tôi là một bác sĩ tâm thần, không biết gì về quá khứ cũng như cuộc sống riêng tư của tôi. Thậm chí tôi cũng chưa bao giờ treo các bằng cấp của tôi ở phòng mạch.

Thảm kịch lớn nhất trong đời tôi là cái chết bất ngờ của đứa con trai đầu, Adam, nó mới sinh được 23 ngày thì chết, vào khoảng đầu năm 1971. Vào khoảng mười ngày sau, chúng tôi mang nó về nhà từ bệnh viện, nó khó thở và nôn mửa. Việc chẩn bệnh cực kỳ khó khăn. "Toàn bộ dẫn lưu tĩnh mạch phổi di tật vách ngăn tim", chúng tôi được biết là như thế. "Điều đó chỉ xẩy ra một lần trong mười triệu ca sinh đẻ". Mạch máu của phổi phải mang máu đã ô xy hóa về tim, bị chuyển sai vào tim bằng phía sai. Dường như là tim của con tôi hoạt động ngược. Cực kỳ, hy hữu hiếm xẩy ra.

Giải phẫu mở tim dị thường cũng không thể cứu nổi Adam, nó đã chết ít hôm sau. Chúng tôi đã thương tiếc nó nhiều tháng trời, hy vọng và giấc mơ của chúng tôi tiêu tan. Con chúng tôi, Jordan, sinh ra một năm sau, một niềm an ủi to lớn cho vết thương của chúng tôi.

Vào lúc Adam chết, tôi đang lưỡng lự về việc chọn lựa ban đầu của tôi về ngành tâm thần. Tôi đang là bác sĩ thực tập nội trú về nội khoa, và tôi đã được đề nghị một chức vụ nội trú nội khoa. Sau khi Adam chết, tôi quyết tâm làm nghề chữa bệnh tâm thần. Tôi đau lòng thấy y khoa hiện đại với tất cả kỹ năng và kỹ thuật tiên tiến không cứu nổi con tôi, một đứa trẻ nhỏ bé bình thường.

Cha tôi, sức khỏe rất tốt cho đến khi ông bị cơn đau tim nặng vào đầu năm 1979, vào lúc ông 61 tuổi. Ông qưa khỏi cơn đau tim đầu tiên, nhưng thành tim ông đã bị hư hại không thể phục hồi được nên ông qua đời ba ngày sau đó. Việc này xẩy ra vào khoảng chín tháng trước lần khám bệnh thứ nhất của Catherine.

Cha tôi là một người mộ đạo, nặng về nghi lễ hơn tinh thần. Tên Do Thái của ông là Avrom. thích hợp với ông hơn là tên bằng tiếng anh, Alvin. Bốn tháng sau khi ông chết, đứa con gái tôi, Amy sinh ra đời và được đặt tên theo tên ông.

Nơi đây, năm 1982, trong phòng mạch tịch mịch không mấy sáng của tôi, một dòng thác nước ầm vang về những sự thật bí mật, ẩn dấu được rót vào trong tôi. Tôi đang bơi trong một biển tinh thần, và tôi rất thích nước. Cánh tay tôi nổi gai ốc. Catherine không thể nào biết được những tin tức này. Không thể có chỗ nào để tìm ra được. Tên Do Thái của cha tôi, đứa con trai của tôi chết yểu vì dị tật ở tim với tỷ lệ một phần mười triệu, sự nghiền ngẫm của tôi về y khoa, cái chết của cha tôi, và tên đặt cho đứa con gái tôi - thật quá nhiều, quá đặc biệt, quá thực sự. Người chuyên viên phòng thí nghiệm ngay thật này là một ống dẫn đến kiến thức tiên nghiệm. Và nếu quả cô đã khám phá ra được những sự thật, phải có cái gì nữa ở đấy? Tôi cần biết nhiều hơn nữa.

"Ai", tôi lẫm bẩm, "Ai ở đấy, Ai nói với cô những sự việc này?"

"Các Bậc Thầy" , cô thì thào, "Các Bậc Thầy Thần Linh nói với tôi. Các Ngài đã nói với tôi, tôi đã có tám mươi sáu kiếp sống là con người."

Catherine hít thở nhẹ nhàng, đầu không còn trăn trở nữa. Cô đang nghỉ ngơi. Tôi muốn tiếp tục, nhưng sự gợi ý của cô về điều cô nói đang làm tôi rối trí. Có thực là cô đã có 86 tiền kiếp? Và các Bậc Thầy là gì? Cái đó là gì? Có thể nào những kiếp sống của chúng ta được hướng dẫn bởi các thần linh là người không có thân hình nhưng dường như có kiến thức lớn lao. Phải chăng có những bước đi tiến tới Thượng Đế? Điều đó có thực không? Tôi thấy khó mà nghi ngờ, vì điều mà cô vừa tiết lộ, tuy nhiên tôi vẫn phải vật lộn đề tin được. Nhiều năm tôi đã vượt qua những chương trình lựa chọn. Nhưng trong đầu, trong tâm tôi và sự quyết tâm của tôi, tôi biết cô đúng. Cô đang tiết lộ sự thật.

Về cha tôi và con tôi thì thế nào? Trong một ý nghĩa nào đó, họ vẫn còn sống, họ không bao giờ thực sự chết cả. Họ đang nói chuyện với tôi, nhiều năm sau khi được chôn cất, và chứng minh bằng cách cung cấp tin tức rất bí mật và rõ ràng. Và vì tất cả đều đúng, phải chăng con tôi đã tiến bộ về tinh thần như Catherine đã nói? Phải chăng nó đồng ý để chúng tôi sinh ra nó rồi nó chết 23 ngày sau để giúp tôi trả nợ nghiệp của chúng tôi, hơn nữa dạy tôi về y khoa và nhân loại, thúc đẩy tôi quay về với nghề nghiệp chữa bệnh tâm thần? Tôi rất phấn khởi bởi những tư tưởng ấy. Nằm dưới sự lạnh lùng, tôi cảm thấy lòng thương yêu mãnh liệt đang khuấy động, một cảm nghĩ mạnh mẽ về sự đồng nhất và liên hệ với thiên đường và trái đất. Tôi nhớ cha tôi và con tôi. Thật là tốt lại nhận được tin của họ.

Cuộc đời của tôi sẽ không bao giờ giống như thế nữa. Có một bàn tay nào đó đã tham gia và đã biến đổi không thể đảo ngược lại dòng đời của tôi. Tất cả sự hiểu biết của tôi đã được thực thi cẩn thận cùng với lối suy nghĩ có tính chất hoài nghi, bắt đầu có ý nghĩa. Những ký ức và thông điệp của Catherine đều rất đúng. Trực giác của tôi về tính đứng đắn trong các sự việc của Catherine là đúng. Tôi có những sự việc có thật. Tôi có bằng chứng.

Tuy nhiên, ngay cả trong lúc vui sướng và sự hiểu biết đó, cả lúc trải nghiệm huyền bí, phần tâm trí ngờ vực và lo gic cũ kỹ của tôi đã chứa đựng sự phản đối. Có lẽ đó là ESP (tri giác ngoại cảm) hay khả năng tâm linh nào đó. Cứ cho là như vậy, đó đúng là một khả năng, nhưng nó không chứng minh luân hồi hay các Bậc Thần Linh Bậc Thầy. Nhưng lần này tôi hiểu biết hơn. Cả ngàn trường hợp được ghi trong tài liệu khoa học, nhất là những trẻ em nói tiếng ngoại quốc mà các em chưa bao giờ ở đó, có những vết chàm ở chỗ những vết tử thương trước đây, về những trẻ em biết chỗ những đồ vật quý giá được chôn dấu ở xa hàng ngàn dậm và hàng thập kỷ hay ở thế kỷ trước đó, tất cả vang vọng trong lời truyền lại của Catherine. Tôi biết cá tính của Catherine và tâm trí cô. Tôi biết rõ cô như lòng bàn tay. Không, tâm trí tôi không thể đánh lừa tôi lúc này. Chứng cớ quá rõ ràng và tràn đầy. Đó là sự thực. Cô sẽ xác minh ngày càng nhiều khi các buổi thôi miên tiến triển.

Đôi khi trong những tuần lễ liên tiếp tôi có thể quên đi sức mạnh và tính cấp thiết của buổi thôi miên này. Đôi khi tôi rơi trở lại lối mòn của dòng đời thường nhật, lo lắng về mọi sự việc bình thường. Nghi ngờ lại nổi lên. Dường như thể tâm tôi khi không tập trung, có khuynh hướng trở về với những mô hình, niềm tin, và hoài nghi cũ. Nhưng lúc ấy tôi tự nhắc nhở - điều này đã thực sự xẩy ra ! Tôi hiểu thật khó khăn làm sao để tin vào những khái niệm ấy khi không có những kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm rất cần để thêm niềm tin tình cảm vào sự hiểu biết tinh thần. Nhưng tác động của kinh nghiệm bao giờ cũng mờ nhạt tới mức độ nào đó.

Trước nhất, tôi không ý thức được tại sao tôi thay đổi quá nhiều. Tôi biết tôi bình tĩnh và kiên nhẫn hơn, và những người khác nói trông tôi thật an bình, tôi dường như thoải mái và hạnh phúc hơn. Tôi cảm thấy hy vọng hơn, niềm vui hơn, quả quyết hơn, và thỏa mãn hơn trong cuộc sống. Tôi thấy rõ ràng là tôi không còn sợ chết. Tôi không còn sợ chết hay sự không tồn tại. Tôi ít sợ mất những người khác mặc dù chắc chắn là tôi sẽ mất họ. Sợ chết mạnh xiết bao. Người ta đã làm tất cả những gì để tránh sợ hãi : khủng hoảng giữa cuộc đời, yêu đương người trẻ tuổi, giải phẫu thẩm mỹ, tự kỷ ám thị, tích lũy của cải vật chất, sinh ra để tiếp tục có danh tiếng, tranh đấu để ngày càng trẻ và vân vân...

Chúng ta hết sức lo lắng về cái chết của chính chúng ta, đôi khi quá lo lắng đến nỗi quên cả mục đích thực sự của cuộc đời.

Tôi cũng trở nên ít bị ám ảnh hơn. Tôi không cần lúc nào cũng phải canh chừng. Mặc dầu tôi đang cố gắng trở nên ít nghiêm nghị, nhưng sự thay đổi này thật khó đối với tôi. Tôi vẫn còn phải học nhiều.

Quả thực tâm trí tôi giờ đây sẵn sàng tiếp nhận khả năng này, thâm chí khả năng xảy ra mà những lời nói của Catherine là thực. Những sự thật không thể tin được về cha tôi và con tôi, không thể nào đạt được bằng giác quan thông thường. Kiến thức và khả năng của cô chứng minh chắc chắn một khả tâm linh nổi bật. Thật khôn ngoan để tin cô, nhưng tôi vẫn giữ cẩn trọng và hoài nghi về cái tôi đọc trong tài liệu phổ cập. Ai là những người thuật lại hiện tượng tâm linh, đời sống sau khi chết, và những biến cố huyền bí lạ lùng? Họ có được huấn luyện theo phương pháp quan sát khoa học và đánh giá không? Mặc dầu có kinh nghiệm tràn đầy và tuyệt vời với Catherine, tôi biết tâm trí phê phán tự nhiên chống đối của tôi vẫn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng mỗi dữ kiện mới, từng mẩu tin tức. Tôi phải kiểm tra để xem nó có phù hợp với khuôn khổ được xây dựng với mỗi buổi thôi miên không. Tôi sẽ xem xét nó dưới một góc độ, với một kính hiển vi của nhà khoa học. Và tuy nhiên tôi không còn phủ nhận khuôn khổ làm việc đã có rồi.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:30 am

CHƯƠNG NĂM

Chúng tôi vẫn ở giữa buổi thôi miên. Catherine đã nghỉ ngơi xong và bắt đầu nói về những bức tượng xanh ở đằng trước một ngôi đền. Tôi khích động mình và lắng nghe. Cô đang ở vào một kiếp sống xa xưa, một nơi nào đó ở Á Đông, nhưng tôi vẫn ở với các Bậc Thầy. Không thể tưởng được, tôi thầm nghĩ. Cô đang nói về tiền kiếp, về luân hồi, và còn so sánh với những lời phán truyền nghe được từ những Bậc Thầy, nó có cảm giác hạ xuống từ cực điểm. Tuy nhiên tôi đã nhận ra rằng cô phải đi qua một kiếp sống trước khi có thể rời bỏ xác thân để tiến tới trạng thái ở nửa nọ nửa kia. Cô không thể đi thẳng tới trạng thái này được. Và chỉ ở đấy cô mới gặp được các Bậc Thầy.

"Những bức tượng xanh ở trước một ngôi đền lớn", cô thì thầm dịu dàng, một tòa nhà có những chóp nhọn và quả cầu nâu. Có mười bẩy bậc ở phía trước, và có một cái phòng sau khi đã trèo hết các bậc. Hương đang cháy. Không ai có giầy cả. Đầu của họ đều cạo nhẵn. Mặt họ tròn và mắt đen. Da họ sẫm. Tôi ở đấy. Tôi bị đau chân và đã đến đấy để xin được giúp đỡ. Chân tôi bị sưng lên; Tôi không thể bước đi được. Có cái gì đó vướng ở chân tôi. Họ đắp lá vào chân tôi... những cái lá lạ lùng... Tannis (Tannin hay a xít tannic, phát sinh tự nhiên từ rễ cây, gỗ, vỏ cây, lá, và trái của nhiều cây, được dùng làm thuốc từ thời thượng cổ vì tính cầm máu và làm se lại). Trước nhất, chân tôi được rửa sạch. Đó là một nghi thức trước các vị thần. Chân tôi bị nhiễm độc. Tôi đã dẫm phải một cái gì đó. Đầu gối tôi sưng lên. Chân tôi dầy đặc các vết (nhiễm độc máu). Họ khoét một cái lỗ ở chân tôi và nhét một thứ gì rất nóng vào trong đó."

Catherine đang quặn đau. Cô bị nghẹn vì loại độc dược đắng ghê gớm nào đó mà cô được cho uống. Độc dược làm bằng lá cây màu vàng. Cô lành bệnh nhưng xương bàn chân và chân không còn giống như trước nữa. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa. Cô chỉ thấy cuộc sống trống trải và nghèo khổ. Cô sống với gia đình trong một cái chòi không có bàn. Họ ăn một loại gạo nào đó, giống như ngũ cốc, nhưng họ luôn luôn bị đói. Cô già đi rất nhanh, và chưa bao giờ thoát khỏi cảnh nghèo khó và đói, và rồi cô chết. Tôi chờ đợi và tôi có thể nhìn thấy Catherine kiệt sức. Trước khi tôi có thể đánh thức cô, nhưng cô bảo tôi là Robert Jarrod cần tôi giúp đỡ. Tôi không biết Robert Jarrod là ai, hay làm sao tôi có thể giúp được. Không có gì thêm nữa.

Sau khi đánh thức cô dậy từ hôn mê, Catherine nhớ lại nhiều chi tiết về việc nhớ lại tiền kiếp của mình. Cô không nhớ tý gì về kinh nghiệm sau khi chết, không nhớ gì về trạng thái nửa nọ nửa kia, không nhớ gì về các Bậc Thầy, hay kiến thức không thể tin được nổi mà cô đã khám phá ra. Tôi hỏi cô :

"Catherine, từ "Bậc Thầy" có nghĩa gì với cô?". Cô nghĩ rằng đó là một cuộc đấu gôn. Bây giờ cô đã tiến bộ rất nhanh, nhưng cô vẫn còn khó khăn trong việc hợp nhất khái niệm về luân hồi vào thần học của cô. Cho nên tôi quyết định chưa nói với cô về các Bậc Thầy. Ngoài ra tôi không chắc chắn là cách bạn báo tin cho một người nào đó rằng cô là bà đồng tài giỏi không thể tưởng có thể truyền dẫn kiến thức tuyệt vời siêu việt từ những Thần Linh Bậc Thầy.

Catherine đồng ý cho vợ tôi tham dự buổi thôi miên tới. Carole, vợ tôi là một nhân viên công tác tâm lý xã hội có kỹ năng và được huấn luyện kỹ lưỡng và tôi muốn có ý kiến của vợ tôi về những sự việc xẩy ra không thể tưởng tượng được này. Sau khi kể cho vợ tôi nghe những gì Catherine đã nói về cha tôi và con chúng tôi, Adam, thì vợ tôi nóng lòng muốn giúp đỡ. Tôi không có khó khăn nào trong việc ghi lại mọi lời nói từ những kiếp sống khi Catherine thì thào rất chậm, nhưng các Bậc Thầy lại nói nhanh hơn nhiều, nên tôi quyết định thâu băng mọi thứ.

Một tuần lễ sau, Catherine đến cho buổi thôi miên tiếp. Cô tiếp tục khả quan hơn, sợ hãi và lo âu giảm thiểu. Bệnh tình của cô được cải thiện rõ ràng, nhưng tôi vẫn không chắc chắn tại sao cô lại khá hơn nhiều như thế. Cô đã nhớ việc bị chết đuối khi là Aronda, cô bị cắt họng khi là Johan, là một nạn nhân bệnh dịch lây lan do nước khi là Louisa, và những biến cố chấn thương kinh hoàng khác. Cô cũng đã trải nghiệm hay tái trải nghiệm những tiền kiếp khổ sở, làm nô lệ và bị hành hạ trong gia đình. Bị hành hạ là những thí dụ về những chấn thương nhỏ hàng ngày bắt đầu đi vào tâm linh của chúng tôi. Nhớ lại cả hai loại kiếp sống có thể góp phần vào sự cải thiện bệnh tình cô. Nhưng cũng có một khả năng khác. Phải chăng kinh nghiệm tinh thần tự nó có ích? Có thể hiểu cái chết không phải là cái xuất hiện để góp phần vào cảm giác về hạnh phúc, giảm thiểu nỗi sợ hãi không? Có thể toàn bộ tiến trình, không phải chỉ là chính ký ức, có phải là một phần của sự chữa bệnh không?

Khả năng về tâm linh của Catherine ngày càng tăng, thậm chí cô trở nên trực giác hơn. Cô vẫn còn có khó khăn với Stuart, nhưng cô cảm thấy có thể đối phó với ông ta hữu hiệu hơn. Mắt cô sáng ra và da cô hồng hào. Cô báo cô có một giấc mơ lạ trong tuần nhưng chỉ nhớ được một phần. Cô mơ thấy một cái vây đỏ của một con cá ấn vào trong tay cô.

Cô đắm mình nhanh chóng dễ dàng tới mức độ thôi miên sâu trong vài phút.

"Tôi thấy một loại vách đá nào đó. Tôi đang đứng trên vách đá và nhìn xuống. Tôi đang tìm kiếm thuyền bè - đó là việc tôi phải làm... Tôi mặc cái gì đó xanh, kiểu quần quần xanh... quần ngắn với những chiếc giầy lạ... giầy đen và chúng được thắt lại. Những chiếc giầy này có khóa, trông thật ngộ nghĩnh ... tôi nhìn ra phía chân trời không có tàu bè nào cả". Catherine đang thì thầm. Tôi bảo cô hãy tiến xa hơn nữa đến một biến cố có ý nghĩa trong đời cô.

"Chúng tôi đang uống bia, bia đen nặng. Trời tối đen. Cốc vại rất dày. Chúng rất cổ, chúng được làm thành với kim khí cho bền bỉ. Nơi đây mùi nồng nặc, và có nhiều người ở đấy. Rất là ồn ào. Ai cũng nói chuyện, rất là náo nhiệt".

Tôi hỏi cô có nghe thấy ai gọi tên cô không.

"Christian ... Christian là tên tôi". Cô nay lại là đàn ông. " Chúng tôi vừa ăn một thứ thịt nào đó và uống bia. Trời tối và bia rất đắng. Họ bỏ muối vào".

Cô không biết năm tháng. "Họ đang nói chuyện về chiến tranh và về những con tàu phong tỏa các hải cảng! Nhưng tôi không nghe biết ở đâu. Nếu họ im lặng, tôi có thể nghe thấy, nhưng ai cũng nói chuyện và ồn ào."

Tôi hỏi cô ở đâu. "Hamstead... Hamstead (Đánh vần theo âm) Đó là một cái cảng, một hải cảng ở Wales. Họ đang nói về Anh Quốc." Cuối cùng cô đã tiến xa tới lúc Christian ở trên tàu của anh. "Tôi ngửi thấy mùi gì đó, mùi gì đang cháy. Mùi thật là kinh tởm. Gỗ cháy, những thứ khác nữa. Nóng bỏng mũi... Một cái gì đó ở đàng xa đang cháy, một loại thuyền bè nào đó, thuyền buồm. Chúng tôi đang chất hàng ! Chúng tôi đang chất thứ gì đó với thuốc súng". Catherine trở nên bối rối trông thấy.

"Có cái gì đó với thuốc súng, rất đen. Nó dính vào tay. Phải di chuyển nhanh. Con tàu có lá cờ xanh . Lá cờ sẫm ... Đó là một lá cờ xanh vàng. Có một loại vương miện nào đó với ba điểm trên đó".

Đột nhiên Catherine nhăn nhó vì đau. Cô đang đau đớn cực độ. " Úi chà!" , cô càu nhàu, đau ở tay tôi, đau ở tay tôi ! Có thứ kim khí gì đó, kim khí nóng trong tay tôi. Nó làm tôi chết bỏng ! Ối ! Ối !.

Tôi nhớ lại một đoạn trong giấc mộng và bây giờ hiểu rằng cái vây cá đỏ ấn vào trong tay cô. Tôi chặn cơn đau, nhưng cô vẫn rên rỉ.

"Những mảnh vụn là kim loại ... Con tàu của chúng tôi bị phá hủy ... bên hải cảng. Họ đã ngăn chặn được ngọn lửa. Nhiều người bị giết ... rất nhiều người. Tôi sống sót, chỉ đau tay thôi, nhưng nó sẽ lành với thời gian". Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa và để cô chọn ra biến cố có ý nghĩa.

"Tôi nhìn thấy một loại nhà in, in cái gì đó bằng bản khắc và mực. Họ đang in và đóng sách ... Sách có bìa da và những chỉ được dùng để đóng sách, dây da. Tôi thấy một cuốn sách đỏ ... Sách lịch sử. Tôi không nhìn thấy tựa đề; họ chưa in xong. Những cuốn sách rất tuyệt vời. Bìa sách rất mềm mại, bìa da. những cuốn sách rất tuyệt vời ; sách dạy bạn đấy".

Rõ ràng Christian vui sướng nhìn thấy sách và đang sờ vào sách, và anh lờ mờ nhận thức được tiềm năng học bằng cách ấy. Tuy vậy anh dường như không được học hành nhiều. Tôi bảo anh tiến tới ngày cuối cùng của đời anh.

"Tôi nhìn thấy cây cầu trên sông. Tôi là một ông già... rất già. Đi lại khó khăn. Tôi đang bước đi trên cầu ... để sang bên kia ... Tôi cảm thấy tức ngực, tức kinh khủng, làm đau trong lồng ngực ! Ối ! " Catherine đang phát ra tiếng ùng ục, cho thấy cơn đau tim trong khi Christian đi trên cầu. Hơi thở của cô rất nhanh và nông, mặt và cổ đầy mồ hôi, cô bắt đầu ho và thở hổn hển. Tôi lo lắng. Lại kinh qua cơn đau tim ở tiền kiếp có nguy hiểm không? Đó là biên giới mới; không ai biết câu trả lời. Cuối cùng Christian chết. Bây giờ Catherine nằm dài an bình trên giường khám bệnh, thở sâu và điều hòa. Tôi trút tiếng thở dài khoan khoái.

"Tôi cảm thấy tự do ... tự do", Catherine thì thầm. Tôi đúng là đang lơ lửng trong bóng tối... đúng là đang lơ lửng. Có một nguồn sáng đâu đó ... và các thần linh, những người khác".

Tôi hỏi liệu cô có ý nghĩ nào về kiếp sống vừa chấm dứt, kiếp sống là Christian không".

"Tôi lẽ ra nên tha thứ nhiều hơn nữa, nhưng tôi lại không. Tôi không tha thứ những sai trái người ta đã gây ra cho tôi, và tôi lẽ ra nên tha thứ. Tôi đã không tha thứ những sai trái. Tôi giữ trong lòng và tôi đã chất chứa chúng trong nhiều năm... .Tôi nhìn thấy những cặp mắt ... những cặp mắt".

"Những cặp mắt" tôi kêu lên, cảm thấy sự tiếp xúc. "Loại mắt gì?"

"Những cặp mắt của các Thần Linh Bậc Thầy", Catherine thì thào, "nhưng tôi phải chờ. Tôi có những việc phải suy nghĩ". Ít phút trôi qua trong sự im lặng căng thẳng.

Phá tan sự im lặng dài, tôi cất tiếng mong đợi, "Làm sao cô có thể biết được khi nào họ sẵn sàng."

Cô trả lời, "Họ sẽ gọi tôi". Nhiều phút nữa qua đi. Rồi, đột nhiên đầu cô cứ lăn hết bên này sang bên kia, và giọng cô ồ ồ và quyết liệt, báo hiệu có sự thay đổi.

"Có nhiều linh hồn trong phương chiều này. Tôi không phải là người duy nhất. Chúng ta phải kiên nhẫn. Có cái gì đó là điều mà tôi chưa từng biết ... Có nhiều phương chiều..." Tôi hỏi cô phải chăng cô đã ở đây trước kia, phải chăng cô đã luân hồi nhiều lần.

"Tôi đã ở vào những bình diện khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Mỗi lần là một mức độ của thức cao hơn. Bình diện nào chúng ta đi lệ thuộc vào chúng ta đã tiến bộ thế nào ..." Cô lại im lặng. Tôi hỏi cô phải học bài học nào cô đã học được để tiến hành. Cô trả lời ngay.

"Đó là việc chúng ta phải chia sẻ kiến thức của chúng ta với người khác. Đó là tất cả chúng ta có khả năng vượt qua rất xa cái mà chúng ta thường sử dụng. Một số trong chúng ta tìm thấy điều này nhanh hơn người khác. Đó là việc phải xét những tật xấu của mình trước khi đi tới điểm này. Nếu không, ông sẽ phải mang theo chúng vào kiếp khác. Chỉ khi chúng ta có thể tự gột bỏ được những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy khi chúng ta ở trạng thái thể chất. Những Thần Linh Bậc Thầy không thể làm điều đó cho chúng ta. Nếu ông chọn cách chiến đấu và không tự gột bỏ các tính xấu, ông sẽ mang chúng vào kiếp khác. Và chỉ khi ông quyết định là ông đã đủ mạnh để làm chủ những vấn đề bên ngoài, thì ông sẽ không phải mang chúng vào kiếp sau.

"Chúng ta cũng phải học hỏi không chỉ đi đến chỗ những người có cùng xung động như chúng ta. Cảm thấy bị lôi kéo tới chỗ ai đó cùng một mức độ với mình là điều bình thường. Nhưng điều này sai. Ông phải tới chỗ những người có xung động sai... với xung động của ông. Điều này có tầm quan trọng... trong việc giúp ... những người này".

"Chúng ta được trao các khả năng trực giác, chúng ta phải theo và không được cố gắng chống lại. Những kẻ chống lại sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta không được trở lại mỗi bình diện với khả năng đồng đều. Một số trong chúng ta có khả năng hơn những người khác, vì họ đã tích lũy được ở những thời điểm khác. Bởi vậy con người không phải được tạo ra đều bình đẳng. Nhưng cuối cùng, chúng ta sẽ tiến tới điểm chỗ mà chúng ta đều bình đẳng".

Catherine ngưng lại. Tôi biết những tư tưởng này không phải của cô. Cô không có kiến thức về vật lý hay siêu hình học; cô không biết gì về bình diện, phương chiều và xung động. Vượt lên trên cái đó, vẻ đẹp của lời nói và tư tưởng, ngụ ý triết lý trong những lời thốt ra này - những cái ấy đều vượt quá khả năng của Catherine. Cô không bao giờ nói một cách rõ ràng và văn chương như vậy. Tôi có thể cảm thấy một sức mạnh khác cao hơn vật lộn với tâm trí và dây âm thanh của cô để chuyển đạt những tư tưởng ấy thành lời, do đó mà tôi có thể hiểu. Không, đó không phải là Catherine.

Giọng cô là một giọng mơ màng.

"Những người hôn mê ....ở trong trạng thái lơ lửng. Họ chưa sẵn sàng để vượt vào bình diện khác ... cho đến khi họ quyết định liệu họ có muốn vượt qua hay không. Chỉ khi họ có thể quyết định điều đó. Nếu họ cảm thấy họ không còn gì học hỏi ... trong trạng thái thể chất... thì họ được phép vượt qua. Nhưng nếu họ còn phải học nhiều hơn nữa, thì họ phải trở lại, dù rằng họ không muốn thế. Đó là giai đoạn nghỉ ngơi cho họ, một thời điểm khi những sức mạnh tinh thần của họ có thể nghỉ ngơi".

Cho nên những người bị hôn mê có thể quyết định trở về hay không trở về, tùy theo việc họ còn phải học hỏi bao nhiêu để hoàn tất được ở trạng thái thể chất. Nếu họ cảm thấy không còn gì nữa để học hỏi, họ có thể đi ngay vào trạng thái tinh thần, bất kể y khoa hiện đại. Thông tin này phù hợp với công cuộc nghiên cứu được phổ biến về kinh nghiệm cận tử, và lý do tại sao một số người muốn quay trở về. Những người khác không được quyền lựa chọn, họ phải quay trở về vì họ còn phải học hỏi nữa. Dĩ nhiên, tất cả những người được phỏng vấn về kinh nghiệm cận tử của họ đã trở về với xác thân. Có một sự tương đồng sâu sắc trong những câu chuyện của họ. Họ rời khỏi xác thân và "quan sát" những cố gắng hồi sinh từ một điểm bên trên thân thể của họ. Cuối cùng họ nhận thấy một ánh sáng chói lọi hay một bóng dáng "thần linh" rực sáng ở xa, đôi khi ở cuối đường hầm. Họ không cảm thấy đau đớn. Khi họ nhận thức được nhiệm vụ trên thế gian chưa hoàn tất, và họ phải quay về với xác thân, họ hợp nhất ngay lại với xác thân và lại ý thức đau đớn và những cảm giác thể xác khác.

Tôi có một vài bệnh nhân có kinh nghiệm lúc cận tử. Câu chuyện hứng thú nhất là câu chuyện của một thương gia Nam Mỹ khá giả được tôi khám bệnh trong một số buổi tâm lý trị liệu thông thường khoảng hai năm sau khi việc điều trị cho Catherine chấm dứt. Jacob bị một người đi mô tô đâm phải không còn biết gì ở Hòa Lan năm 1975 khi ông ta mới ngoài 30 tuổi. Ông nhớ là bay lơ lửng trên xác thân và nhìn xuống xem quang cảnh chỗ tai nạn, chú ý đến xe cứu thương, bác sĩ chăm sóc vết thương, và đám đông người xúm lại xem. Ông nhận thấy ánh sáng vàng ở đằng xa, và ông tiến lại gần ánh sáng ấy, ông thấy một nhà sư mặc bộ y nâu. Nhà sư này bảo Jacob chưa phải là lúc Jacob phải chết, ông ta phải quay về với xác thân. Jacob nhìn thấy sự thông thái và tài năng của nhà sư, nhà sư này cũng nêu lên một vài biến cố tương lai trong cuộc đời của Jacob, tất cả những biến cố này sau này đều xẩy ra. Jacob nhập lại vào xác thân, nay ở bệnh viện, tỉnh lại, và lần đầu tiên nhận thấy đang bị hành ha bởi đau đớn.

Năm 1980 Jacob là người Do Thái trong khi đi du lịch tại Do Thái, ông ta có đến thăm Hang động của các Giáo Trưởng ở Hebron, thánh địa của cả người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo. Sau kinh nghiệm tại Hòa Lan, ông đã trở nên mộ đạo nhiều hơn và đã bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn. Ông ta thấy một nhà thờ Hồi Giáo gần đấy và ngồi xuống cầu nguyện cùng người Hồi giáo. Một lúc sau, ông đứng dậy đi. Một người Hồi Giáo già tiến lại gặp ông và nói rằng, "Ông thật khác với những người khác. Họ ít khi ngồi xuống cùng cầu nguyện với chúng tôi." Cụ già ngừng một chút, nhìn kỹ Jacob trước khi tiếp tục, " Ông đã gặp một nhà sư, đừng quên những gì nhà sư đã nói với ông." Năm năm sau tai nạn xẩy ra và cách xa hàng ngàn dậm, một cụ già biết cuộc gặp gỡ giữa nhà sư và Jacob, cuộc gặp gỡ xẩy ra trong khi Jacob bất tỉnh.

Ở phòng mạch, cân nhắc những tiết lộ mới nhất của Catherine, tôi băn khoăn điều mà những người viết Hiến Pháp và Đạo Quyền của Mỹ có lẽ đã nghĩ về một tuyên bố rằng tất cả con người không được sinh ra bình đẳng. Người ta sinh ra với tài trí, khả năng, và sức mạnh từ những kiếp khác. "Nhưng cuối cùng chúng ta tiến đến một điểm nơi mà tất cả chúng ta sẽ bình đẳng". Tôi nghi ngờ điểm này cách nhau nhiều, nhiều kiếp sống.

Tôi nghĩ đến thần đồng Mozart và tài năng không thể tưởng được lúc thiếu thời. Phải chăng đó cũng là một sự chuyển những khả năng cũ trước đây từ kiếp trước? Dường như chúng ta mang theo những khả năng cũng như những nợ nần.

Tôi đã nghĩ về chuyện làm sao mà con người hay tụ họp lại thành những nhóm thuần nhất, hay tránh xa và thường làm người ngoài sợ hãi. Đó là cái gốc của thành kiến và hận thù nhóm. " Chúng ta phải học hỏi không chỉ đi tới những người có cùng xung động như chúng ta." Để giúp đỡ những người khác này, tôi có thể cảm thấy chân lý tinh thần trong những lời này của cô.

Catherine tiếp tục, "Tôi phải trở lại", "Tôi phải trở lại". Tôi muốn được nghe nhiều nữa. Tôi hỏi cô ai là Robert Jarrod. Cô đã nói ra tên này trong buổi thôi miên kỳ trước, nói rằng người này cần sự giúp đỡ của tôi.

"Tôi không biết ... Có thể ông ta ở một bình diện khác, không phải bình diện này. Dường như cô không thể tìm ra ông ta. "Chỉ khi nào ông ta muốn, giá mà ông ta quyết định đến với tôi", cô thì thào, "ông ta sẽ nhắn tin cho tôi. Ông ta cần sự giúp đỡ của ông".

Tôi vẫn không thể hiểu làm sao tôi có thể giúp được.

"Tôi không biết", Catherine trả lời. "Nhưng ông là người được học hành, chứ không phải là tôi."

Điều này thật là thú vị. Điều này có thật quan trọng đối với tôi không? Hay tôi phải giúp Robert Jarrod vì được học hành? Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói gì về ông ta cả.

Cô nhắc lại, "Tôi phải trở về". "Tôi phải đi đến chỗ ánh sáng trước nhất."

Đột nhiên cô lo sợ. "Ối Ối, Tôi do dự quá lâu ... Vì tôi do dự, nên tôi lại phải chờ." Trong khi cô chờ đợi tôi hỏi cô đang nhìn thấy gì và cảm nghĩ thế nào.

"Đúng là những thần linh khác, những linh hồn khác. Họ cũng đang chờ đợi." Tôi hỏi cô liệu có cái gì để dạy chúng tôi trong khi cô chờ đợi. Tôi hỏi, "Cô có thể cho chúng tôi biết điều gì chúng tôi phải biết không?"

"Họ không ở đây để nói với tôi", cô trả lời. Thật hấp dẫn. Nếu các Thần Linh Bậc Thầy không có ở đấy để cho cô nghe, Catherine không thể tự mình cung cấp kiến thức.

"Tôi rất bồn chồn khi ở đây. Tôi rất muốn đi ... Khi nào đúng lúc, tôi sẽ đi". Một lần nữa, ít phút im lặng trôi qua. Cuối cùng hẳn là đã đúng lúc. Cô lại rơi vào một kiếp sống khác.

"Tôi nhìn thấy những cây táo và một ngôi nhà, ngôi nhà trắng. Tôi sống trong nhà đó. Những trái táo bị sâu ăn ... , không tốt để ăn. Có một cái đu, một cái đu dưới vòm cây". Tôi bảo cô hãy nhìn vào chính mình.

"Tôi có tóc mịn màng, vàng hoe; tôi năm tuổi, Tên tôi là Catherine." Tôi rất ngạc nhiên. Cô đã vào hiện kiếp; cô là Catherine năm tuổi. Nhưng cô phải ở đấy vì một lý do nào đó. "Có điều gì đang xẩy ra ở đó Catherine?"

"Cha tôi giận dữ với chúng tôi... nguyên nhân là chúng tôi không được phép ra ngoài. Ông... ông đánh tôi bằng một cái gậy. Cái gây này rất nặng; nó làm tôi đau... Tôi sợ hãi lắm". Cô đang rên rỉ và nói như một đứa trẻ. "Cha tôi không ngưng đánh cho đến khi ông đã làm cho chúng tôi đau. Tại làm sao ông có thể làm như vậy với chúng tôi? Tại sao ông lại hèn hạ thế? Tôi yêu cầu cô hãy nhìn đời cô bằng một cái nhìn cao hơn và trả lời những câu hỏi của chính cô. Tôi vừa mới đọc sách nói về những người có thể làm như thế. Một số nhà văn gọi cái nhìn này là cái Ngã Cao Cả hay hay Cái Ta Cao Thượng. Tôi rất tò mò muốn biết liệu Catherine có thể tiến tới trạng thái này không, nếu nó hiện hữu. Nếu cô có thể, đây sẽ là một kỹ thuật chữa bệnh mạnh, con đường tắt vào nhận thức đúng bản chất và hiểu biết. "Ông không bao giờ muốn chúng tôi", cô thì thào rất nhẹ. Ông cảm thấy chúng tôi là sự xâm phạm vào đời ông... Ông không muốn có chúng tôi".

Tôi hỏi, "Cả Anh cô nữa sao?"

"Vâng, anh tôi còn tệ hơn nữa. Họ chưa bao giờ định có anh tôi. Họ chưa lấy nhau khi... bà đã có thai với ông". Việc này chứng tỏ tin tức mới làm cho Catherine sửng sốt. Cô chưa bao giờ biết về việc mẹ cô mang thai trước khi cưới. Sau này, mẹ cô xác nhận khám phá của Catherine là đúng.

Mặc dầu cô kể lại hiện kiếp, nhưng lúc này Catherine cho thấy sự khôn ngoan và một nhãn quan về đời sống của mình trước đây đã bị giới hạn trong trạng thái nửa nọ nửa kia, hay trạng thái tinh thần. Dù sao có một phần "cao hơn trong tâm trí cô, hồ như siêu thức. Có lẽ đây là cái Ngã Cao mà những người khác đã mô tả. Mặc dầu không tiếp xúc với các Thần Linh Bậc Thầy và những kiến thức kỳ lạ của các Ngài, tuy nhiên trong trạng thái siêu thức của cô, cô có một nhận thức đúng bản chất và tin tức sâu sắc, cũng như về sự thụ thai của người anh cô. Cái thức của Catherine khi tỉnh giấc, lo lắng và giới hạn nhiều hơn, tầm thường và nông cạn hơn nhiều. Cô không thể kết nối vào trạng thái siêu thức. Tôi không biết các nhà tiên tri và những nhà hiền triết của các tôn giáo Phương Đông và Tây, những người gọi là " hiện thực", có thể dùng trạng thái siêu thức để đạt trí tuệ và kiến thức không. Nếu như vậy thì tất cả chúng ta đều có khả năng làm như thế vì chúng ta phải có cái siêu thức này. Nhà phân tích tâm lý Carl Jung nhận thấy có nhiều mức độ thức khác nhau. Ông viết về cái vô thức chung, một trạng thái tương tự như siêu thức của Catherine.

Tôi ngày càng nản lòng bởi hố sâu ngăn cách không vượt qua được giữa cái thức của Catherine, cái trí tuệ lúc thức và cái tâm trí siêu thức lúc hôn mê. Trong khi cô bị thôi miên, tôi có những cuộc đối thoại triết học say mê với cô ở mức siêu thức. Tuy nhiên khi tỉnh dạy, Catherine không quan tâm gì đến triết lý hay những vấn đề đã nêu. Cô sống trong một thế giới của những điều vụn vặt hàng ngày, quên lãng một thiên tài ở nơi cô.

Trong khi đó, cha cô hành hạ cô, và những lý do trở nên rõ ràng. "Ông có nhiều bài học phải học", tôi nói một cách ngờ vực.

" Vâng... ông phải học".

Tôi hỏi cô liệu ông phải học gì. " Kiến thức này không được tiết lộ cho tôi". Giọng nói của cô rời rạc, xa xăm. "Điều gì được tiết lộ cho tôi là điều quan trọng với tôi, điều liên quan đến tôi. Mỗi người phải tự quan tâm đến mình ... tự mình làm ... toàn bộ. Chúng ta có những bài học để học... . mỗi một người trong chúng ta. Những bài học này phải được học một lần vào một lúc nào đó... có thứ tự. Chỉ khi đó chúng ta mới biết điều mà người kế tiếp cần, điều mà anh ấy hay chị ấy thiếu, hay chúng ta thiếu, để làm thành toàn bộ". Cô nói trong giọng thì thào, tiếng thì thầm của cô truyền đạt một cảm giác về sự suy xét độc lập đáng mến.

Khi Catherine lại nói, giọng trẻ nít của cô trở lại. "Ông ta làm cho tôi bệnh. Ông bắt tôi ăn những món ăn tôi không thích. Một số món như ... rau diếp, hành, món ăn tôi ghét. Ông ta bắt tôi ăn thứ đó, tôi sẽ bị bệnh. Nhưng ông không cần ! Catherine bắt đầu hổn hển. Cô đang hít không khí. Tôi lại gợi ý cô nhìn quang cảnh từ một nhãn quan cao hơn, cô cần hiểu rằng tại sao cha cô hành động như vậy.

Catherine nói bằng giọng tha thứ. " Phải làm đầy cái trống trải nơi ông. Ông ghét tôi vì điều ông đã làm. Ông ghét tôi vì điều đó, và chính ông ghét ông". Tôi đã gần quên đi vụ cưỡng hiếp khi cô ba tuổi. "Cho nên ông phải phạt tôi ... Tôi hẳn đã làm điều gì để ông làm tôi như thế". Cô mới có ba tuổi và cha cô say rượu. Tuy nhiên cô đã âm thầm mang tội lỗi này trong lòng cô từ đấy. Tôi giải nghĩa hiển nhiên này.

"Cô chỉ là trẻ thơ. Bây giờ cô phải tự mình thoát ra khỏi tội lỗi ấy. Cô đã không làm gì cả. Làm sao một đứa trẻ ba tuổi có thể làm gì? Không phải tội lỗi cô, mà chính là cha cô".

"Lúc ấy, ông hẳn là ghét tôi", cô thì thào nhẹ nhàng. " Tôi biết ông trước đây, nhưng bây giờ không thể dùng được tin tức này. "Tôi phải trở lại thời gian đó". Mặc dù một vài giờ đã qua đi, tôi muốn quay về với những quan hệ trước đây của họ. Tôi cho cô chỉ dẫn với chi tiết.

"Cô đang ở trang trạng thái hôn mê sâu. Vào lúc tôi sắp sửa đếm ngược trở lại ba đến một ngay. Cô sẽ ở trong trạng thái sâu hơn và cô sẽ cảm thấy hoàn toàn an toàn. Tâm trí cô sẽ tự do lang thang về thời gian trước đây, thời gian liên quan đến cha cô trong cuộc sống hiện tại của cô bắt đầu, trở về thời gian có ý nghĩa nhất về việc xẩy ra lúc thơ ấu giữa cha cô và cô. Khi tôi nói "một", cô sẽ quay trở về kiếp sống đó và hãy nhớ lấy. Việc này rất quan trong cho việc chữa bệnh của cô. Cô có thể làm được việc đó . Ba... hai... một. " Im lặng một hồi lâu.

"Tôi không nhìn thấy ông... nhưng tôi nhìn thấy người ta bị giết !’. Giọng của cô trở thành ầm ĩ và khàn khàn. Chúng ta không có quyền ngăn chặn đời sống của người khác trước khi họ đã sống sót ngoài nghiệp của họ. Và chúng ta đang làm việc này. Chúng ta không có quyền. Họ sẽ bị quả báo nếu chúng ta để họ sống. Khi họ chết họ sẽ đi vào phương chiều kế tiếp, họ sẽ khổ sở tại đấy. Họ sẽ bị đưa vào một trang thái rất buồn bực. Họ sẽ không có yên ổn. Họ sẽ bị gửi trở lại, và đời sống của họ sẽ rất khó khăn. Họ sẽ phải đền bù những người mà họ gây đau đớn vì bất công, những người họ đã chống lại. Họ đã ngăn chận đời sống của những người này, và họ không có quyền làm thế. Chỉ có Thượng Đế mới trừng phạt được những người ấy thôi, chứ không phải là chúng ta. Họ sẽ bị trừng phạt.

Một phút im lặng trôi qua. Cô thì thầm, "Họ đi rồi". Hôm nay các vị Thần Linh Bậc Thầy đã cho chúng ta một lời phán truyền nữa, mạnh mẽ và rõ ràng. Chúng ta không được giết, dù trong hoàn cảnh nào. Chỉ có Thượng Đế mới có thể trừng phạt.

Catherine mệt lử. Tôi quyết định rời lại việc truy cứu về sự liên hệ ở tiền kiếp với cha cô, và tôi đưa cô ra khỏi hôn mê. Cô không nhớ gì cả ngoại trừ hóa thân là Christian và Catherine còn nhỏ. Cô mệt mỏi, nhưng an lạc và thư giãn như thể trút được một gánh nặng đã được nhấc đi từ cô. Mắt tôi bắt gặp mắt Carole, Chúng tôi đều mệt lừ. Chúng tôi đã run rẩy và đã đổ mồ hôi, chú tâm vào mỗi lời nói. Chúng tôi cùng chia sẻ một kinh nghiệm khổng thể tưởng tượng được.
CHƯƠNG SÁU

Bây giờ tôi ấn định các buổi thôi miên hàng tuần cho Catherine vào cuối ngày vì các buổi này phải mất chừng vài tiếng. Cô vẫn có bề ngoài thanh thản khi cô đến vào tuần kế tiếp. Cô đã nói chuyện bằng điện thoại với cha cô. Không cho cha cô biết chi tiết nào, cô đã tha thứ cho ông theo cách của cô. Tôi chưa bao giờ thấy cô thanh thản như thế. Tôi kinh ngạc về sự tiến bộ nhanh chóng của cô. Rất hiếm có một bệnh nhân với nỗi lo âu kinh niên và sợ hãi thâm chí thâm căn cố đế chuyển biến quá đột ngột như vậy. Mặt khác, dĩ nhiên Catherine không phải là một bệnh nhân thường, và tiến trình chữa trị cho cô là duy nhất.

"Tôi nhìn thấy một con búp bê sứ để trên mặt loại lò sưởi nào đó." Cô đã rơi nhanh vào hôn mê sâu. "Có những cuốn sách ở cả hai bên gần lò sưởi. Đó là một căn phòng trong một ngôi nhà nào đó. Có những cây đèn nến gần con búp bê và một bức tranh chân dung ... một bộ mặt, mặt của một người đàn ông... Đó là ông ta..." Cô đang quan sát căn phòng. Tôi hỏi cô, cô nhìn thấy gì.

"Một loại thảm phủ sàn nhà. Nó xù xù giống như ... đó là da thú... phải một loại da thú phủ sàn nhà. Bên phải có hai cửa kính... dẫn ra ngoài hành lang. Có bốn bậc - những cái cột ở mặt tiền - Có bốn bậc thềm đi xuống. Những bậc này dẫn ra một con đường. Nhiều cây to bao chung quanh... Có một vài con ngựa bên ngoài. Những con ngựa được buộc vào .... mấy cái cọc ở phía trước".

Tôi hỏi , "Cô có biết chỗ ấy ở đâu không?" Catherine hít một hơi dài.

"Cô thì thào, "Tôi không biết địa điểm", "nhưng năm, năm phải ở đâu đây. Đó là thế kỷ thứ mười tám, nhưng tôi không biết ... có cây cối và hoa vàng, những bông hoa vàng rất đẹp". Cô bị xao lãng bởi những bông hoa này. "Mùi hoa tuyệt vời; ngọt ngào, những bông hoa... những bông hoa kỳ lạ, những bông hoa to lớn... những bông hoa vàng nhị đen ở giữa hoa". Cô tạm ngừng, vẫn còn ở giữa những bông hoa. Tôi nhớ đến những cánh đồng hoa hướng dương ở miền nam nước Pháp. Tôi hỏi cô về khí hậu tại đấy.

"Rất ôn hòa, không gió nhiều. Không nóng mà cũng chẳng lạnh". Chúng tôi không đạt được sự tiến triển nào trong việc nhận dạng ra nơi nào. Tôi đưa cô trở lại ngôi nhà, xa rời những đóa hoa vàng quyến rũ, và tôi hỏi cô chân dung để trên lò sưởi.

"Tôi không thể ...Tôi vẫn nghe Aaron... tên ông đó là Aaron." Tôi hỏi liệu ông ta là chủ nhà không. "Không, con ông ta mới là chủ nhà. Tôi làm việc ở đấy". Lại một lần nữa cô được phân vai là người hầu. Cô chưa bao giờ được đến gần tượng của Cleopatra hay Napoleon. Những người nghi ngờ về đầu thai luân hồi, kể cả bản thân tôi được huấn luyện khoa học cho đến tận hai tháng vừa qua, thường trông đợi vào tình trạng hay xảy ra về hóa thân hơn của những người nổi tiếng rất nhiều. Bây giờ tôi thấy mình đang ở một vị thế bất thường nhất vì đã chứng minh được luân hồi bằng khoa học ngay tại văn phòng của Khoa Tâm Thần. Và hơn thế nữa, luân hồi đang được khám phá.

"Cẳng tôi rất ..." Catherine tiếp tục, "rất nặng. Nó bị đau. Hầu như là nó không ở đấy... Chân tôi đau. Ngựa đá tôi". Tôi bảo cô hãy nhìn vào chính mình.

"Tôi có tóc mầu nâu, tóc nâu xoắn. Tôi mang một loại mũ bê rê, một loại mũ bê rê trắng ... một bộ đồ xanh với một loại tạp dề bên ngoài ... tạp dề. Tôi trẻ nhưng không phải là đứa trẻ con. Nhưng chân tôi đau. Việc mới xẩy ra, tôi bị đau kinh khủng". Trông cô thấy rõ là rất đau. " Móng ngựa... móng ngựa. Nó đá tôi bằng móng của nó. Con ngựa này thật hắc búa". Giọng cô trở nên dịu hơn vì cuối cùng cơn đau đã giảm. "Tôi có thể ngửi thấy mùi cỏ khô, cỏ khô trong chuồng. Có người đang làm việc trong khu chuồng ngựa". Tôi hỏi về nhiệm vụ của cô.

"Tôi có bổn phận hầu hạ ... hầu hạ trên nhà lớn. Tôi cũng phải làm việc vắt sữa bò". Tôi muốn biết nhiều hơn về những người chủ.

"Người vợ khá tròn trĩnh, trông rất vụng về. Có hai đứa con gái... Tôi không biết chúng". Cô nói thêm, đoán trước câu hỏi tiếp theo của tôi là liệu có người nào đã hiện thân trong đời sống hiện tại của Catherine không. Tôi hỏi về gia đình cô ở thế kỷ thứ mười tám.

"Tôi không biết, Tôi không nhìn thấy họ, Tôi không thấy ai ở với tôi. Tôi hỏi có phải cô sống ở đấy không. "Vâng tôi sống ở đấy, nhưng không phải ở tòa nhà chính. Một cái nhà rất nhỏ ... họ cho chúng tôi. Có những con gà. Chúng tôi nhặt trứng. Trứng gà màu nâu. Nhà tôi rất nhỏ ... và trắng... một phòng. Tôi thấy một người đàn ông. Tôi sống với người này. Anh ta có bộ tóc xoắn và mắt xanh". Tôi hỏi phải chăng họ là vợ chồng.

"Không phải trong nghĩa vợ chồng, không." Có phải cô sinh ra ở đấy không? Không, Tôi được mang về vùng này khi tôi còn rất trẻ. Gia đình tôi rất nghèo". Người đàn ông của cô dường như không thân thuộc. Tôi bảo cô đi xa hơn nữa trong đời sống này để tìm ra biến cố có ý nghĩa hơn.

"Tôi nhìn thấy cái gì đó trắng... trắng với nhiều dải trên đó. Phải là một cái mũ. Một loại mũ bê rê, với những lông vũ và dải trắng."

"Ai đội mũ ấy. Có phải - Cô ngắt lời tôi.

"Bà chủ ngôi nhà này, dĩ nhiên". Tôi cảm thấy hơi ngớ ngẩn. Đó là đám cưới của một trong hai người con gái. Toàn bộ cơ ngơi này tham gia lễ cưới." Tôi hỏi cô báo chí có nói gì về đám cưới này không. Nếu có tôi muốn cô nhìn vào ngày tháng.

"Không, tôi không tin là có báo chí tại đấy. Tôi không thấy cái gì như thế. Khó mà tìm được tài liệu để chứng minh ở kiếp sống này". " Cô có thấy cô trong đám cưới này không?" Tôi hỏi. Cô to tiếng trả lời nhanh chóng.

"Chúng tôi không dự đám cưới. Chúng tôi chỉ nhìn thấy người ta ra vào. Những người đầy tớ không được phép".

"Cảm nghĩ của cô thế nào?"

"Ghét".

"Tại sao? Họ đối xử với cô không tốt ư?"

Cô trả lời dịu dàng, "Vì chúng tôi nghèo, và chúng tôi bị ràng buộc với họ. Chúng tôi không thể sánh với những gì họ có".

"Cô có bao giờ ra khỏi cơ ngơi này không? Hay cô ở đấy suốt đời?"

Cô trả lời có vẻ đăm chiêu. "Tôi ở đấy suốt đời". Tôi cảm thấy nỗi buồn của cô. Cuộc đời của cô vừa khó khăn vừa vô vọng. Tôi bảo cô tiến tới ngày chết.

"Tôi thấy một ngôi nhà. Tôi thức dậy muộn, đang nằm dài trên giường. Họ cho tôi uống một thứ gì đó, một thứ gì ấm. Có mùi bạc hà. Lồng ngực tôi rất nặng nề. Rất khó thở ... Tôi đau nơi ngực và lưng... Đó là một nỗi đau tồi tệ ... rất khó diễn đạt". Cô thở nhanh và thở hắt ra, trong nỗi đau ghê gớm. Sau ít phút hấp hối, mặt cô dịu lại và thân thể cô giãn ra. Hơi thở của cô trở lại bình thường.

"Tôi đã rời khỏi thân xác". Giọng cô to và khàn khàn. "Tôi nhìn thấy một ánh sáng tuyệt vời ... Có người lại với tôi. Họ đến để giúp tôi. Những người tuyệt vời. Họ không sợ hãi... Tôi cảm thấy rất nhẹ nhàng..." Ngưng khá lâu.

"Cô có suy nghĩ nào về kiếp sống mà cô vừa bỏ đi không?"

"Đó là sau này. Bây giờ, tôi cảm thấy an bình. Đây là lúc an ủi. Người tham dự phải được giải khuây. Linh hồn ... linh hồn tìm thấy an bình nơi đây. Bạn để lại tất cả đau đớn thể xác sau bạn. Linh hồn của bạn an lạc và thanh thản. Đó là một cảm giác tuyệt vời... . tuyệt vời, như thể mặt trời luôn luôn chiếu sáng vào bạn. Ánh sáng thật rực rỡ ! Mọi thứ xuất phát từ ánh sáng ! Năng lượng xuất phát từ ánh sáng. Linh hồn của chúng ta đi ngay đến đó. Nó hầu như giống một lực từ trường lôi cuốn chúng ta vào. Thật là tuyệt vời. Nó giống như nguồn sức mạnh. Nó biết cách chữa lành."

"Nó có mầu sắc không?"

"Nó nhiều mầu sắc." Cô ngưng lại và nghỉ ngơi trong ánh sáng này.

Tôi đánh bạo hỏi, "Thế cô đang kinh qua cái gì?"

"Không có gì cả... chỉ là sự an bình mà thôi. Bạn đang ở giữa đám bạn bè. Họ đều ở đây. Tôi nhìn thấy rất nhiều người. Một số người rất quen, một số người không quen. Nhưng chúng tôi ở đấy, chờ đợi". Cô tiếp tục đợi và ít phút chậm chạp trôi qua. Tôi quyết định đẩy nhanh nhịp độ.

"Tôi có câu hỏi"

"Về ai" Catherine hỏi.

"Một người nào đó - cô hay các Bậc Thầy", Tôi quanh co, " Tôi nghĩ rằng hiểu biết điều này sẽ giúp chúng tôi. Câu hỏi như thế này : Chúng ta chọn thời điểm và cách sinh ra, cách chết không? Chúng ta có thể chọn tình thế không? Có thể chúng ta chọn thời điểm né tránh nữa không? Tôi nghĩ hiểu được việc đó thì sẽ giảm nhiều sợ hãi. Có người nào ở đấy có thể trả lời câu hỏi này không?" Căn phòng hình như lạnh lẽo. Khi Catherine nói lại, giọng cô sâu hơn và âm vang hơn. Đó là một giọng nói mà tôi chưa từng nghe trước đây. Đó là giọng nói của một thi nhân.

"Vâng, chúng ta chọn khi chúng ta nhập vào trạng thái thể chất của chúng ta, và khi chúng ta rời bỏ. Chúng ta biết khi chúng ta đã hoàn thành cái mà chúng ta được gửi xuống nơi này để hoàn tất. Chúng ta biết khi nào thời điểm đến, và bạn sẽ phải chấp nhận cái chết của bạn. Vì bạn biết là bạn chẳng kiếm được gì nữa ngoài kiếp sống này. Khi bạn có thời gian, khi bạn đã có thời gian để nghỉ ngơi và tiếp sinh lực lần nữa cho linh hồn của bạn, bạn được phép tái nhập lại trạng thái vật chất. Những người do dự, những người không chắc chắn quay về nơi đây, họ có thể mất cơ may cho họ, cơ may để chu toàn điều họ phải làm khi họ ở trong trạng thái vật chất".

Tôi hoàn toàn biết ngay đó không phải là Catherine nói. "Ai là người đang nói với tôi," tôi cầu khẩn; "Ai đang nói"

Catherine trả lời với giọng thì thào quen thuộc . "Tôi không biết. Giọng nói của một người nào đó ... . chính người kiểm soát sự việc, nhưng tôi không biết là ai. Tôi chỉ có thể nghe tiếng người ấy và cố gắng nói cho ông biết người ấy nói gì."

Cô cũng biết kiến thức này không bắt nguồn từ nơi cô, không phải từ tiềm thức, cũng không phải từ vô thức. Thậm chí không phải từ cái ngã siêu thức của cô. Bằng cách này cách khác cô đã nghe được và truyền đạt cho tôi, những lời nói và tư tưởng của một người nào đó rất đặc biệt, một người nào đó "kiểm soát sự việc." Bởi vậy một Bậc Thầy khác đã xuất hiện, khác hẳn vị thầy hay một số thầy từ những lời phán truyền đầy thông thái trước đây. Đó là một thần linh mới, với một giọng nói và kiểu cách tiêu biểu, rất nên thơ và thanh thản. Đó là Bậc Thầy nói về cái chết không chút lưỡng lự, tuy giọng nói và tư tưởng thấm đượm tình thương yêu. Tình thương yêu dường như nồng ấm và thiết thực, tuy vô tư và phổ quát. Tình thương đó dường như hạnh phúc tột đỉnh, nhưng không che giấu, hay xúc động hay trói buộc. Nó tiếp sức cho cảm nghĩ về tình thương vô tư, hay lòng trìu mến vô tư và nó hình như thân thuộc xa xôi.

Giọng thì thào của Catherine trở nên lớn hơn."Tôi không có niềm tin vào những người này."

"Không có niềm tin vào những người nào" Tôi chất vấn.

"Vào những Bậc Thầy."

"Không có niềm tin?"

"Không, tôi không có niềm tin. Đó là lý do tại sao đời tôi quá khó khăn. Tôi đã không có niềm tin ở trong kiếp sống đó." Cô bình tĩnh đánh giá cuộc sống của cô ở thế kỷ thứ mười tám. Tôi hỏi cô đã học hỏi được gì trong kiếp sống đó.

"Tôi biết nóng giận và hận thù, biết nuôi dưỡng cảm nghĩ của tôi đối với người ta. Tôi cũng biết là tôi đã không kiểm soát được đời tôi. Tôi muốn kiểm soát nhưng tôi không có gì. Tôi phải có niềm tin ở các Bậc Thầy. Các Thầy sẽ hướng dẫn tôi thông suốt. Nhưng tôi lại không có niềm tin . Tôi cảm thấy như thể là bị thất bại ngày từ lúc đầu. Tôi không bao giờ nhìn vào sự việc một cách vui vẻ. Chúng ta phải có niềm tin ... chúng ta phải có niềm tin. Nhưng tôi lại nghi ngờ. Tôi chọn nghi ngờ thay vì tin tưởng". Cô ngưng lại.

"Cô nên làm gì, và Tôi làm gì để làm cho chúng ta tốt hơn? Phải chăng con đường của chúng ta vẫn như thế?" Tôi hỏi. Câu trả lời của Bậc Thầy tuần trước đã nói về sức mạnh trực giác và sự trở về từ hôn mê bất tỉnh. Giọng nói, kiểu nói, âm thanh, tất cả đều khác với Catherine lẫn vị Thầy phái nam, thi nhân vừa mới nói.

"Con đường của mỗi người trên cơ bản là giống nhau. Tất cả chúng ta phải học hỏi một số thái độ trong khi chúng ta ở trong trạng thái vật chất. Một số người trong chúng ta chấp nhận chúng nhanh hơn những người khác. Lòng nhân từ, hy vọng, niềm tin, tình thương ... tất cả chúng ta phải biết và biết rõ những điều này. Không phải chỉ có một hy vọng, một niềm tin, và một tình thương - có nhiều thứ nuôi dưỡng một trong những thứ này. Có rất nhiều cách để diễn tả chúng. Và tuy vậy chúng ta chỉ mới kết nối một chút vào mỗi một...

"Người của những đoàn thể tôn giáo đã tới gần hơn bất kỳ ai ở trong số chúng ta vì họ đã có những lời nguyện và sự tuân theo. Họ nhượng bộ nhiều mà không đòi hỏi gì trở lại. Phần còn lại của chúng ta tiếp tục đòi hỏi ân huệ - giải thưởng và sự liên hệ cho cách ứng xử của chúng ta ... khi không có giải thưởng mà chúng ta muốn. Giải thưởng nằm trong việc làm, nhưng việc làm mà không trông đợi gì, làm một cách không vị kỷ.

Catherine thêm bằng một giọng thì thầm dịu dàng, "Tôi đã không biết điều đó."

Tôi bối rối một lần bởi từ "trong trắng" nhưng tôi nhớ nghĩa gốc của nó là "thanh khiết" nói đến ở một trạng thái rất khác với trinh tiết.

Cô tiếp tục. "Không phải là ham mê thái quá, điều gì làm quá nhiều... quá nhiều Bạn sẽ hiểu. Bạn sẽ thực sự hiểu". Cô lại ngừng.

Tôi thêm,"Tôi đang cố gắng". Rồi tôi quyết định tập trung vào Catherine. Có lẽ các Bậc Thầy chưa rời đi. " Tôi có thể làm gì tốt nhất để giúp Catherine vượt qua sợ hãi và lo âu? Và học hỏi được những bài học của cô? Đó có phải là cách tốt nhất không, hay tôi phải thay đổi cái đó? Hay phải đi vào một nơi đặc biệt? Làm sao tôi có thể giúp cô tốt nhất? "

Câu trả lời đến từ một giọng sâu của Bậc Thầy thi nhân. Từ trên ghế tôi nhoài người về phía trước.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:31 am

"Ông đang làm điều đúng. Nhưng điều đó cho ông chứ không phải cho cô ấy. Một lần nữa, lời nhắn nhủ nói là vì lợi ích của tôi nhiều hơn là cho Catherine.

"Cho tôi?"

"Đúng. Cái mà chúng tôi nói là cho ông." Không những ông đang đề cập đến Catherine ở ngôi thứ ba mà ông còn nói "chúng tôi". Quả thực có một vài Thần Linh Bậc Thầy có mặt.

"Có thể cho tôi biết tên của các Ngài được không?" Tôi lập tức cau mày vì bản chất trần tục của câu hỏi. "Tôi cần sự hướng dẫn. Tôi có quá nhiều điều muốn biết."

Câu trả lời là một bài thơ về tình thương, một bài thơ về đời tôi và cái chết của tôi. Giọng nói dịu dàng và êm ái, và tôi cảm thấy một tình yêu vô tư của một thần linh hoàn vũ. Tôi nghe trong lòng kinh sợ.

"Ông sẽ được hướng dẫn vào đúng lúc. Ông sẽ được hướng dẫn ... đúng lúc. Khi ông hoàn thành điều mà ông đã được phái đến đây để hoàn tất, rồi đời ông sẽ chấm dứt. Nhưng không phải trước lúc ấy. Ông có nhiều thì giờ ở tương lai... rất nhiều thì giờ."

Tôi vừa lo vừa thoát cơn sợ hãi. Tôi vui ông không nói gì đặc biệt nữa. Catherine trở nên bồn chồn. Cô thì thào.

" Tôi đang rơi, rơi xuống ... cố tìm ra đời tôi... rơi xuống. Cô thở dài và tôi cũng thở dài. Các Bậc Thầy đã đi khỏi. Tôi trầm ngâm với lời giáo huấn huyền diệu, những lời nhắn gửi rất cá tính từ các nguồn gốc rất thần linh. Ngụ ý tràn đầy. Ánh sáng sau khi chết và đời sống sau khi chết; sự chọn lựa của chúng ta khi chúng ta sinh ra và khi chúng ta sẽ chết; sự hướng dẫn chính xác và không sai lầm của các Bậc Thầy; các kiếp sống được đo lường trong các bài học được học và trong các nhiệm vụ đã được thực hiện không phải trong những năm tháng; về lòng nhân từ, hy vọng, niềm tin, và tình thương yêu; làm mà không mong đợi được đền đáp - kiến thức này là cho tôi. Nhưng cho mục đích gì? Tôi được gửi đến đây để hoàn thành cái gì?

Những lời nhắn gây ấn tượng mạnh và những biến cố đổ như thác đổ vào tôi trong phòng mạch phản ảnh những thay đổi sâu xa trong đời sống cá nhân và gia đình tôi. Sự thay đổi từ từ len lỏi vào nhận thức của tôi. Thí dụ, tôi đang lái xe đưa con trai tôi đi tới xem trận đấu bóng chày của trường đại học khi chúng tôi bị kẹt xe. Tôi lúc nào cũng rất khó chịu khi bị kẹt xe và bây giờ chúng tôi sẽ mất lượt chơi đầu hay lượt chơi thứ hai của trận đấu. Tôi thấy không khó chịu. Tôi không còn trách cứ người lái xe kém cỏi nào đó. Cơ bắp cổ tôi và vai tôi thấy thoải mái. Tôi không cáu kỉnh với con tôi, và chúng tôi vượt qua thời gian trong khi nói chuyện với nhau. Tôi nhận thấy rằng chỉ muốn có một buổi chiều vui vẻ với Jordan để xem trận đấu mà cả hai cha con tôi đều vui vẻ. Mục đích của buổi chiều hôm đó là được ở cùng nhau. Nếu tôi khó chịu và giận dữ, cuộc đi chơi có lẽ đã bị hỏng.

Tôi nhìn vào các con tôi và vợ tôi và băn khoăn không biết chúng tôi có ở với nhau từ trước không. Phải chăng chúng tôi đã lựa chọn để cùng nhau chia sẻ những thử thách và những thảm kịch và những niềm vui của đời sống này? Phải chăng chúng tôi trẻ mãi không già? Tôi cảm thấy lòng thương yêu và trìu mến to lớn đối với vợ con tôi. Tôi hiểu rằng những thiếu sót và sai lầm của họ đều rất nhỏ nhoi. Những điều đó thực sự không quan trọng. Tình thương yêu mới quan trọng.

Thậm chí tôi thấy mình bỏ qua những thiếu sót của chính tôi vì cùng một lý do. Tôi không cần phải cố gắng để được hoàn hảo hay lúc nào cũng biết kiềm chế. Thực sự không cần gây ấn tượng cho ai.

Tôi rất sung sướng được chia sẻ kinh nghiệm này với Carole. Chúng tôi nói chuyện với nhau sau bữa cơm chiều và đưa ra những cảm nghĩ và phản ứng của tôi về những buổi thôi miên với Catherine. Carole có bộ óc phân tích và có kiến thức vững vàng. Carole biết tôi vất vả xiết bao theo đuổi các công việc với Catherine bằng một cách thận trọng và khoa học, và Carole vờ phản đối để giúp tôi nhìn vào tin tức một cách khách quan. Vì những bằng chứng có tính quyết định chồng chất cho thấy quả thực Catherine đang bộc lộ những sự thật tuyệt vời, Carole tin và chia sẻ sự lĩnh hội và niềm vui của tôi.
CHƯƠNG BẨY

Khi Catherine đến cho kỳ hẹn kế tiếp một tuần sau đó, tôi đã sẵn sàng nghe lại băng thâu về cuộc đối thoại không thể tưởng tượng nổi ở kỳ trước. Tóm lại cô đã cung cấp cho tôi thi ca thiên giới cùng với ký ức tiền kiếp. Tôi bảo cô là cô đã kể lại tin tức về những kinh nghiệm sau cái chết, dù rằng cô không nhớ gì ở về trạng thái nửa nọ nửa kia hay tinh thần. Cô miễn cưỡng lắng nghe. Đã đỡ rất nhiều và hạnh phúc hơn, cô không cần phải nghe tài liệu này. Ngoài ra, nó hơi hơi "kỳ quái" . Tôi thuyết phục cô nên nghe. Cái đó rất tuyệt vời, đẹp đẽ, hướng thượng và nó đến do cô. Tôi muốn chia sẻ nó với cô. Cô nghe giọng dịu dàng của cô trong cuốn băng chỉ vài phút, rồi cô bảo tôi tắt đi. Cô nói rằng thật là kỳ dị và làm cho cô không thoải mái. Lặng lẽ, tôi nhớ lại "việc này cho ông chứ không phải cho cô ấy".

Tôi băn khoăn không biết những buổi thôi miên này kéo dài bao lâu nữa vì mỗi tuần cô thấy khá lên. Nay chỉ còn một ít gợn sóng trong cái hồ đã từng nổi sóng. Cô vẫn còn sợ ở những nơi kín mít và sự quan hệ với Stuart vẫn còn không chắc chắn. Mặt khác, sự tiến bộ của cô thật đáng chú ý.

Chúng tôi không còn những buổi tâm lý trị liệu thông thường nhiều tháng nay. Không còn cần thiết nữa. Chúng tôi chuyện gẫu ít phút để biết đến những sự việc trong tuần rồi chuyển nhanh vào thôi miên dĩ vãng. Phải chăng những ký ức thực tế về những chấn thương nặng hay những chấn thường nhỏ hàng ngày, hay tiến trình làm sống lại những kinh nghiệm mà Catherine thực sự được chữa khỏi. Những cơn ám ảnh và kinh hoàng gần như biến hẳn. Cô không còn sợ hãi về cái chết hay sắp chết. Cô không còn sợ mất tự chủ. Các bác sĩ tâm thần học ngày nay dùng thuốc an thần và chống phiền muộn liều cao để điều trị bệnh nhân có triệu chứng như của Catherine. Ngoài thuốc men ra, bệnh nhân được chữa trị trong những khóa tâm lý trị liệu mạnh hay tham dự các buổi điều trị cho nhóm bị ám ảnh sợ hãi. Nhiều bác sĩ tâm thần học tin là những triệu chứng như của Catherine có cơ sở sinh học, bởi có những sự thiếu hụt trong một hay nhiều chất hóa học trong bộ não.

Vì tôi dùng thôi miên Catherine ở mức hôn mê cao, tôi nghĩ điều đó mới đáng chú ý và tuyệt vời làm sao vì chỉ trong có ít tuần lễ không dùng thuốc men, cách trị liệu thông thường, hay nhóm để chữa trị, thế mà cô gần như khỏi hẳn. Việc này không chỉ là loại bỏ những triệu chứng, cũng chẳng phải nghiến răng chịu đựng, hay sống với triệu chứng đó, một cuộc đời bị hành hạ bởi sợ hãi. Đó là cách chữa trị, không có các triệu chứng. Và cô thật rạng rỡ, thanh thản và hạnh phúc vượt quá những cao vọng nhất của tôi.

Giọng cô lại thì thào dịu dàng. "Tôi ở trong một tòa nhà, một loại trần có vòm. Trần xanh và vàng. Có những người khác ở đó với tôi. Họ mặc ... trong những bộ đồ cổ ... một loại áo dài, rất cổ và bẩn. Tôi không biết làm sao chúng tôi lại đến đây. Có nhiều bóng người trong phòng. Cũng có một số phụ nữ, những phụ nữ này đứng trên một kiến trúc bằng đá nào đó. Có một bóng vàng lớn ở cuối phòng. Nó xuất hiện... Nó rất lớn có cánh. Nó thật xấu . Trong phòng rất nóng, rất nóng ... Rất nóng vì không có khe hở nào. Chúng tôi phải ở xa làng. Có cái gì đó không ổn với chúng tôi."

"Cô bị bệnh phải không?"

"Phải, tất cả chúng tôi đều bệnh. Tôi không biết là bệnh gì nhưng da chúng tôi chết. Da trở nên rất đen. Tôi cảm thấy rất lạnh. Không khí rất khô, rất oi ả. Chúng tôi không thể trở về làng. Chúng tôi phải xa làng. Một số bộ mặt bị dị dạng."

Bệnh này thật ghê gớm giống như bệnh hủi. Nếu cô đã một lần có một kiếp sống đẹp quyến rũ, thì chúng tôi chưa tình cờ gặp nó. "Cô phải ở đấy bao lâu?"

Cô trả lời buồn rầu, "Mãi mãi, cho đến khi chết. Không thể chữa được căn bệnh này."

"Cô có biết tên căn bệnh đó không? Gọi là bệnh gì?"

"Không. Da bị khô và co lại. Tôi đã ở đây nhiều năm. Có những người khác mới đến. Không có cách nào trở về được. Chúng tôi bị đuổi đi... để chết."

Cô đã chịu một cuộc sống khốn khổ, sống trong hang.

"Chúng tôi phải đi săn để có đồ ăn. Tôi thấy một vài loại dã thú mà chúng tôi săn bằng sừng. Thú này mầu nâu có sừng, sừng lớn."

"Có ai đến thăm cô không?"

"Không, họ không thể đến gần được hay nếu đến họ sẽ bị tai họa. Chúng tôi luôn khổ sở ... vì tội lỗi nào đó chúng tôi đã làm. Và đó là hình phạt của chúng tôi." Những hạt cát thần học của cô liên miên chảy vào đồng hồ cát chứa các kiếp sống của cô. Chỉ sau khi chết, trong trạng thái tinh thần, mới có sự bất biến đáng mừng và chắc chắn.

"Cô có biết là năm nào không?"

"Chúng tôi đã mất dấu vết của thời gian. Chúng tôi bệnh. Chúng tôi chỉ còn chờ đợi cái chết đến mà thôi."

"Có niềm hy vọng nào không?" Tôi cảm thấy bị thất vọng lây.

"Không có tia hy vọng nào cả. Tất cả chúng tôi sẽ chết. Tay tôi đau nhiều. Toàn thân tôi ốm yếu.Tôi già rồi. Tôi cử động rất khó khăn."

"Cái gì sẽ xẩy đến nếu không thể cử động được nữa?

"Bạn sẽ phải chuyển sang một cái hang khác, và bạn sẽ bị bỏ tại đó cho đến lúc chết."

"Họ làm gì với người chết?"

"Họ bịt kín lối vào hang."

"Có bao giờ họ bịt hang trước khi người đó chết không?"

Tôi đang tìm kiếm manh mối về sự sợ hãi của cô về những chỗ bị quây kín.

"Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ ở đấy. Tôi ở trong phòng với những người khác. Trời rất nóng. Tôi dựa vào bức tường, nằm ngay tại đấy."

"Cái phòng đó để làm gì?"

"Để lễ bái ... nhiều thần. Ở đây rất nóng."

Tôi bảo cô đi xa hơn nữa. "Tôi nhìn thấy cái gì đó trắng. Tôi nhìn thấy cái gì đó trắng, một loại màn. Họ đang di chuyển người nào đó."

"Có phải là cô không?"

"Tôi không biết. Tôi sẽ đón chào cái chết. Thân thể của tôi đau nhiều quá rồi. Môi của Catherine mím chặt vì đau đớn, và cô đang hổn hển vì cái nóng trong hang. Tôi đưa cô tới ngày cô chết. Cô vẫn hổn hển.

"Rất khó thở phải không?" Tôi hỏi.

"Vâng, ở đây quá nóng ... cảm thấy ... rất nóng, rất tối. Tôi không nhìn thấy ... và không thể di chuyển. Cô đang sắp chết, tê liệt và cô đơn, trong cái hang tối tăm và nóng bức. Miệng hang đã bị bịt kín. Cô sợ hãi và khổ sở. Hơi thở của cô càng dập dồn và đứt quãng, Cô đã chết một cách đáng thương, chấm dứt cuộc đời buồn thảm.

"Tôi thấy rất nhẹ ... giống như tôi đang trôi lơ lửng. Trời rất sáng. Thật là tuyệt vời !"

"Cô còn đau không?"

"Không", Cô ngưng và tôi đợi các bậc Thầy. Thay vì vút đi, "tôi rơi xuống rất nhanh . Tôi trở về vào một thân xác". Cô dường như rất ngạc nhiên cũng như tôi.

"Tôi nhìn thấy những tòa nhà, có những cột tròn. Có rất nhiều tòa nhà. Chúng tôi ở ngoài trời. Có nhiều cây - cây ô liu - chung quanh. Trời rất đẹp. chúng tôi đang theo dõi một cái gì đó ... Người ta đeo những cái mặt nạ rất ngộ nghĩnh, những mặt nạ che mặt họ. Đó là lễ hội. Họ mặc áo choàng dài, và có mặt nạ che kín mặt. Họ giả đò là họ không phải là cái đó. Họ ở trên một cái bục... trên nơi chúng tôi ngồi."

" Có phải cô đang xem một màn kịch không?"

"Đúng"

"Trông cô như thế nào? Hãy nhìn vào chính cô."

"Tôi có mớ tóc nâu. Tóc tôi được tết lại. Cô ngưng lại. Sư miêu tả về chính cô và sự hiện diện của các cây ô liu khiến tôi nghĩ đến kiếp sống ở Hy Lạp của Catherine mười lăm năm trước Jesus Christ, khi tôi là thầy giáo của cô, Diogenes. Tôi quyết định điều tra.

"Cô biết ngày tháng không?

"Không"

"Có những người mà cô biết không?"

"Có, chồng tôi ngồi cạnh tôi. Tôi không biết anh (trong hiện kiếp)"

"Cô có con không?"

"Tôi đang ở với con tôi". Cô dùng những từ rất thú vị, một loại cổ điển, và không giống phong cách có ý thức của Catherine chút nào.

"Cha cô có đấy không?"

"Tôi không nhìn thấy ông ta. Ông cũng ở đấy, ở một nơi nào đó ... nhưng không phải với tôi." Cho nên tôi đúng. Chúng tôi quay trở lại ba mươi lăm thế kỷ.

"Tôi làm gì ở đấy?"

"Ông đang quan sát, nhưng ông dạy. Ông dạy... chúng tôi đang học ông ... hình vuông và vòng tròn, những thứ thật ngộ nghĩnh. Diogenes, ông ở đấy."

"Cô có biết gì khác về tôi nữa không?"

" Ông già rồi. Chúng ta có liên hệ ... ông là anh của mẹ tôi."

"Cô có biết những người khác trong gia đình tôi không?"

"Tôi biết vợ ông... và các con ông. Ông có những đứa con trai. Hai đứa lớn hơn tôi. Mẹ tôi chết rồi; bà chết lúc rất trẻ."

"Cha cô nuôi nấng cô phải không?"

"Phải, nhưng nay tôi đã có chồng"

"Cô đang mong có con phải không?"

"Phải. Tôi sợ hãi. Tôi không muốn chết trong khi đứa con được sinh ra."

"Có phải việc như vậy đã xẩy ra cho mẹ cô không?"

"Phải"

"Và cô sợ việc này xẩy cho cô phải không."

"Việc như thế đã xẩy ra nhiều lần"

"Đây có phải là đứa con đầu tiên của cô phải không?"

"Phải, tôi sợ lắm. Tôi mong muốn sinh sớm. Tôi rất to lớn. Tôi rất khó chịu khi di chuyển... Trời lạnh." Cô đã tự động tiến xa hơn. Đứa trẻ sắp được sinh. Catherine chưa bao giờ có con, và tôi cũng chưa bao giờ đỡ đẻ trong mười bốn năm dù có khi luân chuyển đến sản khoa của trường y.

Tôi hỏi, "Cô bây giờ ở đâu?"

"Tôi đang nằm trên đá, Trời rất lạnh. Tôi đau đớn... Ai đó phải giúp tôi. Người nào đó phải giúp tôi?" Tôi bảo cô phải thở sâu; đứa bé sẽ sinh ra không đau đớn. Đồng thời cô đang hổn hển và rên rỉ. Cơn đau đẻ của cô lâu chừng vài phút thống khổ, rồi đứa bé được sinh ra. Cô có đứa con gái.

"Bây giờ cô cảm thấy khá hơn chưa?"

"Rất yếu ... quá nhiều máu!"

"Cô có biết cô đặt tên con bé là gì không?

‘Không, tôi quá mệt... Tôi muốn đứa con tôi."

"Con cô đây." Tôi cương thêm, "bé gái"

‘Vâng, chồng tôi rất hài lòng." Cô kiệt sức. Tôi bảo cô hãy ngủ đi một giấc ngủ ngắn và khi tỉnh dậy sẽ khoan khoái. Sau một hay hai phút, tôi đánh thức cô dạy.

"Bây giờ cô cảm thấy khá hơn không?"

"Vâng... tôi nhìn thấy thú vật. Những con thú này mang cái gì đó trên lưng. Có những cái thúng ở trên. Có rất nhiều thứ trong thúng. . đồ ăn ... một số trái cây chín..."

"Đó là vùng đất tốt phải không?"

"Vâng, có nhiều thực phẩm."

"Cô có biết tên của mảnh đất này không? Cô gọi nó là gì khi một người lạ hỏi cô tên của cái làng ấy?"

"Cathenia... Cathenia"

"Có vẻ như một thành phố Hy Lạp", Tôi nhắc lại.

"Tôi không biết thành phố đó. Ông biết thành phố đó à? Ông đã đi khỏi làng và đã trở về. Tôi thì không." Đó là một khúc quanh. Trong kiếp ấy, vì tôi là cậu cô, nhiều tuổi và khôn ngoan hơn, cô hỏi liệu tôi có biết câu trả lời cho câu hỏi của tôi. Không may, tôi không đi vào được thông tin đó.

Tôi hỏi, " Có phải cô đã sống suốt đời trong làng này?"

"Vâng", cô thì thào, "nhưng ông đi nhiều nên ông biết điều ông dạy. Ông đi để học, để biết đất nước... những con đường buôn bán khác nhau cho nên ông có thể ghi lại và làm các bản đồ... Ông già rồi. Ông đi với những người trẻ vì ông hiểu bản đồ. Ông rất khôn ngoan."

"Ý cô nói bản đồ nào?" Bản đồ các vì sao?"

"Ông, ông hiểu các ký hiệu. Ông có thể giúp họ làm... giúp họ làm bản đồ"

"Cô có nhận được những người khác trong làng không?"

"Tôi không biết họ... nhưng tôi biết ông."

"Được rồi. Quan hệ của chúng ta thế nào?"

"Rất tốt. Ông rất tử tế. Tôi thích ngồi cạnh ông , rất thoải mái... Ông đã giúp chúng tôi. Ông đã giúp các chị em tôi..."

"Dù đã đến lúc, nhưng tôi phải xa ông, vì tôi già."

"Không" Cô chưa sẵn sàng nói về cái chết của tôi. " Tôi nhìn thấy bánh mì, bánh dẹt, rất dẹt và mỏng."

"Người ta đang ăn bánh phải không?

"Phải, cha tôi và chồng tôi và tôi. Và những người khác trong làng."

"Dịp nào thế?"

"Đó là một số... một lễ hội nào đó".

"Cha cô ở đấy à?"

"Vâng"

"Con cô có ở đấy không?"

"Vâng, nhưng nó không đi với tôi. Nó ở với chị tôi."

"Hãy nhìn kỹ chị cô", tôi đề nghị, hãy nhìn kỹ để có thể nhận ra người nào đó trong hiện kiếp của Catherine.

"Vâng, tôi không biết chị ấy"

"Cô có nhận được cha cô không?"

"Có. . có... Edward. Có những quả sung, quả sung và ô liu, một vài con cừu. Họ đang thui con cừu." Nghỉ hồi lâu. "Tôi thấy thứ gì trắng... "Cô đã tiến xa hơn về thời gian. Nó trắng . . đó là một cái hòm vuông. Đó là chỗ mà người ta đặt người vào khi chết."

"Lúc ấy có người nào chết không?"

"Có ... cha tôi. Tôi không thích nhìn vào ông. Tôi không muốn nhìn thấy ông."

"Cô phải nhìn à?’

"Phải, họ sẽ mang ông đi và chôn ông. Tôi cảm thấy rất buồn."

‘Vâng, tôi biết. Thế cô có bao nhiêu con?" Người phóng viên trong tôi không để cho cô buồn thảm.

"Tôi có ba con, hai trai một gái." Sau khi trả lời tôi theo bổn phận cô trở lại buồn thảm. "Họ đã để xác ông dưới một cái gì đó, dưới một thứ vải phủ . ." Cô dường như rất buồn.

"Tôi cũng chết vào lúc đó à?"

"Không. Chúng ta đang uống nước nho, nước nho trong một cái cốc."

"Bây giờ trông tôi thế nào?"

"Ông rất già, rất già"

"Cô cảm thấy khá hơn chưa?"

"Không!, Khi ông chết tôi sẽ cô đơn."

"Cô có sống với các con cô không? Chúng sẽ săn sóc cô."

‘Nhưng ông biết rất nhiều. Cô nói giống như một bé gái.

Tôi an tâm cô, "Cô sẽ qua. Cô biết rất nhiều, Cô sẽ an toàn. Và thấy cô có vẻ đang nghỉ ngơi một cách thanh thản.

"Cô có thanh thản hơn không? Bây giờ cô ở đâu?"

"Tôi không biết." Dường như cô đã vượt qua trạng thái tinh thần dù rằng cô không kinh qua cái chết của cô trong kiếp sống ấy. Tuần lễ này chúng tôi đã đi qua hai kiếp sống với các chi tiết đáng kể. Tôi chờ đợi các Bậc Thầy, nhưng Catherine tiếp tục nghỉ ngơi. Sau một vài phút chờ đợi, tôi hỏi liệu cô có thể nói chuyện với những Thần Linh Bậc Thầy không.

Cô giải thích, "Tôi chưa đến được bình diện đó. "Tôi không thể nói được cho đến khi tôi đến."

Cô chưa bao giờ tới được bình diện đó. Sau một lúc chờ đợi, tôi đưa cô ra khỏi trạng thái hôn mê.
CHƯƠNG TÁM

Ba tuần lễ trôi qua trước buổi thôi miên kế tiếp. Vào kỳ nghỉ hè của tôi, nằm dài ở một bãi biền miền nhiệt đới, tôi có thì giờ và khoảng cách để ngẫm nghĩ những gì đã diễn ra với Catherine: đi ngược lại tiền kiếp bằng thôi miên lùi với những quan sát chi tiết và giải thích các vật thể, các tiến trình, và những dữ kiện - mà cô không có kiến thức trong trạng thái bình thường lúc tỉnh; giảm bớt những triệu chúng của cô qua những buổi thôi miên lùi về dĩ vãng; không thuyên giảm chút nào đợt trị bệnh thông thường trong mười tám tháng bằng tâm lý trị liệu; những tiết lộ chính xác khủng khiếp từ trạng thái tinh thần sau cái chết, chuyển tải kiến thức mà cô không được phép biết đến; chất thẩm mỹ tinh thần, và những bài học về những phương chiều không gian sau khi chết, về sự sống và cái chết, sinh và tái sinh, từ các Thần Linh Bậc Thầy nói bằng trí tuệ và một kiểu cách rất hay vượt xa khả năng của Catherine. Quả thật có rất nhiều cái để suy ngẫm.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:32 am

Qua nhiều năm tôi đã trị bệnh cho hàng trăm có lẽ hàng ngàn những bệnh nhân tâm thần, và họ đã phản ảnh toàn bộ phạm vi rối loạn xúc cảm. Tôi đã quản lý các phòng bệnh nhân nội trú ở bốn trường y khoa lớn. Tôi đã làm nhiều năm trong các phòng cấp cứu tâm thần, những bệnh xá bệnh nhân ngoại trú, và nhiều cơ sở khác đánh giá và điều trị bệnh nhân ngoại trú. Tôi hoàn toàn biết về những ảo giác của thính và thị giác và những ảo giác của bệnh loạn tinh thần. Tôi đã điều trị nhiều bệnh nhân có những triệu chứng gần như điên và những rối loạn có tính cuồng loạn, kể cả những người mắc chứng tâm thần phân lập hay đa lập. Tôi đã là một giáo viên chuyên nghiệp trong việc bài trừ Ma túy và Rượu chè, được tài trợ bởi Viện Quốc Gia Bài Trừ Ma Túy, và tôi rất quen thuộc với toàn bộ tác động của ma túy lên bộ não.

Catherine không có một trong những triệu chứng hay hội chứng ấy. Điều đã xẩy ra không phải là biểu lộ của bệnh tâm thần. Cô không bị loạn tinh thần hay không va chạm với thực tế, và cô cũng chưa bao giờ bị ảo giác (Nhìn hay nghe những thứ thực ra không ở đó hay ảo tưởng (niềm tin sai).

Cô không dùng ma túy và cũng không có những nét hành sử bất thường. Cô không có cá tính cuồng loạn, và cô không có khuynh hướng chia rẽ. Tức là, cô thường nhận thức được cái cô đang làm và suy nghĩ và không hành động theo một "hướng tự động" chưa bao giờ có cá tính bị tâm thần phân lập hay đa lập. Những việc cô đưa ra thường vượt quá khả năng ý thức của cô cả về kiểu cách lẫn nội dung. Một số trong đó đặc biệt tâm linh, như việc nhắc đến những biến cố rõ ràng và những dữ kiện về quá khứ của tôi (tức là biết về cha tôi và con tôi) , cũng như về chính cô. Cô có kiến thức mà cô chưa bao giờ được biết, hay tích lũy, trong hiện kiếp. Kiến thức này, cũng như toàn bộ kinh nghiệm, xa lạ với văn hóa và giáo dục của cô và trái ngược với nhiều niềm tin của cô.

Catherine là một người khá đơn giản và thật thà. Cô không phải là một học giả, và cô không thể tạo ra các dữ kiện, chi tiết, những biến cố lịch sử, mô tả và chất thơ phát ra qua cô. Là một bác sĩ tâm thần, một nhà khoa học gia, tôi chắc chắn là sự việc này có gốc từ một phần của cái tâm vô thức của cô. Điều đó là thật, vượt qua bất cứ nghi kỵ nào. Dù cho Catherine là một diễn viên giỏi, cô không thể nào tái tạo được những cái xẩy ra ấy. Sự am hiểu quá chính xác, và quá rõ ràng, vượt qua khả năng của cô.

Tôi cân nhắc mục đích trị liệu trong việc khảo sát quá khứ của Catherine. Một khi chúng tôi đã bước chân vào lĩnh vực mới này, bệnh tình của cô thuyên giảm hết sức nhanh chóng, mà không dùng thứ thuốc nào. Có một sức mạnh trị bệnh nào đó trong lĩnh vực này, một sức mạnh dường như hiệu quả nhiều hơn cách chữa trị thông thường hay y khoa hiện đại. Sức mạnh này gồm cả việc nhớ lại và sống lại không chỉ trong những biến cố chấn thương ngắn ngủi mà còn là các chấn thương hàng ngày tác động đến thân thể, tâm trí và cái ngã của chúng ta. Trong những câu hỏi của tôi, khi chúng tôi khảo sát các kiếp sống, tôi đang tìm kiếm nét điển hình cho những chấn thương này, kiểu như xúc cảm kinh niên hay bị lạm dụng thể chất, nghèo khổ và chết đói, bệnh và tàn tật, bị ngược đãi liên miên và thành kiến, những thất bại liên tiếp và vân vân... Tôi cũng chú ý đến những thảm kịch bi thương, như lâm vào tình trạng thập tử nhất sinh, hiếp dâm, thảm họa hàng loạt, hoặc bất cứ biến cố hãi hùng nào để lại vết hằn lâu dài. Kỹ thuật này cũng tương tự như xem lại thời thơ ấu trong cách trị liệu thông thường, ngoại trừ khung thời gian là vài ngàn năm, đúng hơn là mười, mười lăm năm theo thường lệ. Cho nên câu hỏi của tôi trực tiếp hơn, và dẫn dắt nhiều hơn cách trị liệu thông thường. Nhưng sự thành công trong khảo sát không chính thống của chúng tôi thì không thể nghi ngờ được. Cô ấy (và những người khác sau này, được trị liệu bằng thôi miên lùi về dĩ vãng) đang được chữa lành nhanh chóng lạ thường.

Nhưng có thể có cách giải thích nào khác cho những ký ức tiền kiếp của Catherine không? Có thể nào những ký ức này được mang theo trong gen của cô? Khả năng này là mơ hồ về mặt khoa học. Ký ức di truyền đòi hỏi truyền liên tục vật chất di truyền từ thế hệ này đến thệ hệ kia. Catherine đã sống trên khắp trái đất, và tuyến di truyền của cô bị ngắt quãng nhiều lần. Cô bị chết trong cơn lụt với con cái, hay không có con, hay chết lúc còn trẻ. Vốn liếng di truyền của cô đã chấm dứt và không được truyền lại. Và sự sống sót sau khi chết và tình trạng nửa nợ nửa kia là gì? Không có xác thân và chắc chắn là không có vật chất di truyền, thế mà những ký ức của cô đã tiếp tục. Không, sự giải thích về di truyền phải được loại bỏ.

Ý kiến của Jung về vô thức tập thể, nơi qui tụ tất cả ký ức và kinh nghiệm của con người có thể bằng cách nào đó được kết nối vào là thế nào? Những nền văn hóa khác nhau thường có những ký hiệu tương tự, ngay cả trong giấc mơ. Theo Jung, cái vô thức tập thể không phải là do cá nhân đạt được mà được "thừa kế" một cách nào trong cấu trúc não bộ. Nó gồm có động cơ và hình ảnh nảy sinh lại từ đầu trong mọi văn hóa, không dựa vào truyền thống lịch sử hay sự phổ biến. Tôi nghĩ rằng những ký ức của Catherine quá rõ ràng để có thể giải thích bằng quan niệm của Jung. Cô không tiết lộ những biểu tượng, hình ảnh hay động cơ chung. Cô tả lại chi tiết về người và nơi chốn riêng biệt. Ý kiến của Jung dường như quá mơ hồ. Và lại còn có tình trạng nửa nọ nửa kia phải được xét đến. Nói chung, luân hồi có ý nghĩa nhất.

Hiểu biết của Catherine không chỉ chi tiết và rõ ràng, mà còn vượt quá khả năng có ý thức của cô. Cô biết những sự việc không thể là do lượm lặt từ sách vở và rồi tạm thời bị quên đi. Hiêu biết của cô có lẽ không thể có được trong thời thơ ấu và rồi cũng bị giữ kín hay bị kiềm chế tách khỏi thức. Và về các Bậc Thầy và những thông điệp của các Ngài thì sao? Việc này đến qua Catherine chứ không phải về các ký ức của Catherine. Và sự thông thái của các Ngài cũng được phản ảnh trong ký ức của Catherine trong những tiền kiếp. Tôi biết rằng tin tức này và những thông điệp này là không thật. Tôi biết không chỉ sau nhiều năm nghiên cứu cẩn trọng về con người, tâm trí, bộ óc và cá tính của họ, mà tôi còn biết điều này bằng trực giác, thâm chí trước cả cuộc thăm viếng của cha và con tôi. Bộ óc tôi với nhiều năm rèn luyện cẩn thận về khoa học biết điều này, và xương tủy tôi cũng biết.

"Tôi nhìn thấy những cái hũ có một loại dầu nào trong đó" Mặc dù ba tuần gián đoạn, Catherine đã nhanh chóng rơi vào hôn mê sâu. Cô nhập vào một xác thân khác ở một thời gian khác. "Có nhiều loại dầu khác nhau trong các hũ. Dường như ở trong một loại nhà kho hay chỗ để chứa các thứ. Những các hũ mầu đỏ... đỏ, làm bằng loại đất đỏ nào đó. Có những dải xanh chung quanh, dải xanh ở chung quanh cổ hũ. Tôi nhìn thấy có những người ở đấy... có những người ở trong hang. Họ di chuyển những cái vại và hũ chung quanh, chất lên nhau và đặt chúng ở một chỗ nào đó. Đầu họ trọc ... Họ không có tóc trên đầu. Da họ nâu... da nâu."

"Cô có ở đấy không?"

"Vâng... Tôi đang niêm phong những cái vại ... bằng một loại sáp... niêm kín nắp vại bằng sáp."

"Cô có biết dầu để làm gì không?"

"Tôi không biết"

"Cô có nhìn thấy chính cô không? Hãy nhìn vào chính cô. Cho tôi biết trông cô như thế nào." Cô ngưng lại và quan sát chính mình.

"Tôi có một cái bím tóc. Có một cái bím trên tóc tôi. Tôi có một loại dài ... một loại áo dài. Nó có viền vàng chung quanh bên ngoài."

"Cô có làm việc cho những thầy tu này - hay những người trọc đầu này không?"

" Công việc của tôi là niêm kín những cái vại bằng sáp. Đó là công việc của tôi."

"Nhưng cô không biết những cái vại này dùng làm gì à?"

"Hình như những thứ này để dùng trong nghi lễ tôn giáo. Nhưng tôi không chắc chắn... cái đó là gì. Có việc xức dầu nào đó, trên đầu... thứ gì đó trên đầu ông, trên tay ông. Tôi nhìn thấy một con chim, một con chim vàng, nó quanh quẩn ở cổ tôi. Nó dẹt. Nó có cái đuôi dẹt, một cái đuôi rất dẹt, và đầu nó chĩa xuống ... chân tôi.

"Chân cô?"

"Vâng, đó là cách phải mặc. Có một chất... một chất bầy nhầy đen. Tôi không biết nó là gì"

"Chất đó ở đâu?"

"Nó được đựng trong một cái bình cẩm thạch. Họ dùng cái đó, tôi không biết cái đó để làm gì."

"Có cái gì ở trong hang để cô đọc, do đó cô có thể nói cho tôi biết tên của xứ này - chỗ này - nơi mà cô ở, hay ngày tháng?"

"Không có gì ở trên tường, tường trống trơn. Tôi không biết tên". Tôi bảo cô tiếp tục đi xa hơn.

"Tôi thấy cái vại trắng, một loại vại trắng. Cái tay cầm ở phần trên bằng vàng , một loại vàng dát trên nó."

"Cái gì trong vại đó?"

"Một loại dầu xức. Một cái gì đó gì đó để qua bên kia thế giới."

"Cô có phải là người đang đi sang bây giờ phải không?"

"Không. Không ai cả theo tôi biết."

"Phải chăng đây là công việc của cô?" "Sửa soạn cho người ta để đi qua".

"Không. Thầy tu làm việc đó, chứ không phải là tôi. Chúng tôi chỉ là người tiếp dầu sức, hương cho họ... "

"Bây giờ cô khoảng bao nhiêu tuổi?"

"Mười sáu tuổi."

"Cô đang sống với cha mẹ phải không?"

"Phải, ở một cái nhà bằng đá, một loại nhà ở bằng đá. Nó không thật lớn. Ngôi nhà nóng và khô. Khí hậu rất nóng."

"Hãy đi vào trong nhà"

"Tôi ở đấy"

"Cô có nhìn thấy người khác trong gia đình cô ở quanh đó không?"

"Tôi thấy một người anh, và mẹ tôi cũng ở đấy, và một em bé, một đứa bé của người nào đó."

"Có phải đứa bé của cô không?"

"Không"

"Cái gì có ý nghĩa bây giờ? Hãy đi tới cái gì có ý nghĩa giải thích những triệu chứng của cô trong hiện kiếp. Chúng ta cần phải hiểu. Thận trọng để đi qua điều đó. Hãy đi tới những biến cố."

Cô trả lời bằng giọng thì thào rất dịu dàng. "Mọi thứ đều đúng lúc... . Tôi thấy người ta đang chết."

"Người ta đang chết"

"Phải... họ không biết đó là gì."

"Một chứng bệnh". Đột nhiên lóe lên trong tôi là cô lại va chạm vào một kiếp sống thời cổ, một kiếp sống mà trước đây cô đã lùi về. Trong kiếp sống đó, một bệnh truyền nhiễm do nước đã giết chết cha Catherine và một người anh của cô. Catherine cũng bị ngã bệnh nhưng không chết vì bệnh đó. Dân chúng dùng tỏi và dược thảo để tránh bệnh truyền nhiễm này. Catherine đang buồn rầu vì người chết không được ướp đúng cách.

Nhưng bây giờ chúng tôi lại tiếp cận với kiếp sống này từ ở một góc độ khác. Tôi hỏi "Có cái gì cần đến nước phải không?"

"Họ cũng tin như vậy, Nhiều người đang chết." Tôi đã biết chung cuộc.

"Nhưng cô không chết , không chết vì việc đó"

"Không, tôi không chết."

"Nhưng cô bị bệnh, Cô trở nên đau yếu."

"Phải, tôi bị lạnh,... rất lạnh. Tôi cần nước... nước. Họ nghĩ rằng bệnh đến do nước ... thứ gì đó đen ... người nào đó bị chết.

"Ai chết?"

"Cha tôi chết, và một người anh tôi chết. Mẹ tôi không sao, bà bình phục lại. Bà rất yếu. Họ phải chôn những người này. Họ phải chôn những người đó, và người ta buồn vì việc này ngược với tập tục tôn giáo. "

"Tập tục đó là gì?" Tôi ngạc nhiên trước sự nhất quán trong việc nhớ lại, từng sự việc một, đúng như cô đã kể kiếp sống này vài tháng trước đây. Thêm nữa, sự thay đổi tập tục chôn cất khiến cô buồn nhiều.

"Người được bỏ trong hang. Các thi hài được giữ trong các hang. Nhưng trước tiên, xác được các thầy tu sửa soạn. Xác phải được quấn lại và sức dầu. Xác chết được giữ trong hang, nhưng đất đang bị lụt ... Họ nói nước bẩn, Đừng uống nước."

"Có cách nào để chữa bệnh không? Có thứ gì có thể chữa được không?"

"Chúng tôi được uống dược thảo, dược thảo khác nhau. Mùi ... dược thảo và ...ngửi thấy mùi đó. Tôi có thể ngửi thấy mùi đó!"

Cô có nhận ra mùi đó không?"

"Nó trắng. Họ treo nó trên trần nhà."

"Nó giống tỏi không?"

"Nó được treo chung quanh ... Nó có đặc tính tương tự, phải. Đặc tính của nó ... ông để nó vào miệng, vào tai, vào mũi, khắp mọi nơi. Mùi nó rất mạnh. Người ta tin là nó ngăn chận ma quỷ xâm nhập vào cơ thể. Màu tím... trái cây hay thứ gì đó tròn có vỏ mầu tím, vỏ mầu tím trên nó ..."

"Cô có nhận ra nền văn hóa mà cô sống không? Văn hóa ấy có quen thuộc không?"

"Tôi không biết"

"Mầu tím đó là trái cây loại gì đó?"

"Tannis"

"Thứ này có giúp ích cô không? Có phải để chữa bệnh không?"

"Để chữa bệnh vào thời đó."

"Tannis", tôi nhắc lại , một lần tôi xem có phải cô đang nói về cái mà chúng ta nói đến là chất ta nanh hay axít tanic. "Có phải đó là cái mà họ gọi là Tannis?"

"Tôi chỉ... Tôi chỉ nghe thấy "Tannis"

"Cái gì trong kiếp sống đó ẩn mình trong hiện kiếp này? Tại sao cô cứ muốn trở về nơi đây? Cái gì khó chịu quá thế?"

"Tôn giáo", Catherine thì thào nhanh chóng, "tôn giáo vào thời đó. Đó là tôn giáo của sợ hãi... sợ hãi. Có quá nhiều thứ để sợ... và quá nhiều thần."

"Cô có thể nhớ tên của vị thần nào không?"

"Tôi nhìn thấy mắt. Tôi nhìn thấy một loại gì đó đen... một loại ... nó giống như chó rừng. Nó ở trong bức tượng. Nó là kiểu người canh gác nào đó ... Tôi nhìn thấy một người đàn bà, một nữ thần với một loại mũ sắt trên đầu."

"Cô có biết tên vị nữ thần?"

"Osiris ... Sirus ... đại loại như vậy. Tôi nhìn thấy một con mắt ... con mắt, chỉ một con mắt, một con mắt trên một xâu chuỗi. Chuỗi này bằng vàng."

"Một con mắt?"

" Phải ... Ai là Hathor?"

"Cái gì?"

"Hathor ! Ai đó !

Tôi chưa bao giờ nghe thấy Hathor, mặc dù tôi biết đó là Osiris, nếu phát âm này là đúng, là anh chồng của Isis, một vị thần lớn Ai Cập. Sau này tôi biết Hathor là nữ thần Ai Cập của tình yêu, hạnh phúc và niềm vui. Tôi hỏi, "Có phải đó là một trong các vị thần không?"

"Hathor! Hathor!. Ngưng lại hồi lâu. "Con chim ... Nó thì dẹt... dẹt, con phượng hoàng..." Cô ta lại im lặng.

"Bây giờ hãy tiến tới ngày cuối cùng trong kiếp này. Hãy đi tới ngày cuối cùng, nhưng trước khi chết. Hãy nói cho tôi biết cô nhìn thấy gì."

Cô trả lời bằng một giọng thì thào dịu dàng . "Tôi nhìn thấy người và các tòa nhà. Tôi nhìn thấy dép, dép. Có vải thô, loại vải thô."

"Cái gì xẩy ra? Bây giờ hãy tiến tới lúc sắp chết. Cái gì đã xẩy ra cho cô? Cô có thể thấy mà ."

"Tôi không thấy ... Tôi không nhìn thấy tôi nữa."

"Bây giờ cô ở đâu? Cô nhìn thấy gì?"

"Không thấy gì. . chỉ tối om ... Tôi nhìn thấy ánh sáng, một ánh sáng ấm áp". Cô đã chết rồi, đã chết và đi vào trạng thái tinh thần. Hiển nhiên, cô không cần phải trải nghiệm cái chết thực sự của cô nữa.

Tôi hỏi, "Cô có thể đến với ánh sáng chứ?"

"Tôi đang tới đây" Cô đang nghỉ ngơi thanh thản lại chờ đợi.

"Cô có thể nhìn lại về những bài học trong kiếp sống đó không? Cô có ý thức được những bài học này không?"

Cô thì thào, "Không". Cô tiếp tục chờ đợi. Đột nhiên, cô dường như tỉnh táo tuy mắt cô vẫn nhắm như thường lệ khi đi vào trạng thái hôn mê thôi miên. Đầu cô trăn trở bên này bên kia.

"Bây giờ cô nhìn thấy gì? Cái gì đang xẩy ra?"

Giọng cô to lên. "Tôi cảm thấy ... người nào đó nói với tôi!"

"Họ nói gì?"

"Nói về kiên nhẫn. Người ta phải có kiên nhẫn..."

"Vâng, tiếp tục"

Câu trả lời từ nơi Bậc Thầy thi nhân. "Kiên nhẫn và đúng lúc ...mọi thứ sẽ đến khi nó phải đến. Đời sống không thể vội vàng, không thể hoạt động dựa vào thời khóa biểu như mọi người mong muốn. Chúng ta phải chấp nhận những gì đến với chúng ta vào lúc nhất định, và đừng đòi hỏi gì thêm nữa. Nhưng đời sống là vô tận, cho nên chúng ta không bao giờ chết, chúng ta chưa bao giờ thực sự được sinh ra. Chúng ta chỉ đi qua những giai đoạn khác nhau. Không có chung cuộc. Con người có nhiều phương chiều. Nhưng thời gian không phải như chúng ta thấy, mà đúng hơn là trong những bài học được học."

Ngừng lại khá lâu. Bậc Thầy thi nhân tiếp tục.

"Mọi việc sẽ sáng tỏ đúng lúc đối với bạn. Nhưng bạn phải có may mắn để hấp thụ kiến thức mà chúng tôi đã cho bạn." Catherine im lặng.

Tôi hỏi, "Có gì hơn nữa mà tôi phải học không?

Cô thì thào dịu dàng, "Họ đi rồi, tôi không nghe thấy ai nữa."
CHƯƠNG CHÍN

Mỗi tuần một lớp sợ hãi và lo âu tác động đến thần kinh lại được bóc đi khỏi Catherine. Mỗi tuần cô dường như thanh thản nhiều hơn một chút, nhẹ nhàng hơn, và một chút kiên nhẫn hơn. Cô tự tin hơn, và người ta bị cô lôi cuốn. Catherine cảm thấy nhiều yêu thương hơn, và những người khác trở lại thương yêu cô. Viên kim cương nội tâm là cá tính thật sự của cô đang lấp lánh rực rỡ cho tất cả mọi người thấy.

Những buổi thôi miên lùi về dĩ vãng của Catherine bắc nhip cầu hàng ngàn năm. Mỗi khi cô đi vào hôn mê thôi miên, tôi không biết những dòng đời về các kiếp sống của cô xuất hiện ở chỗ nào. Từ những hang động thời tiền sử đến Ai Cập cổ đại , đến thời hiện đại - Cô đã ở đấy. Và tất những kiếp sống của cô đều được quan sát một cách trìu mến, ở nơi nào đó vượt qua thời gian, bởi những Bậc Thầy. Trong buổi điều trị hôm nay cô xuất hiện vào thế kỷ thứ hai mươi, nhưng không phải là Catherine.

"Tôi nhìn thấy một thân máy bay và đường băng, một loại đường băng cho máy bay", cô thì thào dịu dàng.

"Cô có biết đấy là đâu không?"

"Tôi không thể nhìn thấy ... Alsatian? Rồi quả quyết hơn, Alsatian."

"Ở Pháp"

"Tôi không biết, chỉ biết Alsatian ... Tôi thấy tên Von Marks, Von Marks (theo ngữ âm) . Một loại mũ sắt nâu hay một cái mũ ... một cái mũ có những kính bảo hộ. Quân đội đã bị hủy diệt. Chỗ này dường như là một nơi hẻo rất hẻo lánh. Tôi không nghĩ rằng có một thành phố gần đây."

"Cô nhìn thấy gì?"

"Tôi nhìn thấy những tòa nhà bị phá hủy. Tôi nhìn thấy những tòa nhà ... Đất bị cày tung lên bởi ... bom đạn. Có một nơi rất tốt để ẩn trốn."

"Họ đang làm gì?"

"Tôi đang giúp họ với những người bị thương. Họ đang mang những người bị thương đi khỏi."

""Hãy nhìn vào chính cô đi. Hãy mô tả chính cô. Hãy nhìn xuống và xem cô đang ăn mặc gì."

"Tôi mặc một loại áo khoác (jacket). Tôi có mớ tóc vàng hoe. Mắt tôi xanh. Áo jacket của tôi rất bẩn. Có rất nhiều người bị thương."

"Cô có được huấn luyện để giúp đỡ các thương binh không?"

"Không"

"Cô sống ở đấy hay được người ta mang cô đến đấy? Cô sống ở đâu?"

"Tôi không biết"

"Cô khoảng bao nhiêu tuổi?"

"Ba mươi lăm tuổi". Catherine hai mươi chín tuổi, mắt nâu chứ không xanh. Tôi tiếp tục hỏi.

"Cô có tên không, " Tên trên áo jacket ấy không?"

"Có những cái cánh trên áo jacket. Tôi là một phi công... một loại phi công."

"Cô lái máy bay?"

"Vâng, tôi phải lái."

"Ai bắt cô bay?"

"Tôi phục vụ bay. Đó là công việc của tôi."

"Cô cũng phải bỏ bom chứ?"

"Chúng tôi có người bắn súng trên máy bay. Có một hoa tiêu."

"Cô lái loại máy bay nào?"

"Loại máy bay trực thăng. Nó có bốn cánh quạt. Đó là cánh cố định". Tôi rất ngạc nhiên vì Catherine không biết gì về máy bay cả. Tôi băn khoăn cô nghĩ thế nào về "cánh cố định" . Nhưng giống như làm bơ hay ướp xác người chết, khi bị thôi miên cô có cả kho hiểu biết rộng lớn. Tuy nhiên chỉ một phần hiểu biết này sẵn sàng cho cô sử dụng hàng ngày, tâm thức. Tôi thúc giục.

"Cô có gia đình không?"

"Họ không ở đây với tôi."

"Họ có an toàn không?"

"Tôi không biết. Tôi e rằng... e rằng họ sẽ trở lại. Bạn bè tôi sắp chết."

"Cô sợ ai sẽ quay trở lại?"

"Kẻ thù."

"Họ là ai?"

"Người Anh ... Quân Đội Mỹ ... người Anh."

"Phải. Cô có nhớ gia đình không?"

"Nhớ gia đình ư? Có quá nhiều bối rối".

"Hãy trở lại vẫn kiếp này, trở lại thời gian sung sướng trước chiến tranh, thời gian với gia đình ở nhà. Cô có thể thấy cái đó. Tôi biết là khó khăn, nhưng tôi muốn cô thư giãn. Cố gắng nhớ lại"

Catherine ngưng, rồi thì thào "Tôi nghe thấy cái tên Eric... Eric. Tôi thấy đứa bé tóc vàng hoe, một bé gái."

"Có phải nó là con cô không?"

"Phải, hẳn là ... Margot."

"Nó có gần gũi với cô không?"

"Nó ở với tôi. Chúng tôi đang đi pic nic. Ngày thật đẹp."

"Có ai ở đấy với cô không? Ngoài Margot?"

"Tôi nhìn thấy một người đàn bà tóc nâu ngồi trên cỏ".

"Có phải bà ấy là vợ không?"

"Phải ... Tôi không biết bà ấy" cô nói thêm, ám chỉ việc xác nhận một người nào đó trong hiện kiếp của Catherine.

"Cô biết Margot chứ? Hãy nhìn kỹ Margot. Cô biết nó chứ?"

"Vâng, nhưng không chắc chắn làm thế nào ... tôi biết nó từ nơi nào đó."

"Cô sẽ nhớ mà. Hãy nhìn vào mắt nó"

Cô trả lời, "Đó là Judy". Judy hiện nay là người bạn tốt nhất của Catherine. Có một sự quan hệ tức khắc ở cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ, và họ đã trở thành bạn thân, tin cẩn lẫn nhau, biết suy nghĩ và nhu cầu của nhau trước khi nói ra.

"Judy?" Tôi nhắc lại.

"Phải, Judy. Trông giống Judy, ... cười giống như Judy"

"Được, rất tốt. Thế ở nhà cô có hạnh phúc không hay có những khó khăn không".

"Không có khó khăn gì" (Ngưng lâu ). Vâng, đúng đó là thời gian bất ổn. Có một khó khăn lớn trong chính phủ Đức, cấu trúc chính trị. Quá nhiều người muốn đi theo quá nhiều hướng. Cuối cùng sinh ra chia rẽ ... Nhưng tôi chiến đấu cho xứ sở của tôi."

"Cô có cảm nghĩ vững vàng về đất nước cô không?"

"Tôi không thích chiến tranh. Tôi cảm thấy giết chóc là sai trái, nhưng tôi phải làm nhiệm vụ của tôi."
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:35 am

"Bây giờ hãy quay về, quay về chỗ của cô ở, nơi có cái máy bay trên mặt đất, bỏ bom, và chiến tranh. Chậm rồi, chiến tranh đã bắt đầu. Anh và Mỹ đang ném bom xuống bên cạnh cô. Hãy quay về. Có nhìn thấy máy bay nữa không?"

"Có"

"Vẫn còn có những cảm nghĩ như vậy về bổn phận và giết chóc, chiến tranh?"

" Vâng, chúng tôi sẽ chết vô ích "

"Cái gì?"

"Chúng tôi sẽ chết vô ích" cô nhắc lại bằng một giọng to hơn.

"Vô ích? Tại sao lại vô ích? Không có vinh quang trong đó sao? Không phải là bảo vệ quê hương hay những người thân của mình sao?"

"Chúng tôi sẽ chết để bảo vệ lý tưởng của một ít người".

"Dù đây là những nhà lãnh đạo đất nước? Họ có thể sai lầm ." Cô nhanh chóng cắt ngang lời tôi .

"Họ không phải là những nhà lãnh đạo. Nếu họ là những nhà lãnh đạo, thì đã không có nhiều xung đột nội bộ ... trong chính phủ."

"Một số người gọi họ là những người điên cuồng - Việc này có ý nghĩa với cô không? Tất cả chúng ta hẳn là rồ dại mới bị họ sai khiến, để họ dẫn dắt chúng ta ... để giết người . Và giết chính chúng ta ..."

"Điên Cuồng Quyền Lực?"

"Cô có người bạn nào còn lại không?"

"Có, có một số hãy còn sống."

"Có người nào thân thiết với cô không? Trong phi hành đoàn của cô, người bắn súng và hoa tiêu còn sống không?"

"Tôi không thấy họ, nhưng máy bay của tôi không bị phá hủy."

" Cô có lại bay với máy bay này không?"

"Vâng, chúng tôi phải vội vàng lấy chiếc máy bay còn lại cất cánh khỏi đường băng trước khi họ trở lại."

"Hãy vào máy bay đi."

"Tôi không muốn đi". Như thể là cô muốn điều đình với tôi.

"Cô phải cất cánh ngay đi"

"Không có nghĩa lý gì ...

"Cô làm nghề gì trước khi có chiến tranh.? Có nhớ không? Eric làm gì?"

"Tôi là cấp chỉ huy thứ hai... trên một máy bay nhỏ, một số máy bay chở hàng."

"Vậy cô cũng là một phi công phải không?"

"Phải"

"Phải xa nhà nhiều phải không?"

Cô trả lời một cách dịu dàng buồn bã . "Vâng"

Tôi chỉ dẫn, "Hãy đi vào chuyến bay kế tiếp. Có thể làm được không?"

"Không có chuyến bay kế tiếp"

"Có việc gì xẩy ra thế?"

"Có" Hơi thở của cô dồn dập, và cô trở nên khích động. Cô đã tiến đến ngày chết.

"Cái gì xẩy ra thế?"

"Tôi đang chạy ra khỏi một đám cháy. Toán của tôi tan rã vì đám cháy này."

" Cô sống sót chứ?

"Không ai sống sót... không ai sống sót qua chiến tranh. Tôi đang chết".

Hơi thở của cô nặng nề. "Máu! Máu khắp nơi! Tôi thấy đau ngực. Tôi bị bắn ở ngực... và cẳng chân... và ở cổ. Đau nhiều quá..." Cô đang trong cơn hấp hối, nhưng không bao lâu, hơi thở của cô chậm lại và trở nên điều hòa hơn; Cơ mặt cô dịu lại, và vẻ an bình đến với cô. Tôi công nhận ra cái bình tĩnh trong trạng thái chuyển tiếp. Cô trông thoải mái hơn. Chấm dứt rồi phải không?"Cô tạm dừng rồi trả lời dịu dàng.

"Tôi đang lơ lửng ... ra khỏi xác thân. Tôi không có xác thân. Tôi lại ở trong tinh thần."

"Tốt, Hãy nghỉ ngơi. Cô đã có một kiếp sống khó khăn. Cô đã đi qua một cái chết khó khăn. Cô cần nghỉ ngơi. Hãy tự phục hồi lại. Cô đã học được gì ở kiếp sống này?"

"Tôi học được hận thù... giết người không cảm giác ... hận thù không đúng ... người ta hận thù và họ không biết tại sao. Chúng tôi bị lôi kéo vào đó ... bởi ma quỷ khi chúng ta ở trong trạng thái thể chất... "

"Có bổn phận nào cao hơn bổn phận đối với đất nước? Cái gì đó có thể ngăn chận cô không giết? Cả đến khi cô được lệnh? Bổn phận đối với chính cô?"

"Có ..." Nhưng cô không nói cụ thể.

"Có phải cô đang đợi chờ cái gì đó bây giờ phải không?"

" Phải... Tôi đang chờ đợi đi vào trạng thái tái sinh. Tôi phải chờ. Họ sẽ đến với tôi... họ sẽ đến..."

"Tốt. Tôi muốn nói với họ khi họ đến."

Chúng tôi chờ đợi ít phút nữa. Rồi đột nhiên giọng cô to lên và khàn khàn, và Thần Linh Bậc Thầy đầu tiên, không phải Bậc Thầy thi nhân, đang nói.

"Ông thật là đúng khi cho rằng việc này là cách đối xử thích hợp cho những người trong trạng thái thể chất. Ông cần phải trừ tiệt những sợ hãi trong tâm trí họ. Thật là phí phạm năng lượng lớn khi sợ hãi hiện diện. Nó kìm hãm họ không thực hiện được điều mà họ được gửi đến đây để thực hiện. Hãy đi theo tín hiệu từ môi trường chung quanh ông. Họ phải cố gắng ở vào mức độ rất, rất sâu sắc ... nơi không còn cảm thấy xác thân của họ nữa. Lúc ấy ông có thể ảnh hưởng tới họ. Nó chỉ là bề ngoài ... mà những khó khăn phơi bầy. Sâu thẳm trong linh hồn của họ, nơi những ý niệm được sáng tạo, đó là nơi mà ông phải ảnh hưởng tới họ.

"Năng lượng... mọi thứ đều là năng lượng. Quá nhiều bị phí phạm. Những quả núi... trong quả núi rất yên tĩnh; rất tĩnh ở trung tâm. Nhưng bên ngoài là nơi đầy rẫy khó khăn. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, nhưng ông có thể đi sâu hơn nhiều. Ông phải nhìn thấy núi lửa. Muốn làm như vậy ông phải đi sâu vào bên trong.

"Ở trong trạng thái thể chất là bất bình thường. Khi ông ở trong trạng thái tinh thần, đó là điều tự nhiên đối với ông. Khi chúng tôi được phái về, giống như được gửi tới một cái gì đó mà chúng tôi không biết. Chúng tôi mất nhiều thì giờ hơn. Trong thế giới tinh thần, ông phải chờ đợi, và rồi ông sẽ được tái sinh. Có trạng thái tái sinh. Đó là một phương chiều giống như các phương chiều không gian khác, và ông hầu như thành công trong việc tiến tới trạng thái ấy..."

Việc này khiến tôi ngạc nhiên. Làm sao tôi có thể tiếp cận trạng thái tái sinh? "Tôi đã gần như tiến tới đó?", tôi hỏi một cách ngờ vực.

"Phải. Ông biết nhiều hơn người khác nhiều. Ông hiểu hơn nhiều. Hãy kiên nhẫn với họ. Họ không có kiến thức mà ông có. Những thần linh được phái về để giúp đỡ ông. Dù sao ông cũng rất đúng trong việc ông đang làm ... hãy tiếp tục. Không được lãng phí năng lượng này. Ông phải loại bỏ sợ hãi. Đó là vũ khí giới lớn lao nhất mà ông có ..."

Thần Linh Bậc Thầy yên lặng. Tôi cân nhắc ý nghĩa của lời phán truyền lạ thường này. Tôi biết tôi đã thành công trong việc loại bỏ sợ hãi cho Catherine, nhưng lời chỉ dạy này có ý nghĩa toàn cầu nhiều hơn. Đúng là nhiều hơn cả sự xác nhận hiệu quả của thôi miên là một công cụ chữa bệnh. Nó dính líu nhiều hơn đến thôi miên lùi về dĩ vãng, rất khó áp dụng cho đại chúng, từng người một. Không, tôi tin nó liên quan đến nỗi sợ hãi cái chết, nỗi sợ hãi sâu xa trong lòng núi lửa. Sợ hãi cái chết, được dấu kín, luôn sợ hãi không có tiền bạc hay quyền lực nào có thể vô hiệu hóa nó - Cái này là cái cốt tủy. Nhưng nếu con người biết rằng đời sống vô tận, vậy chúng ta không bao giờ chết; chúng ta cũng chẳng bao giờ thực sự sinh ra, thì cái sợ hãi này sẽ tan biến. Nếu họ biết họ đã sống nhiều lần không kể xiết trước đó và sẽ phải sống nhiều lần không kể xiết nữa, họ sẽ cảm thấy an tâm biết bao nhiêu. Nếu họ biết các thần linh ở khắp nơi để giúp họ trong khi họ ở trạng thái thể chất và sau khi chết, trong trạng thái tinh thần, họ sẽ theo các thần linh, kể cả những người thân yêu đã chết, họ sẽ được an ủi đến nhường nào. Nếu họ biết những "thiên thần" bảo vệ thực sự hiện hữu, họ cảm thấy an toàn đến nhường nào. Nếu họ biết những hành động bạo lực và bất công chống lại con người không phải là không đáng kể, mà phải trả vào những kiếp khác, thì họ sẽ nuôi dưỡng sự giận hờn và sự mong muốn trả thù ít đi nhường nào. Và nếu quả thực "bằng kiến thức chúng ta tiếp cận Thượng Đế" thì tài sản vật chất, hay quyền thế có gì hữu ích khi chúng là cứu cánh trong chính chúng và không phải là phương tiện đi đến sự tiếp cận đó? Tham lam và thèm khát quyền thế không còn giá trị gì nữa.

Nhưng làm sao làm cho con người có được kiến thức này? Hầu hết người ta cầu nguyện trong nhà thờ, giáo đường Do Thái, giáo đường Hồi giáo, hay các chùa chiền, những lời cầu nguyện công bố sự bất tử của linh hồn. Nhưng sau khi buổi lễ chấm dứt, họ lại trở về lối mòn tranh đua của họ, lại tham lam và toan tính cùng tính cho mình là trung tâm. Những đặc điểm làm chậm lại sự tiến bộ của linh hồn. Cho nên, nếu không đủ niềm tin, có thể khoa học sẽ làm được. Có lẽ những kinh nghiệm của Catherine và của tôi cần phải được nghiên cứu, phân tích, và báo cáo trong một cách khoa học vô tư bởi những người được đào tạo về khoa học ứng xử và vật lý. Tuy vậy, vào lúc này, viết tài liệu khoa học hay một cuốn sách là một điều xa xăm nhất trong tâm trí tôi, một khả năng mơ hồ và không có thực. Tôi không biết các vị thần linh có được gửi đến giúp tôi không. Giúp tôi làm gì?

Catherine cựa quậy và bắt đầu thì thầm ." Một người nào đó tên là Gideon, tên người nào đó là Gideon ... Gideon. Ông này đang cố nói chuyện với tôi".

"Ông ấy nói gì?"

"Ông ấy quanh quẩn đâu đó. Ông ấy không ngưng lại. Ông ấy là loại người bảo vệ... đại loại như thế. Nhưng bây giờ ông ấy đang chơi với tôi."

"Có phải ông ta là một trong những người bảo vệ cô không?"

"Phải, nhưng ông ấy đang chơi... ông ấy đúng là nhẩy ở chung quanh. Tôi nghĩ ông ấy muốn tôi biết ông ấy ở chung quanh tôi ... khắp nơi."

Tôi nhắc lại, "Gideon"?

"Ông ấy ở đấy"

"Điều đó có làm cô cảm thấy an toàn hơn không?"

"Có. Ông ấy sẽ trở lại khi tôi cần ông."

"Tốt. Có các thần linh có ở chung quanh chúng ta không?"

Cô trả lời bằng giọng thì thầm, từ cách nhìn của tâm siêu thức. "Ồ phải... có nhiều thánh linh. Họ đến khi họ muốn. Họ đến... khi họ muốn. Chúng ta đều là thần linh. Những những thần linh khác ... một số ở trạng thái thể chất và một số khác ở trong giai đoạn tái sinh. Và một số thần linh khác là những người bảo vệ. Nhưng chúng ta đều đi đến đấy. Chúng ta cũng đã là những người bảo vệ."

"Tại sao chúng ta trở lại để học hỏi? Tại sao là thần linh chúng ta không thể học hỏi?"

"Có những mức độ khác nhau về học hành, và chúng ta phải học một số mức độ bằng xương bằng thịt. Chúng ta phải cảm thấy đau đớn. Khi bạn là thần linh bạn không cảm thấy đau. Đó là giai đoạn của tái sinh. Linh hồn của bạn đang được tái sinh. Khi bạn ở trong trạng thái thể chất bằng da bằng thịt, bạn cảm thấy đau đớn, bạn có thể bị đau. Trong hình thái tinh thần bạn không cảm thấy gì cả. Chỉ có hạnh phúc, cảm giác hạnh phúc. Nhưng đó là giai đoạn tái sinh cho... chúng ta. Sự tác động qua lại giữa con người và hình thái tinh thần thì khác nhau. Khi bạn ở trong trạng thái thể chất ... bạn có thể trải nghiệm các quan hệ."

"Tôi hiểu. Được rồi". Cô lại im lặng trở lại. Ít phút qua đi.

"Tôi thấy một cỗ xe", cô bắt đầu, "một cỗ xe xanh"

"Một cỗ xe nhỏ?"

"Không một cỗ xe mà ông lái ... một thứ gì xanh xanh !. Một tua xanh ở trên đỉnh, xanh ở bên ngoài..."

"Ngựa kéo cỗ xe này phải không?"

"Xe có bánh lớn. Tôi không nhìn thấy ai trong đó, ngoài hai con ngựa bị buộc vào xe ... một con xám và một con nâu. Con ngựa tên là Apple, con mầu xám, vì nó thích Apple. Con kia tên là Duke. Những con ngựa này rất khôn. Chúng không cắn người. Chúng có móng lớn ... móng lớn."

"Cũng có ngựa xấu mà? con khác?"

"Không. Chúng rất khôn."

"Cô có ở đấy không?"

"Phải. Tôi có thể nhìn thấy mũi nó. Nó to lớn nhiều hơn tôi."

" Cô có lái xe ngựa không?" Theo tính chất của câu trả lời tôi biết cô là một đứa trẻ.

"Có những con ngựa. Cũng có một đứa con trai ở đó."

"Cô bao nhiêu tuổi?"

"Rất nhỏ. Tôi không biết. Tôi không nghĩ rằng tôi biết cách đếm."

"Cô có biết đứa con trai đó không? Bạn cô? Anh cô?"

"Nó là người hàng xóm. Nó ở đấy ... để dự tiệc. Có một đám cưới ... hay thứ gì đó."

"Có biết người nào cưới không?"

"Không. Chúng tôi được bảo là không được làm bẩn. Tôi có tóc nâu.... giầy cài một bên lên tận trên."

"Có phải đây là quần áo tiệc tùng không? Quần áo đẹp?"

" Đó là ... một kiểu áo dài trắng có cái gì đó xếp nếp bên trên và buộc lại ở sau lưng."

"Nhà cô có gần đấy không?"

"Có một cái nhà lớn", đứa bé này trả lời.

"Đó là nơi cô ở phải không?"

"Phải"

"Tốt. Bây giờ hãy nhìn vào trong nhà; được. Đây là một ngày quan trọng. Người ta đều ăn mặc đẹp, mặc những bộ đồ đặc biệt."

"Họ đang nấu ăn, rất nhiều đồ ăn."

"Có ngửi thấy không?"

"Có. Họ đang làm một loại bánh. Bánh ... thịt... Chúng tôi được bảo phải ra ngoài". Tôi buồn cười với việc này. Tôi đã bảo cô đi vào bên trong, và bây giờ cô được lệnh phải ra ngoài."

"Họ có gọi tên cô không?"

"... Mandy... Mandy và Edward."

"Có phải là đứa con trai ấy không?"

"Phải"

"Họ không để cho cô ở trong nhà à?"

"Không, họ rất bận."

"Cô cảm thấy việc đó ra sao?"

"Chúng tôi không cần. Nhưng thật khó để giữ sạch sẽ. Chúng tôi không thể làm việc gì được."

""Cô có phải đi dự đám cưới không? Vào xế chiều ngày đó?"

"Có ... tôi thấy nhiều người. Người đông chật cả phòng. Trời nóng, một ngày nóng bức. Có một thầy tu ở đó; một thầy tu ... với một cái mũ ngộ nghĩnh, một cái mũ lớn ... đen. Cái mũ đó trùm cả mặt ông... quả là một khoảng cách."

"Phải đó là lúc hạnh phúc cho gia đình cô không?"

"Vâng."

"Cô biết ai cưới không?

"Đúng là chị tôi."

"Phải chăng chị ấy nhiều tuổi hơn nhiều?"

"Phải"

"Bây giờ có nhìn thấy chị ấy không? Có phải chị ấy mặc đồ cưới không?"

"Phải."

"Chị ấy đẹp không?"

"Đẹp. Chị ấy có nhiều hoa trên tóc."

"Hãy nhìn kỹ vào chị ấy. Có biết chị ấy ở lúc khác không? Hãy nhìn vào mắt, vào miệng chị..."

"Vâng. Tôi nghĩ rằng chị ấy là Becky... nhưng nhỏ hơn, nhỏ hơn nhiều."

Becky là bạn của Catherine và là đồng nghiệp. Họ rất thân với nhau, tuy Catherine phật ý về thái độ phán xét của Becky và tính tọc mạch của Becky vào đời sống và các quyết định của Catherine. Tóm lại, Becky là bạn, không phải thân nhân. Nhưng có lẽ sự phân biệt bây giờ không thật rõ ràng. "Chị... chị thích tôi... và tôi có thể đứng gần phía trước vì chị ấy đứng phía trước."

"Tốt. Hãy nhìn chung quanh. Cha mẹ cô có ở đấy không?"

"Có."

Cha mẹ cô có yêu cô nhiều không?"

"Có"

"Rất tốt. Hãy nhìn kỹ vào họ. Trước nhất là mẹ cô. Nhìn xem cô có thể nhớ ra mẹ. Hãy nhìn vào mặt bà."

Catherine thở một vài hơi dài. "Tôi không biết."

"Hãy nhìn vào cha cô. Nhìn kỹ vào ông. Nhìn vào sự diễn tả của ông, mắt ông... và cả miệng ông. Cô nhận ra ông chưa?"

"Ông ấy là Stuart", cô trả lời nhanh chóng. Vậy, Stuart xuất đầu lộ diện một lần nữa. Việc này đáng thăm dò hơn thêm.

"Sự quan hệ của cô với ông như thế nào?"

"Tôi yêu ông rất nhiều...ông ấy rất tốt với tôi. Nhưng ông nghĩ rằng tôi là điều phiền toái. Ông nghĩ rằng con cái là điều phiền toái."

"Ông có quá nghiêm khắc không?"

"Không, ông thích chơi với chúng tôi. Nhưng chúng tôi hỏi quá nhiều câu hỏi. Nhưng ông rất tốt với chúng tôi, ngoại trừ khi chúng tôi hỏi quá nhiều câu hỏi."

"Có phải điều đó đôi lúc làm phiền ông?"

"Phải, chúng tôi phải học hỏi nơi thầy giáo chứ không phải nơi ông. Đó là lý do tại sao chúng tôi phải đến trường để học."

"Xem ra dường như ông đang nói. Có phải ông nói với cô không?"

"Phải, ông có nhiều việc quan trọng hơn phải làm. Ông phải chăm lo nông trại.

"Nông trại lớn không?

"Lớn".

"Cô có biết đấy là đâu không?"

"Không".

"Có bao giờ họ nói đến thị trấn hay nước không? Tên của thành phố?

Cô ngưng lại, nghe cẩn thận. "Tôi không nghe thấy cái đó". Cô lại im lặng.

"Được rồi, cô có muốn thám hiểm nữa về kiếp sống này không? Để tiến xa hơn nữa hay chỉ thế".

Cô cắt ngang tôi. "Đủ rồi"

Trong toàn bộ quá trình này với Catherine, tôi không ưa thích bàn luận các tiết lộ của Catherine với những nhà chuyên nghiệp khác. Thực ra, ngoại trừ Carole và một ít người khác coi là "an toàn", tôi không chia sẻ tin tức đáng chú ý này với người nào khác cả. Tôi biết kiến thức từ những buổi thôi miên vừa rất thật vừa cực kỳ quan trọng, tuy lo âu về phản ứng của các đồng nghiệp về nghề nghiệp và khoa học khiến cho tôi giữ im lặng. Tôi vẫn còn quan ngại đến thanh danh, nghề nghiệp, và về cái mà những người khác nghĩ về tôi.

Sự hoài nghi cá nhân của tôi đã bị xói mòn bởi bằng chứng là hết tuần này đến tuần khác, ập đến từ miệng cô. Tôi thường quay lại băng thâu và trải nghiệm lại những buổi thôi miên, với tất cả kịch tính và sự trực tiếp. Những những người khác sẽ phải dựa vào kinh nghiệm của tôi, rất mạnh mẽ tuy không phải là của riêng họ. Tôi cảm thấy phải thu thập nhiều dữ kiện hơn.

Khi tôi dần dần chấp nhận và tin vào những lời giáo huấn, đời sống của tôi giản dị hơn và thỏa mãn hơn. Không cần phải giở trò, giả bộ, vờ vịt , hay khác với mình. Các sự quan hệ trở nên càng ngay thẳng hơn. Đời sống gia đình ít lộn xộn hơn. Sự miễn cưỡng chia sẻ hiểu biết đã được trao cho tôi qua Catherine bắt đầu giảm thiểu. Đáng ngạc nhiên là hầu hết người ta rất để ý tới và muốn biết nhiều hơn nữa. Nhiều người nói với tôi những kinh nghiệm riêng tư của họ về những biến cố cận tâm lý, hoặc là ESP (khả năng ngoại cảm) , cảm giác đã nhìn thấy, kinh nghiệm xuất hồn, những giấc mộng tiền kiếp, hay những thứ khác. Nhiều người thậm chí không bao giờ kể những kinh nghiệm này cho vợ hoặc chồng của họ. Người ta hầu hết đều sợ hãi là khi chia sẻ những kinh nghiệm của mình với những người khác, ngay cả với gia đình và bác sĩ chuyên khoa, cũng có thể bị coi là kỳ quặc hay lạ lùng. Tuy những biến cố cận tâm lý đó rất thông thường, hay xẩy ra nhiều hơn người ta tưởng. Chính là sự miễn cưỡng nói ra những sự việc tâm linh khiến chúng có vẻ hiếm. Và những người càng được huấn luyện cao bao nhiêu thì lại càng miễn cưỡng chia sẻ bấy nhiêu.

Vị trưởng khoa điều trị đáng kính tại bệnh viện của tôi là một người được quốc tế ngưỡng mộ về chuyên môn của ông. Ông kể về người cha đã quá cố của ông, người đã nhiều lần che chở ông khỏi các nguy hiểm nghiêm trọng. Một giáo sư khác đã có những giấc mộng cung cấp những bước thiếu sót hay những giải đáp cho công cuộc thí nghiệm phức tạp của ông. Những giấc mộng luôn luôn đúng. Một bác sĩ nổi tiếng khác thường biết ai là người gọi điện thoại cho ông trước khi ông trả lời. Vợ của vị Trưởng Khoa Tâm Thần ở trường đại học miền Tây trung bộ có bằng tiến sĩ về tâm lý học. Các công trình nghiên cứu của bà lúc nào cũng được cẩn thận trù tính và thi hành. Bà không bao giờ nói với một ai là khi bà lần đầu viếng thăm La Mã, bà đã đi qua thành phố như thể bà có một bản đồ lộ trình được in trong ký ức. Bà biết chắc cái gì ở quanh góc đường kế tiếp. Mặc dù bà chưa từng ở La mã trước đây và không biết tiếng Ý, nhưng người Ý không ngớt tiếp cận bà và lầm lẫn coi bà như người bản xứ. Trí nhớ của bà đã vật lộn để thống nhất các sự việc ở La Mã.

Tôi hiểu tại sao những người chuyên nghiệp được đào tạo cao giữ mình trong phòng kín. Tôi là một trong những người ấy. Chúng ta không thê phủ nhận những kinh nghiệm và giác quan của riêng chúng ta. Tuy nhiều sự huấn luyện của chúng ta trên nhiều phương diện hoàn toàn trái ngược với tin tức, kinh nghiệm, và niềm tin chúng ta đã tích lũy. Cho nên chúng ta vẫn giữ im lặng.
CHƯƠNG MƯỜI

Tuần này trôi qua mau. Tôi nghe đi nghe lại băng thâu của buổi thôi miên tuần trước. Làm sao tôi có thể tiếp cận được với trạng thái tái sinh? Tôi không cảm thấy cớ gì sáng tỏ. Và bây giờ những thần linh sẽ được phái đến giúp tôi. Nhưng tôi phải làm gì nhỉ? Khi nào tôi tìm ra được? Tôi có khả năng làm nhiệm vụ đó không? Tôi biết tôi phải chờ đợi và phải kiên nhẫn. Tôi nhớ lại lời của Bậc Thầy thi nhân.

"Kiên nhẫn và chờ đợi... mọi việc sẽ đến khi nó phải đến... Mọi việc sẽ sáng tỏ cho ngươi đúng lúc. Nhưng ngươi phải có cơ hội hấp thụ kiến thức mà chúng ta đã cho ngươi". Vậy tôi phải chờ.

Vào lúc bắt đầu buổi thôi miên, Catherine kể lại một đoạn trong giấc mộng mà cô mơ thấy trong mấy đêm vừa qua. Trong giấc mộng cô đang sống ở nhà cha mẹ, và nhà bị cháy ban đêm. Cô bình tĩnh và giúp rút ra khỏi nhà, nhưng cha cô lại lề mề và dường như thờ ơ trước tình thế cấp bách. Cô liền đẩy ông ra ngoài. Rồi ông nhớ đến cái gì đó ông đã để lại trong nhà, và ông bảo Catherine trở vào nhà giữa lúc nhà đang cháy lớn để tìm kiếm vật đó. Cô không nhớ vật đó là cái gì. Tôi quyết định chưa giải thích giấc mông vội, và đợi xem liệu thời cơ thuận tiện có nảy sinh khi cô đang được thôi miên không.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:36 am

Cô đi nhanh vào hôn mê sâu. "Tôi thấy một người đàn bà với một cái mũ trùm đầu, không phủ che mặt mà chỉ trùm tóc thôi." Rồi cô im lặng.

"Có thấy cái đó bây giờ không? Cái mũ trùm đầu?"

"Tôi không nhìn thấy nữa ... Tôi nhìn thấy một miếng vải đen, vải thêu kim tuyến có hoa tiết mầu vàng trên đó ... Tôi nhìn thấy một tòa nhà có nhiều nét cấu trúc trên nó ... trắng."

"Cô có nhận ra tòa nhà đó không?"

"Không".

"Tòa nhà đó có lớn không?"

"Không. Đằng sau tòa nhà là núi có tuyết trên đỉnh núi. Nhưng cỏ rất xanh trong thung lũng ... nơi chúng tôi ở đó."

"Cô có thể vào tòa nhà đó được không?"

"Được. Nhà làm bằng loại cẩm thạch... rất lạnh khi chạm vào."

"Có phải nó là một loại chùa hay nhà tôn giáo không?"

"Tôi không biết. Tôi nghĩ rằng có thể là một nhà tù."

"Nhà tù". Tôi nhắc lại, "Có người trong tòa nhà ấy không? Chung quanh nó?"

"Có một số lính. Họ mặc đồng phục mầu đen, mầu đen với cầu vai vàng... tua vàng. Mũ bảo vệ đen có kiểu mầu vàng nào đó... thứ gì nhọn và vàng ở đỉnh ... mũ. Và một dây lưng đỏ, một dây lưng đỏ quấn quanh thắt lưng."

"Có người lính nào ở quanh cô không?"

"Có thể là hai hay ba người."

"Cô còn ở đấy không?"

"Tôi ở đây, nhưng không ở trong nhà. Nhưng tôi ở gần tòa nhà."

"Hãy nhìn chung quanh. Xem cô có thể tìm ra chính cô không ... Núi ở đấy, và cỏ ... và tòa nhà trắng. Có nhà khác không?"

"Nếu có những tòa nhà khác thì chúng cũng không tọa lạc gần tòa nhà này. Tôi nhìn thấy một tòa nhà ... lẻ loi với kiểu tường được xây đằng sau nó... một bức tường."

"Cô có nghĩ rằng đó là một pháo đài hay một nhà tù hay đại loại như thế?"

"Có thể , nhưng... nó rất hẻo lánh."

"Tại sao cái đó lại quan trọng với cô?" (Ngưng hồi lâu) "Cô có biết tên thành phố hay xứ sở mà cô hiện ở đấy không " Những người lính ở đâu?"

" Tôi thấy là ‘Ukraine."

"Tôi nhắc lại "Ukraine?", say mê bởi tính chất đa dạng trong những kiếp sống của cô. "Cô có thấy năm tháng không? Cô có nghĩ đến điều đó không? hay ở giai đoạn nào?"

"Mười bẩy - mười bẩy ", cô trả lời ngập ngừng, rồi sửa lại ."Một ngàn bẩy trăm năm mươi tám ... một ngàn bẩy trăm năm mươi tám. Có rất nhiều lính. Tôi không biết mục đích của họ ở đây. Với những thanh kiếm cong dài."

Tôi hỏi , "Cô còn nhìn và nghe thấy gì nữa?"

"Tôi thấy vòi nước, vòi nước, nơi họ tắm cho ngựa"

"Những người lính có cưỡi ngựa không?"

"Có chứ"

"Những người lính có tên nào khác không? Họ gọi nhau có gì đặc biệt không?" Cô lắng nghe.

"Tôi không nghe thấy điều đó"

"Cô có ở trong số họ không?"

"Không". Câu trả lời của cô nay lại như đứa bé, ngắn và thường đơn âm. Tôi phải là một người phỏng vấn tích cực.

"Nhưng cô thấy họ ở gần mà?"

"Phải"

"Cô có ở trong thành phố không?"

"Có"

"Cô sống ở đấy phải không?"

"Tôi tin là vậy".

"Tốt. Xem xem cô có thể thấy mình và nơi cô sống không?"

"Tôi nhìn thấy một ít quần áo rách tả tơi. Tôi chỉ nhìn thấy có một đứa bé, một đứa con trai. Quần áo của nó rách tả tơi. Nó bị lạnh..."

"Nó có nhà ở trong thành phố đó không?" Ngưng lâu.

Cô tiếp tục, "Tôi không biết điều đó". Dường như cô gặp khó khăn trong việc kiếp nối với kiếp sống này. Câu trả lời của cô có vẻ như mơ hồ và không chắc chắn.

"Được rồi. Cô biết tên cậu bé ấy không?"

"Không"
"Cái gì xẩy ra cho cậu bé đó? Đến với nó đi. Xem cái gì đã xẩy ra."

"Nó biết một người nào đó là tù nhân."

"Bạn bè? Một thân nhân?"

"Tôi tin là cha nó" Cô vắn tắt.

"Có phải cô là đứa con trai ấy không?"

"Tôi không chắc lắm"

"Cô có biết nó nghĩ thế nào về người cha bị tù ấy?"

"Vâng... nó rất sợ hãi, sợ người ta có thể giết cha nó"

"Cha nó đã làm gì?"

"Cha nó đã ăn cắp cái gì đó của những người lính, giấy tờ hay thứ gì đó."

"Đứa trẻ không hiểu hết phải không?"

"Không, Có thể nó sẽ không bao giờ gặp thấy cha nó nữa."

"Nó có thể đi gặp cha nó được không?"

"Không."

"Họ có biết cha nó bị tù bao lâu không? hay liệu có còn được sống không?

"Không!" Cô trả lời, giọng cô run. Cô rất đau khổ, rất buồn. Cô không cung cấp được nhiều chi tiết, tuy nhiên cô bị bối rối trông thấy bởi những biến cố cô chứng kiến và trải nghiệm.

"Tôi tiếp tục, Cô có thể cảm thấy đứa bé đó nghĩ gì, đó là một loại sợ hãi và lo âu. Cô có cảm nghĩ ấy không?"

"Có". Cô lại im lặng.

"Cái gì xẩy ra? Hãy tiến xa hơn bây giờ. Tôi biết là khó khăn. Hãy tiến xa hơn. Có cái gì đó xẩy ra."

"Cha nó bị hành quyết"

"Bây giờ nó cảm nghĩ thế nào?"

"Đó là một cái gì đó mà nó chưa cảm thấy bao giờ. Nhưng họ đã hành quyết mà không cần một lý do nào cả."

"Thằng bé hẳn là hết sức buồn rầu về việc này."

"Tôi không tin là nó hiểu biết đầy đủ việc gì đã xẩy ra."

"Nó có người nào khác để nương tựa không?"

"Có, nhưng đời sống của nó sẽ rất khó khăn."

"Thằng bé sẽ ra sao?"

"Tôi không biết. Nó có thể sẽ chết ... Nghe cô có vẻ buồn. Cô lại im lặng. rồi dường như cô nhìn chung quanh.

"Cô thấy gì?"

"Tôi thấy một bàn tay... một bàn tay gần chạm một vật gì ... trắng. Tôi không biết nó là gì..." Cô lại rơi vào im lặng và ít phút qua đi.

Tôi hỏi, "Cô nhìn thấy gì khác?"

"Không thấy gì ... tối đen" Hoặc là cô chết hay một cách nào đó cô đã không còn liên hệ với đứa con trai buồn rầu sống ở Ukraine hơn hai trăm năm qua.

"Cô đã rời bỏ đứa bé trai?"

"Phải" Cô thì thào. Cô đang nghỉ ngơi.

"Cô học được gì trong kiếp sống đó? Tại sao nó quan trọng?"

"Không thể hấp tấp phán xét người. Bạn phải công bằng với bất cứ ai. Nhiều sinh mạng đã tàn lụi bởi những phán xét khinh suất của chúng ta".

"Cuộc sống của đứa bé trai sẽ thiếu thốn và khó khăn vì việc xét xử ....cha nó.

"Vâng". Cô lại im lặng.

"Cô có nhìn thấy gì khác không? Cô nghe thấy gì không?"

"Không". Cô trả lời ngắn gọn rồi lại im lặng. Vì một lý do nào đó, kiếp sống ngắn ngủi này thật là mệt mỏi. Tôi chỉ thị cho cô nghỉ ngơi.

"Hãy nghỉ ngơi. Hãy cảm thấy an bình. Thân thể cô sẽ tự hồi phục; linh hồn cô đang nghỉ ngơi... Cô có cảm thấy khá hơn không? Ổn rồi phải không? Thật khó khăn cho đứa bé trai. Rất khó khăn. Nhưng bây giờ cô hãy nghỉ ngơi nữa đi. Tâm trí cô có thể mang cô đến không gian khác, thời gian khác ... ký ức khác. Cô đang nghỉ ngơi phải không?"

"Đúng". Tôi quyết định truy tìm đoạn trong giấc mộng của cô về cái nhà cháy, cha cô hờ hững lề mề và bắt cô vào nhà để tìm lại vật gì của ông.

"Bây giờ tôi có câu hỏi về giấc mộng của cô ... với cha cô. Bây giờ cô có thể nhớ lại điều đó, rất an toàn. Cô đang ở trong hôn mê sâu. Cô có nhớ không?"

"Có"

"Cô trở vào nhà để kiếm một vật gì đó. Cô có nhớ không?"

"Có... Đó là một cái hộp bằng kim loại."

"Có cái gì trong đó mà cha cô hết sức muốn bắt cô đi vào nhà đang cháy?

"Những con tem và những đồng tiền mà ông ta cất giữ". cô trả lời. Việc nhớ lại nội dung chi tiết về giấc mộng trong lúc thôi miên trái ngược hẳn với sự nhớ lại sơ sài trong lúc thức. Thôi miên là một công cụ mạnh mẽ không những thâm nhập được vào lĩnh vực sâu kín xa xôi nhất của tâm trí, mà cũng còn cung cấp một ký ức chi tiết hơn nhiều.

"Những con tem và những đồng tiền quan trọng lắm đối với ông sao?"

"Vâng"

"Nhưng liều mạng để đi vào một nhà cháy vì những con tem và đồng tiền"-

Cô cắt ngang lời tôi . "Cha tôi không nghĩ là ông đang liều lĩnh."

"Ông nghĩ là an toàn à?"

"Phải"

"Thế thì tại sao ông không vào mà lại là cô?"

"Vì ông nghĩ rằng tôi có thể đi nhanh hơn."

"Tôi hiểu. Có phải là một sự liều lĩnh cho cô?"

"Phải, nhưng ông không nhận ra điều đó"

"Giấc mơ có nhiều ý nghĩa hơn đối với cô không? Về mối quan hệ với cha cô?"

"Tôi không biết"

" Ông dường như không mấy vội vã để ra khỏi nhà cháy."

"Không"

"Tại sao ông lại ung dung như vậy? Cô rất nhanh, cô trông thấy sự nguy hiểm."

"Vì ông cố gắng che giấu các sự việc". Tôi chớp lấy dịp này để giải thích một phần của giấc mộng.

"Phải, đó là kiểu cách cũ của ông ấy , và cô làm nhiều việc cho ông ấy giống như đem về cái hộp. Tôi hy vọng rằng ông ấy có thể học hỏi nơi cô. Tôi có cảm nghĩ rằng đám cháy tượng trưng cho thời giờ đã hết, và cô nhận thức được sự nguy hiểm, còn ông ấy thì không. Trong khi ông ấy nhởn nhơ và bắt cô trở vào tìm các thứ vật chất, cô biết nhiều hơn ... và có nhiều cái để dạy ông ấy, nhưng dường như ông ấy không muốn học."

"Đúng" cô đồng ý. "Ông không muốn học"

"Đó là cách tôi hiểu giấc mộng đó. Nhưng cô cũng không thể bắt buộc ông. Chỉ có ông ấy có thể nhận thức được điều này."

"Đúng", cô lại đồng ý, và giọng cô trở nên sâu và khàn khàn, "không quan trọng gì khi xác thân của chúng ta bị cháy trong lửa nếu chúng ta không cần những xác thân ấy ..." Một Thần Linh Bậc Thầy đã tỏa chiếu một tầm nhìn hoàn toàn khác biệt về giấc mộng. Tôi rất ngạc nhiên về sự vào đề đột ngột này và tôi chỉ có thể nhắc lại suy nghĩ này như con vẹt.

"Chúng ta không cần xác thân của chúng ta?"

"Không. Chúng ta đi qua rất nhiều giai đoạn khi chúng ta ở đây. Chúng ta bỏ rơi xác thân sơ sinh, đi vào thân đứa trẻ, từ đứa trẻ đi đến người trưởng thành, rồi từ người trưởng thành đi vào tuổi già. Tại sao chúng ta không nên vượt qua một bước, bỏ rơi xác thân trưởng thành và đi vào bình diện tinh thần? Đó là những gì chúng ta bỏ rơi. Chúng ta không chỉ ngừng phát triển; chúng ta tiếp tục phát triển. Khi chúng ta tới được bình diện tinh thần, chúng ta cũng phát triển tại đấy. Chúng ta đi qua nhiều giai đoạn khác nhau về phát triển. Khi chúng ta đã đốt sạch (hết nhiên liệu), chúng ta phải đi qua giai đoạn tái sinh, giai đoạn học hỏi và giai đoạn quyết định. Chúng ta quyết định khi nào trở lại, nơi nào, và vì lý do gì. Một số quyết định không trở lại. Họ quyết định tiếp tục một giai đoạn phát triển khác. Và họ ở lại trong dạng thức thần linh... một số ở lại lâu hơn người khác trước khi trở về. Tất cả đều là phát triển và học hỏi ... tiếp tục phát triển. Xác thân của chúng ta chỉ là phương tiện cho chúng ta khi chúng ta ở đây. Đó là linh hồn và tinh thần của chúng ta trường cửu."

Tôi không nhận ra được giọng nói hay kiểu nói này. Một Bậc Thầy "mới" đang nói, và nói về một kiến thức quan trọng. Tôi muốn biết nhiều hơn về những địa hạt tính thần này.

"Học ở trong trạng thái thể chất có nhanh hơn không? Có những lý do mà người ta hoàn toàn không ở trong trạng thái tinh thần phải không?"

"Không. Học trong trạng thái tinh thần nhanh hơn nhiều, tăng nhanh hơn học ở trạng thái thể chất. Nhưng chúng ta chọn những gì chúng ta cần học. Nếu chúng ta cần phải trở về để thực hiện qua một mối quan hệ, chúng ta trở lại. Nếu chúng ta đã hoàn thành việc đó, chúng ta tiếp tục. Trong dạng thức tinh thần bạn thường có thể tiếp xúc với những người trong trạng thái thể chất nếu bạn chọn lựa. Nhưng chỉ khi có sự quan trọng... nếu bạn phải nói cho họ biết điều gì đó mà họ phải biết.

"Làm sao để tiếp xúc? Làm sao để thông điệp có thể truyền đạt?"

Trước sự ngạc nhiên của tôi, Catherine trả lời. Tếng thì thào của cô nhanh hơn và mạnh mẽ hơn. "Đôi khi bạn có thể hiện thân trước người ấy ... và trông bạn vẫn vậy khi bạn ở đây. Có những lúc khác, bạn chỉ phải tiếp xúc bằng tinh thần. Đôi khi những thông điệp khó hiểu, nhưng thường thường người ấy hiểu nó liên quan đến cái gì. Họ hiểu. Đó là sự tiếp xúc tâm với tâm."

Tôi nói với Catherine."Kiến thức mà cô có bây giờ, tin tức này, trí tuệ này, cái nào quan trọng... tại sao cô không có chúng khi cô tỉnh và trong trạng thái thể chất".

"Tôi chắc là tôi không thể hiểu điều đó. Tôi không đủ khả năng để hiểu."

" Vậy thì, có lẽ tôi sẽ dạy cô để cô hiểu điều đó, do đó nó không làm cô sợ hãi, và vì thế cô sẽ học hỏi."

"Vâng"

"Khi cô nghe tiếng nói của các Bậc Thầy, họ nói những điều giống như cô đang nói với tôi bây giờ. Cô phải chia sẻ rất nhiều tin tức". Tôi quan tâm đến sự thông thái mà cô có khi cô ở trong trạng thái này.

Cô chỉ trả lời, "Vâng"

"Và điều đó đến từ tâm trí riêng của cô phải không?"

"Nhưng họ đã đặt nó vào đấy" Cho nên cô tin các Bậc Thầy.

Tôi thừa nhận "Phải", "Làm sao tôi có thể truyền điều đó tốt nhất cho cô để cô phát triển và làm cô không còn sợ hãi?"

"Ông đã làm điều đó rồi", cô trả lời dịu dàng. Cô đúng, những sự sợ hãi của cô hầu như không còn nữa. Một khi những buổi thôi miên lùi về quá khứ bắt đầu, tiến bộ về chữa trị nhanh không thể tưởng được.

"Bài học nào cô cần phải học bây giờ? Cái gì quan trọng nhất cô có thể học được trong kiếp sống này để cô có thể tiếp tục phát triển và thành công?"

Cô trả lời nhanh, "Lòng Tin". Cô đã biết nhiệm vụ chính của cô là gì.

Ngạc nhiên về sự trả lời nhanh chóng của cô, tôi nhắc lại, "Lòng tin"

"Đúng, tôi phải học để có niềm tin, đồng thời cần phải tin vào con người. Tôi không tin vào con người. Tôi nghĩ mọi người đang cố gắng làm điều xấu xa cho tôi. Điều đó làm tôi xa lánh mọi người và những hoàn cảnh mà có lẽ tôi không nên cách xa. Điều đó làm tôi giữ được quan hệ với những người khác mà tôi nên cắt đứt mối quan hệ."

Nhận thức thấu đáo của cô thật kỳ lạ khi cô ở trong trạng thái siêu thức. Cô biết điểm yếu và điểm mạnh của cô. Cô biết những lĩnh vực cần phải lưu ý và thi hành, và cô biết làm gì để cải thiện vấn đề. Vấn đề duy nhất là nhận thức thấu đáo này cần phải nhập vào tâm thức của cô và cần được áp dụng vào đời sống lúc cô đang thức. Nhận thức thấu đáo siêu thức tự nó rất quyến rũ, nhưng tự nó lại không đủ để biến đổi đời cô.

Tôi hỏi, "Ai là những người cô nên cắt đứt quan hệ?"

Cô ngưng rồi nói, "Tôi sợ Becky, Tôi sợ Stuart... bằng cách nào đó tai hại sẽ đến với tôi ... từ họ. "

"Cô có thể chấm dứt mối quan hệ với họ?"

"Không hoàn toàn, nhưng với một vài ý kiến của họ, phải. Stuart đang cố gắng giữ tôi trong tù, và anh ta đang thành công. Anh ta biết tôi sợ hãi. Anh biết tôi sợ cách xa anh, và anh sử dụng hiểu biết đó để giữ tôi với anh."

"Còn Becky"

"Cô ấy luôn luôn cố gắng phá vỡ niềm tin của tôi với những người mà tôi tin cẩn. Khi tôi thấy là tốt thì cô ấy thấy là xấu. Và cô ấy cố gắng trồng những hạt giống này vào tâm trí tôi. Tôi đang học hỏi để tin vào ... những người tôi nên tin, nhưng cô ấy lại nhồi đầy đầu óc tôi những ngờ vực về họ. Và đó là vấn đề của cô ấy. Tôi không thể để cô ấy bắt tôi suy nghĩ theo cách của cô ấy."

Trong trạng thái siêu thức, Catherine đã có thể vạch ra thói xấu chính của cả Becky và Stuart. Catherine được thôi miên có thể làm chuyên gia tâm thần học tuyệt vời, trực giác rõ ràng và chính xác. Catherine tỉnh thức không có những thuộc tính này. Nhiệm vụ của tôi là bắc cầu qua vịnh. Bệnh tình thuyên giảm nhanh của cô có nghĩa là một số việc này đang thấm vào. Tôi muốn xây nhiều cầu hơn nũa.

Tôi hỏi, "Cô tin ai?. Hãy nghĩ về việc này. Ai là người cô có thể tin cẩn, học hỏi và để gần gũi hơn. Họ là ai?"

Cô thì thào, "Tôi có thể tin ông". Tôi biết việc này, nhưng tôi biết cô cần tin vào những người trong đời sống hàng ngày của cô nhiều hơn nữa.

"Phải, cô có thể. Cô gần gũi tôi nhưng cô cũng phải gần gũi hơn với những người khác ở với cô trong cuộc sống nhiều hơn là tôi có thể." Tôi muốn cô hoàn toàn độc lập, không ỷ lại vào tôi.

"Tôi có thể tin chị tôi. Tôi không biết những người khác. Tôi có thể tin Stuart, nhưng chỉ ở một mức độ nào thôi. Anh ấy không quan tâm đến tôi nhưng anh ấy bối rối. Trong cái bối rối của anh ấy, anh ấy vô tình làm hại tôi."

"Đúng, đó là sự thật. Có người nào khác mà cô tin không?"

"Tôi có tin Robert", cô trả lời. Ông ấy là một bác sĩ khác trong bệnh viện. Họ là những người bạn tốt.

"Vâng, có lẽ có những người khác nữa mà cô sẽ gặp trong tương lai"

"Vâng," cô thừa nhận.

Ý kiến về hiểu biết tương lai hết sức đáng quan tâm. Cô đã rất chính xác về quá khứ. Qua các Bậc Thầy, cô biết những sự việc đặc biệt, bí mật. Có thể họ cũng biết những sự việc về tương lai? Nếu vậy chúng tôi có thể chia sẻ kiến thức biết trước này không? Cả ngàn câu hỏi tràn vào tâm trí tôi.

"Khi cô tiếp xúc với tâm siêu thức của cô như bây giờ, và có trí tuệ này, cô có phát triển khả năng trong lĩnh vực tâm linh phải không? Cô có thể nhìn vào tương lai? Chúng ta đã làm nhiều về quá khứ rồi".

Cô thừa nhận, "Có thể được, nhưng tôi không thấy gì bây giờ."

Tôi lặp lại, "Có thể?"

"Tôi tin như vậy."

"Cô có thể làm việc này mà không sợ hãi không? Cô có thể đi vào tương lai và lấy được tin tức của một người trung lập mà không làm cô sợ hãi không?Cô có thể biết tương lai không?"

Cô trả lời rất nhanh. "Tôi không thấy điều đó. Họ không cho phép". Tôi biết cô có ý nói các Bậc Thầy.

"Họ có ở chung quanh cô bây giờ không?"

"Có"

"Họ đang nói chuyện với cô à?"

"Không. Họ giám sát mọi thứ" Vì bị giám sát, cô không được phép nhìn ngó vào tương lai. Có lẽ chúng ta không đạt được gì cho cá nhân từ một cái nhìn thoáng qua như vậy. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã làm cho Catherine quá lo lắng. Có lẽ chúng tôi chưa sửa soạn để đương đầu với thông tin này. Tôi không thúc đẩy việc này.

"Vị thần linh ở gần cô trước đây, Gideon ..."

"Phải"

"Ông ấy cần gì? Tại sao ông ấy ở gần? Cô có biết ông ta không?"

"Không, Tôi không tin như vậy"

"Nhưng ông ta bảo vệ cô khỏi nguy hiểm?"

"Phải"

"Các Bậc Thầy ..."

"Tôi không nhìn thậy họ"

"Đôi khi họ có những thông điệp cho tôi, những thông điệp giúp ông và tôi. Những thông điệp ấy có sẵn có cho cô không kể cả khi họ không nói? Có phải họ đặt tư tưởng vào tâm trí cô không?"

""Phải"

"Họ có giám sát được đi xa đến đâu không? Cô có thể nhớ được gì?"

"Phải"

"Vậy là có một mục đích trong sự giải thích các kiếp sống ..."

"Phải"

"... Cho cô và tôi ... để dạy chúng ta. Để làm cho sợ hãi biến mất khỏi chúng ta."

"Có nhiều cách truyền thông. Họ chọn nhiều cách ... để chứng tỏ họ hiện hữu. Liệu Catherine có nghe giọng nói của họ, mường tượng những hình ảnh quá khứ và những viễn cảnh, trải nghiệm những hiện tượng tâm linh, hay có những tư tưởng và ý niệm đặt vào tâm trí cô, mục đích cũng giống nhau - để chứng tỏ họ hiện hữu và thậm chí hơn thế, giúp chúng ta, trợ giúp chúng ta trên con đường của chúng ta bằng cách cung cấp cái nhìn thấu đáo và kiến thức, giúp chúng ta thánh thiện qua sự thông thái".

"Cô có biết tại sao họ chọn cô không?"

"Không"

"... đã trở thành một kênh thông tin?"

Đây là một câu hỏi tinh tế, vì Catherine lúc tỉnh không thể nghe những băng thâu. "Không", cô thì thào dịu dàng.

"Việc này làm cô sợ hãi?"

"Đôi khi"

"Những lúc khác thì không sợ hãi?"

"Phải"
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:37 am

Tôi thêm, "Có thể đoan chắc rằng bây giờ chúng ta biết chúng ta bất diệt, cho nên chúng ta mất sự sợ hãi về cái chết."

"Vâng" cô đồng ý. Cô ngưng lại. " Tôi phải học cách tin" Cô đã trở về với bài học chính của kiếp sống."Khi tôi được bảo cái gì đó, tôi phải học cách tin vào điều được bảo ... khi người ấy có kiến thức."

Tôi thêm, "Chắc chắn có những người không tin"

"Vâng, nhưng tôi bối rối. Và người mà tôi biết, tôi phải tin, tôi phấn đấu chống lại cảm nghĩ đó. Và tôi không muốn tin bất cứ người nào." Cô im lặng trong khi tôi lại ngưỡng mộ sự hiểu biết thấu đáo của cô.

"Lần trước, chúng ta có nói chuyện về cô khi là một em nhỏ, trong vườn với ngựa. Cô còn nhớ không? Đám cưới của chị cô?"

"Một chút thôi"

"Có còn gì để kết luận về thời gian đó không? Cô có biết không?"

"Có"

"Liệu cô đáng quay trở về và thám hiểm việc này không?"

"Không thể trở lại bây giờ được. Có nhiều sự việc trong một kiếp sống ... có quá nhiều kiến thức để đạt được... từ mỗi kiếp sống. Phải, chúng ta phải khám phá nhưng không thể trở về bây giờ."

Cho nên tôi lại quay về mối quan hệ rắc rối của cô với cha cô. "Quan hệ của cô với cha cô là một lĩnh vực khác, một lĩnh vực đã ảnh hưởng sâu xa đến cô trong kiếp sống này."

Cô chỉ trả lời "Phải"

"Còn có một lĩnh vực khác chưa thăm dò. Cô có nhiều điều để học hỏi trong mối quan hệ này. Hãy so sánh việc này với đứa bé trai ở Ukraine bị mất cha lúc còn thơ dại. Và sự mất mát này không xẩy ra cho cô lần này. Và tuy, có cha cô ở đây, mặc dù khó khăn gian khổ ít hơn..."

Cô kết luận , "Còn hơn là một gánh nặng", cô nói thêm những tư tưởng,"tư tưởng".

"Tư tưởng gì?" Tôi cảm thấy cô đang ở một lĩnh vực khác.

"Về trạng thái và cảm giác. Khi người ta gây mê, ông có thể nghe thấy gì không? Ông vẫn còn nghe thấy !" Cô tự trả lời câu hỏi của cô, bây giờ cô thì thào nhanh, trở nên sôi nổi. " Tâm của ông biết rõ về cái gì đang tiếp diễn. Họ đang nói về sự nghẹt thở của tôi, về khả năng nghẹt thở khi họ giải phẫu họng của tôi."

Tôi nhớ lại việc giải phẫu dây âm thanh được thực hiện chỉ ít tháng trước lần hẹn đầu tiên với tôi. Cô đã rất lo âu trước khi giải phẫu, nhưng cô hết sức kinh hoàng sau khi tỉnh lại tại phòng hồi sức. Nhân viên chăm sóc đã phải mất hàng giờ để trấn an cô. Bây giờ có vẻ là những gì mà các bác sĩ phẫu thuật nói trong lúc giải phẫu, khi cô được đánh thuốc mê, đã thúc đẩy nỗi kinh hoàng của cô. Tâm trí tôi vụt quay trở lại trường y khoa và phiên giải phẫu của tôi. Tôi nhớ lại những chuyện tình cờ trong lúc giải phẫu trong khi gây mê cho bệnh nhân. Tôi nhớ lại những chuyện đùa, lời chửi rủa, tranh luận và những cơn thịnh nộ cáu kỉnh của những nhà giải phẫu. Những bệnh nhân đã nghe thấy gì ở mức tiềm thức? Bao nhiêu cái đã bị lưu lại để ảnh hưởng đến tư tưởng và cảm xúc, sợ hãi và lo âu của họ, sau khi họ tỉnh lại? Tiến trình sau giải phẫu, sự hồi phục của bệnh nhân sau giải phẫu, đã có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực bởi những nhận xét trong cuộc giải phẫu? Có ai bị chết vì những khả năng tiêu cực nghe lỏm được trong lúc giải phẫu? Cảm thấy vô vọng, họ đành chịu thua?

Tôi hỏi, "Cô có nhớ họ nói gì không?"

"Họ nói rằng họ đưa cái ống vào. Khi họ lấy cái ống ra, cuống họng tôi có thể xưng lên. Họ không nghĩ là tôi nghe được."

"Nhưng cô nghe được."

"Đúng. Đó là lý do tại sao tôi có tất cả những khó khăn". Sau hai buổi thôi miên hôm này, Catherine không còn sợ nuốt hay nghẹn. Đơn giản là như vậy. " Cô tiếp tục, "Tất cả những lo âu , tôi nghĩ là tôi có thể nghẹn."

Tôi hỏi. " Cô có cảm thấy thoải mái không?"

"Có. Ông có thể đảo ngược lại cái họ đã làm."

"Tôi có thể không?"Được. ông là ... Họ phải rất cẩn thận về điều họ nói. Bây giờ tôi nhớ lại điều đó. Họ đưa cái ống vào cuống họng tôi. Và rồi tôi không thể nói được để bảo họ điều gì."

"Bây giờ cô cứ tự nhiên ... Cô đã nghe được họ nói".

"Phải, tôi nghe họ nói ... " Cô lại rơi vào im lặng độ một hay hai phút, và bắt đầu quay đầu từ phía này sang phía kia. Dường như cô đang nghe cái gì.

"Hình như cô đang nghe thông điệp. Cô có biết những thông điệp ấy từ đâu đến? Tôi hy vọng các Bậc Thầy xuất hiện."

""Ai đó nói với tôi" đó là câu trả lời khó hiểu của cô.

"Người nào đó nói chuyện với cô?"

"Nhưng họ đi rồi". Tôi cố mang họ trở lại.

"Xem nào liệu cô có thể mang những thần linh quay về với những thông điệp cho chúng ta ... để giúp chúng ta ra không?"

" Họ đến chỉ khi họ muốn, không phải là lúc tôi chọn," cô trả lời một cách quả quyết.

"Cô không làm chủ được việc ấy ư?"

"Không"

"Được rồi", tôi thừa nhận nhưng thông điệp về vụ thuốc mê rất quan trọng với cô. Đó là nguồn gốc cô bị nghẹn".

"Việc đó quan trọng cho ông chứ không phải cho tôi" Cô phản bác lại. Câu trả lời của cô vang lên qua tâm trí tôi. Cô sẽ được chữa trị về nỗi sợ bị nghẹn, tuy sự tiết lộ này quan trọng cho tôi hơn là cho cô. Tôi là người chữa bệnh. Câu trả lời đơn giản của cô chứa đựng ý nghĩa ở nhiều mức độ. Tôi cảm thấy nếu tôi hiểu thực sự những mức độ này , những quãng tám cộng hưởng của ý nghĩa , tôi sẽ tiến tới một cú nhẩy lượng tử vào sự hiểu biết những mối quan hệ của con người. Có lẽ sự giúp đỡ còn quan trọng hơn việc chữa lành bệnh.

Tôi hỏi, "Cho tôi giúp cô?"

"Phải. Ông có thể không làm những điều họ làm. Ông đang không làm những điều họ đã làm ...". Cô nghỉ ngơi. Cả hai chúng tôi đều học được một bài học lớn.

Ít lâu sau ngày sinh nhật thứ ba của con gái tôi, Amy chạy đến tôi và ôm ghì cẳng chân tôi. Nó nhìn lên và nói, "Thưa cha, con yêu thương cha đến bốn ngàn năm". Tôi nhìn xuống bộ mặt nhỏ nhắn của nó, tôi cảm thấy quá sung sướng.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT

Vài đêm sau đó, trong một giấc ngủ say, tôi choàng tỉnh dạy. Tỉnh táo ngay, tôi dường như nhìn thấy khuôn mặt của Catherine to hơn mặt thật của cô vài lần. Trông cô buồn bã như thể cần tôi giúp đỡ cô. Tôi nhìn vào đồng hồ, lúc đó là 3 giờ 30 phút sáng. Không có một tiếng động bên ngoài nào làm tôi tỉnh dạy cả. Carole ngủ an bình bên tôi . Tôi xua đuổi việc bất ngờ này và ngủ lại.

Cũng đúng vào 3 giờ 30 sáng đó, Catherine tỉnh dạy sau cơn ác mộng hãi hùng. Cô toát mồ hôi và tim cô đập thình thịch. Cô quyết định trầm ngâm để bớt căng thẳng, mường tượng đến lúc thôi miên tại phòng mạch. Cô hình dung khuôn mặt tôi, nghe giọng nói của tôi, và từ từ ngủ lại.

Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh, và hiển nhiên tôi cũng vậy. Tôi có nghe thấy những giáo sư tâm thần cũ của tôi nói về sự phản ứng của việc chuyển đạt và phản chuyển đạt trong những mối quan hệ chữa bệnh. Chuyển đạt là làm hiện hình cụ thể những cảm nghĩ, tư tưởng, và mong ước của người bệnh cho bác sĩ chuyên khoa, tượng trưng một người nào đó trong quá khứ bệnh nhân. Phản ứng chuyển đạt thì ngược lại, những phản ứng xúc cảm vô thức của người chữa bệnh với bệnh nhân. Nhưng sự liên lạc lúc 3 giờ 30 sáng này chẳng phải cả hai. Đây là sự liên kết ngoại cảm cùng bước sóng ngoài những bệnh thông thường. Hay đó là thính giả, một nhóm các loại thần linh - các Bậc Thầy và những người bảo vệ và những người khác chịu trách nhiệm về bước sóng mới? Tôi đã vượt quá mức kinh ngạc.

Trong buổi kế tiếp, Catherine nhanh chóng tiến vào mức độ thôi miên sâu. Cô hoảng hốt ngay. "Tôi thấy một đám mây lớn ..., đám mây này làm tôi sợ hãi. Nó vẫn ở đấy." Cô thở dồn dập.

"Nó vẫn ở đấy à?"

"Tôi không biết. Đám mây đó đến và đi nhanh ... cái gì đó cao trên núi." Cô vẫn lo lắng, tiếp tục thở nặng nề. Tôi lo sợ cô đang nhìn thấy một quả bom. Liệu cô có nhìn về tương lai không?

"Cô có nhìn thấy quả núi không? Nó có giống quả bom không?"

"Tôi không biết".

"Tại sao nó làm cô sợ?"

"Thật là rất đột ngột. Đúng là ở đấy. Rất nhiều khói... Rất nhiều khói. Nó rất lớn. Ở đằng xa. Ô..."

"Cô an toàn mà. Cô có thể đến gần không?"

"Tôi không muốn đến gần!" Cô trả lời dứt khoát. Rất hiếm khi cô cưỡng lại.

Tôi lại hỏi, "Tại sao cô lại quá sợ hãi về cái đó?"

"Tôi nghĩ đó là một loại hóa chất hay một thứ gì đó. Rất khó thở khi ở gần." Cô đang thở rất khó nhọc.

"Có phải giống như hơi ngạt? Có phải nó xuất phát từ quả núi giống như núi lửa?"

"Tôi nghĩ như vậy. Nó giống như một cái nấm to. Nó giống như... một cái nấm trắng."

"Nhưng không phải là một quả bom? Không phải là một quả bom nguyên tử hay loại tương tự?" Cô ngưng lại rồi lại tiếp tục.

"Tôi nghĩ nó là một ... một loại núi lửa hay thứ gì đó. Thật sợ hãi. Rất khó thở. Có bụi trong không khí. Tôi không muốn ở đấy." Từ từ hơi thở của cô trở lại mức độ bình thường, thâm chí hô hấp ở trạng thái thôi miên. Cô rời bỏ quang cảnh sợ hãi này.

"Bây giờ có đã thở dễ dàng hơn chưa?"

"Rồi"

"Tốt. Bây giờ cô nhìn thấy gì?"

"Không thấy gì cả ... Tôi nhìn thấy một cái dây chuyền, một dây chuyền trên cổ một người nào đó. Nó mầu xanh ... Nó bằng bạc và có treo một viên ngọc xanh và có một hạt ngọc nhỏ hơn ở dưới."

"Có gì ở trên hạt ngọc xanh không?"

"Không, nhìn trong suốt. Ông có thể nhìn suốt qua nó. Người thiếu phụ tóc đen đội một cái mũ xanh ... có lông chim dài, và bộ đồ bằng nhung."

" Cô có biết thiếu phụ này không?"

"Không."

"Cô có ở đấy không, hay cô là thiếu phụ ấy?"

"Tôi không biết"

"Nhưng cô có trông thấy bà ta không?"

"Đúng tôi không phải là thiếu phụ ấy"

"Bà ta bao nhiêu tuổi?"

"Vào khoảng 40. Nhưng trông bà già hơn tuổi."

"Bà ta đang làm gì?"

"Không, bà ta chỉ đứng bên cạnh một cái bàn. Có một chai nước hoa trên bàn. Nó mầu trắng có những bông hoa mầu xanh trên đó. Có một bàn chải và một cái lược có cán bằng bạc. "Tôi rất ấn tượng với sự chú ý đến chi tiết của cô.

"Đấy là phòng của bà ta, hay là một cửa hiệu?"

"Đó là phòng ngủ của bà ta. Có một cái giường với bốn cái gọng giường. Giường mầu nâu. Có một cái bình để rót nước trên bàn.

"Một cái bình để rót nước?"

"Phải, không có tranh ảnh trong phòng. Có những màn cửa sẫm rất ngộ nghĩnh."

"Có người nào khác trong phòng không?"

"Không."

"Quan hệ của bà này với cô thế nào?"

"Tôi hầu hạ bà ta". Một lần nữa cô là người hầu hạ.

"Cô ở với bà ta lâu chưa?"

"Không lâu... mới vài tháng."

"Cô có thích cái dây chuyền đeo cổ không?"

"Không." Câu trả lời ngắn ngủi của cô đòi hỏi sự gợi ý tích cực của tôi nhằm có tin tức căn bản. Cô nhắc nhở tôi nhớ đến đứa con tuổi thiếu niên của tôi.

"Bây giờ cô bao nhiêu tuổi?"

"Có thể là mười ba, mười bốn tuổi..." Vào khoảng cùng tuổi.

Tôi hỏi , "Tại sao cô bỏ gia đình?"

Cô sửa lại tôi, "Tôi không bỏ gia đình, tôi làm việc tại đây".

"Tôi hiểu. Cô có về nhà sau khi làm việc không?"

"Có" Câu trả lời khiến cho tôi hầu như không còn chỗ để thăm dò.

"Gia đình có ở gần không?"

"Cũng gần ... Chúng tôi rất nghèo. Chúng tôi cần làm việc ... phục vụ."

"Có biết tên bà ta là gì không?"

"Belinda"

"Bà ta đối xử có tử tế với cô không?"

"Có"

"Tốt. Cô làm việc có khó nhọc không?"

"Cũng không mệt lắm". Phỏng vấn tuổi thiếu niên không bao giờ dễ dàng, ngay cả về tiền kiếp. Rất may mà tôi hành nghề tốt.

"Tốt. Bây giờ cô còn nhìn thấy bà ta nữa không?"

"Không"

"Bây giờ cô ở đâu?"

"Trong một phòng khác. Có một cái bàn bao phủ bằng một khăn trải bàn đen... và có tua viền chung quanh phía dưới. Có mùi của nhiều cỏ cây... mùi thơm gắt."

"Có phải thứ đó thuộc về bà chủ của cô không? Bà ta dùng nhiều nước hoa lắm phải không?"

"Không, đây là một cái phòng khác. Tôi đang ở một phòng khác."

"Phòng đó của ai?"

"Phòng đó của một bà có mầu da đậm"

"Đậm như thế nào? Cô có nhìn thấy bà ta không?"

"Bà ta đội nhiều khăn trên đầu" Catherine thì thào, "nhiều khăn choàng. Bà ta già và nhăn nheo".

"Quan hệ của bà ta và cô thế nào?"

"Tôi vừa mới đi gặp bà ta."

"Để làm gì?"

"Bà ta bói bài."Trực giác cho tôi biết cô đã gặp một người bói toán, người này đọc các lá bài. Đây là một sự biến đổi mỉa mai. Nơi đây Catherine và tôi đang tham gia vào một cuộc phiêu lưu tâm linh không thể tưởng tượng được, bao trùm những kiếp sống, và những phương chiều vượt quá cả những việc như thế và có lẽ hai trăm năm trước đó, thế mà cô lại đi xem một bà đồng để biết tương lai của mình. Tôi biết Catherine chưa bao giờ đi xem bói toán trong hiện kiếp, và cô cũng không biết gì về bói bài hay thầy bói; những thứ này làm cô khiếp sợ.

Tôi hỏi, "Bà ta đang bói bài phải không?"

"Bà ta thấy các sự việc".

"Cô có hỏi bà ta không? Cô muốn xem gì? Cô muốn biết gì?"

"Về một người đàn ông... mà tôi có thể lấy"

"Bà ta nói gì khi bà ta đọc những lá bài?

"Những lá bài có ... loại gậy nào trên đó. Những cây gậy và hoa ... nhưng những cây gậy, cây giáo hay loại như vậy. Có một con bài khác có một cái ly trên đó, một cái ly... Tôi nhìn thấy một lá bài có một người hay một cậu bé mang khiên. Cô nói tôi sẽ lấy chồng, nhưng tôi không lấy người này ... Tôi không nhìn thấy khác".

"Cô có thấy bà ta không?"

"Tôi thấy những đồng tiền."

"Cô vẫn ở với bà ta chứ , hay ở một nơi khác?"

"Tôi ở với bà ta."

"Trông đồng tiền thế nào?"

"Đồng tiền vàng. Cạnh đồng tiền không nhẵn nhụi. Chúng hình vuông. Một mặt có vương miện".

"Hãy nhìn xem có năm in trên đồng tiền không. Thứ gì cô có thể đọc được... . bằng chữ."

"Những con số lạ" Cô trả lời, con số "X và I".

"Cô có biết đó là năm nào không?"

"Mười bẩy ...có lẽ như vậy.Tôi không biết khi nào." Cô lại im lặng.

"Tại sao sự bói toán lại quan trọng với cô?"

""Tôi không biết..."

"Bà ta bói ta có đúng không?"

Catherine thì thào, "Bà ta đi rồi. Việc qua rồi. Tôi không biết."

"Cô có nhìn thấy gì bây giờ không?"

"Không"

"Không". Tôi ngạc nhiên. Cô ấy hiện ở đâu? Tôi hỏi, "Cô có biết tên cô của kiếp sống này không?" Hy vọng tiếp tục theo mạch sống của kiếp này một vài trăm năm trước.

"Tôi đã đi khỏi đó", Cô đã rời khỏi kiếp đó và đang nghỉ ngơi. Từ nay trở đi cô có thể tự làm được việc này. Cô khỏi cần phải trải nghiệm cái chết để làm việc đó. Chúng tôi chờ đợi ít phút. Kiếp này không có gì lạ. Cô chỉ nhớ để mô tả một số sự việc nổi bật và cuộc viếng thăm thú vị bà thầy bói.

Tôi lại hỏi, "Cô có nhìn thấy gì bây giờ không?"

Cô thì thào "Không"

"Cô đang nghỉ ngơi đấy chứ?"

Vâng ... đá quý có nhiều mầu sắc."

"Đá quý?"

"Vâng. Chúng thực sự lá ánh đèn, nhưng trông chúng giống đá quý".

Tôi hỏi, "Có gì khác nữa không?"

"Tôi vừa mới... "Cô ngưng lại và giọng thì thào của cô to lên và quả quyết. "Có nhiều lời nói và tư tưởng đang bay chung quanh đây... Đó là về sự chung sống và hòa hợp... sự quân bình các sự việc". Tôi biết các Bậc Thầy ở đâu đây.

Tôi thúc giục cô tiếp tục, "Vâng, Tôi muốn biết những sự việc này, có thể cho tôi biết được không?"

Cô đáp lại, "Ngay bây giờ chỉ có lời nói thôi."

"Chung sống và hòa hợp" , tôi nhắc cô. Khi cô trả lời, đó là giọng nói của Bậc Thầy thi nhân. Tôi hồi hộp được nghe lại Bậc Thầy này.

Ông trả lời , "Phải". "Mọi thứ phải được quân bình. Thiên nhiên quân bình. Thú vật sống trong hòa hợp. Con người đã không biết làm điều đó. Họ tiếp tục tự phá hoại. Không có hòa hợp, không có kế hoạch cho điều họ làm. Thật quá khác biệt trong thiên nhiên. Thiên nhiên quân bình. Thiên nhiên là năng lượng và sự sống ... và sự khôi phục. Con người chỉ phá hoại. Họ phá hoại thiên nhiên. Họ phá hoại những người khác. Cuối cùng họ tự hủy diệt".

Đó là một tiên đoán báo điềm xấu. Với một thế giới không ngưng chao đảo và rối loạn, tôi hy vọng việc này không xẩy ra ngay. Tôi hỏi, "Việc này bao giờ xẩy ra?"

"Nó sẽ xẩy ra, sớm hơn họ tưởng. Thiên nhiên sẽ sống sót. Cây cối sống sót. Nhưng chúng ta thì không".
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:37 am

"Chúng tôi có thể làm gì để ngăn chận sự phá hoại này?"

"Không. Mọi thứ phải được quân bình... "

"Sự tàn phá này có thể xẩy ra trong kiếp sống của chúng tôi không? Chúng tôi có thể tránh được không?"

"Nó sẽ không xẩy ra trong kiếp sống của chúng ta. Chúng ta sẽ ở trên một bình diện khác, một phương chiều khác, khi điều đó xẩy ra, chúng ta sẽ chứng kiến nó."

"Không có cách nào để dạy nhân loại ư?" Tôi đang tìm kiếm lối thoát, làm giảm bớt khả năng.

"Việc đó sẽ được làm ở một mức độ khác. Chúng ta sẽ biết từ đó."

Tôi nhìn một cách lạc quan. "Vậy thì, những linh hồn của chúng ta tiến bộ ở những nơi khác".

"Phải. Chúng ta không còn ở đây lâu ... , như chúng ta đã biết. Chúng ta sẽ chứng kiến".

Tôi thừa nhận, "Vâng". Tôi có một nhu cầu là dạy những người này, nhưng tôi không biết cách làm thế nào. Có một cách nào không hay họ phải tự học hỏi việc này cho chính họ?"

Ông không thể đến với từng người một. Muốn ngưng sự phá hoại ông phải đến từng người, nhưng ngươi không thể . Không thể ngưng lại được. Họ sẽ biết. Khi họ tiến bộ, họ sẽ biết. Sẽ có hòa bình, nhưng không ở đây, không ở đây trong phương chiều này."

"Cuối cùng sẽ có hòa bình?"

"Phải, ở mức độ khác."

Tôi phàn nàn, "Dường như xa lắc", "bây giờ người ta dường như quá đê tiện ... tham lam, khát vọng uy quyền, nhiều tham vọng. Họ quên tình thương yêu, hiểu biết và kiến thức. Có nhiều cái phải học."

"Phải"

"Tôi có thể viết gì để giúp những người này? Có cách nào không?"

"Ông biết cách mà. Chúng tôi không phải bảo ông. Tất cả sẽ không có ích gì, vì chúng tôi sẽ tiến tới mức độ ấy, và họ sẽ thấy. Tất cả chúng ta đều giống nhau. Người này không vĩ đại hơn người kia. Và tất cả điều này chỉ là những bài học... và những sự trừng phạt."

"Vâng", tôi đồng ý. Bài học này là một bài sâu sắc, tôi cần có thì giờ để hấp thụ nó. Catherine đã trở nên im lặng. Chúng tôi chờ đợi, cô đang nghỉ ngơi, và tôi thu hút hết tâm trí vào những tuyên bố mạnh mẽ trong giờ qua. Cuối cùng cô phá vỡ thời gian nghỉ ngắn.

Cô thì thào, "Những viên đá quý không còn nữa, những viên đá quý không còn nữa. Những ngọn đèn... Chúng đi rồi."

"Cả những giọng nói, những lời nói?"

"Phải, tôi không nhìn thấy gì cả. " Khi cô ngưng đầu cô bắt đầu quay hết bên này đến bên kia. " "Một vị thần linh... đang nhìn"

"Vào cô"

"Phải"

"Cô có nhận ra được vị thần linh này không?"

"Tôi không chắc chắn... Tôi nghĩ có thể là Edward". Edward đã chết năm ngoái rồi. Edward đúng là ở khắp nơi. Dường như lúc nào ông ta cũng ở quanh quẩn bên cô.

"Trông thần linh này như thế nào?"

" Chỉ là ... chỉ là mầu trắng ... giống như ngọn đèn. Vị thần linh này không có mặt, không giống như chúng ta biết, nhưng tôi biết chính là ông ấy".

"Ông ấy có nói chuyện với cô không?"

"Không, ông chỉ quan sát."

"Ông ấy có nghe điều tôi nói không?"

Cô thì thào , "Có". "Nhưng ông ấy đi rồi. Ông ấy chỉ muốn chắc chắn là tôi an toàn". Tôi nghĩ đến thần thoại trong nhân gian về những thiên thần bảo vệ. Chắc hẳn Edward, trong vai trò thần linh tình thương lượn quanh để bảo đảm là cô không có chuyện gì, gần như có vai trò thiên thần như vậy. Và Catherine cũng đã nói đến những thần linh bảo vệ. Tôi không biết đã có bao nhiêu huyền thoại trong thời thơ ấu thực sự bắt nguồn từ quá khứ được mơ hồ nhớ lại.

Tôi cũng băn khoăn về thứ bậc thần linh, ai trở thành bảo vệ và ai trở thành các Bậc Thầy, và những người chẳng phải là bảo vệ và cũng chẳng là các Bậc Thầy, mà chỉ là những người học hỏi. Phải có cấp bậc căn cứ vào trí tuệ và kiến thức, với mục đích tối hậu là trở nên Thánh thiện và gần như có lẽ nhập vào bằng cách nào đó với Thượng Đế. Đó là mục tiêu của thần học huyền bí đã mô tả bằng những lời lẽ xuất thần qua nhiều thế kỷ. Họ đã có nhứng cái thoáng nhìn vào sự kết hợp thiêng liêng như vậy. Thiếu những kinh nghiệm cá nhân như thế , những phương tiện như Catherine, với tài năng khác thường của cô đã cung cấp một nhãn quan tốt nhất.

Edward đi rồi và Catherine lại im lặng. Mặt cô trầm ngâm và cô đang chìm đắm trong thanh thản. Cô có một tài năng tuyệt vời làm sao - khả năng nhìn vượt qua sự sống và vượt qua cái chết, nói chuyện với các "thần" và chia sẻ trí tuệ của họ. Chúng tôi đang ăn từ Cây Kiến Thức không còn bị cấm đoán. Tôi băn khoăn không biết bao nhiêu trái táo còn để lại.

Mẹ của Carole, Minette, sắp chết vì bệnh ung thư đã di căn từ ngực tới xương và gan. Tiến trình chữa bệnh đã tiếp tục từ bốn năm nay và không còn thể ngăn chận lại bằng hóa trị. Bà là một phụ nữ can đảm, bà đã kiên cường chịu đựng đau đớn và sự ốm yếu. Nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng, và tôi biết cái chết của bà rất gần.

Những buổi thôi miên của Catherine cũng đang tiến triển và tôi chia sẻ kinh nghiệm và những tiết lộ này với Minette. Tôi cũng hơi ngạc nhiên, một nữ thương gia thực tế như bà sẵn sàng chấp thuận kiến thức này và muốn biết nhiều hơn nữa. Tôi đã đưa sách để bà đọc và bà đã đọc ngấu nghiến. Bà sắp xếp cùng tôi và Carole theo một khóa học về kabbalah (pháp thuật), những bài viết huyền bí của người Do Thái cổ hàng thế kỷ. Luân hồi và những bình diện ở giữa là những giáo lý căn bản trong tài liệu pháp thuật, tuy nhiên hầu hết những người Do Thái hiện đại không biết đến. Tinh thần của Minette sung mãn trong khi cơ thể bị hư hại. Sự sợ hãi cái chết của bà đã giảm thiểu. Bà bắt đầu mong muốn được đoàn tụ với Ben, người chồng yêu quí của bà. Bà tin vào sự bất tử của linh hồn bà, và việc này giúp bà chịu đựng đau đón. Bà vẫn bám chặt lấy sự sống, chờ đợi đứa cháu khác ra đời, đứa con đầu lòng của Donna, con gái bà. Bà đã gặp Catherine tại bệnh viện trong một lần khám bệnh, và cách nhìn cũng như lời nói của họ hòa hợp một cách thanh bình và thiết tha. Sự thành thật và chân thật của Catherine đã thuyết phục Minette rằng sự sống sau khi chết quả là sự thực.

Một tuần trước khi chết, Minette được đưa vào khu ung thư của bệnh viện. Carole và tôi đã có thể ở với bà, trò chuyện về sự sống và cái chết, và cái gì đợi tất cả chúng ta sau khi chết. Là một thiếu phụ có phẩm cách lớn, bà quyết định chết tại bệnh viện, nơi đây các y tá có thể săn sóc bà. Donna với chồng và đứa con sáu tuần cũng đến với bà để chào vĩnh biệt. Chúng tôi luôn luôn bên cạnh bà. Vào khoảng sáu giờ chiều của đêm Minette chết, Carole và tôi mới từ bệnh viện về nhà, cả hai chúng tôi đều cảm thấy phải trở lại ngay. Sáu hay bẩy giờ sau đó tràn đầy thanh thản năng lượng tinh thần siêu nhiên. Mặc dù hơi thở của bà khó khăn, nhưng Minette không còn đau đớn. Chúng tôi nói về sự chuyển tiếp của bà tới trạng thái ở giữa, ánh sáng chói lọi, và sự hiện diện tinh thần. Bà nhìn lại cuộc đời, hầu như lặng lẽ, và phấn đấu để chấp nhận phần tiêu cực. Bà dường như biết bà chưa thể đi được cho đến khi tiến trình này được hoàn tất. Bà đang chờ đợi giờ phút đặc biệt để chết, vào buổi sáng sớm. Bà trở nên mất kiên nhẫn khi thời điểm đến. Minette là người đầu tiên tôi đã hướng dẫn đến và qua cái chết trong cách này. Bà trở nên vững chắc và nỗi đau của chúng tôi được khuây khỏa bởi toàn bộ kinh nghiệm này.

Tôi thấy khả năng chữa bệnh của tôi đã mở rộng có nghĩa lý không những với ám ảnh sợ hãi và lo âu mà còn đặc biệt là về sự chỉ dẫn cho cái chết và sắp chết, hay nỗi đau đớn. Tôi theo trực giác biết điều sai và hướng đi nào phải chọn trong cách chữa bệnh. Tôi có thể truyền cảm nghĩ an lạc, bình tĩnh và hy vọng. Sau cái chết của Minette, nhiều người khác hoặc sắp chết hoặc có những người có thân nhân bị chết đã tìm đến đễ được giúp đỡ. Nhiều người không có ý muốn biết về Catherine hay tài liệu nói về sự sống và cái chết. Nhưng dù không phổ biến kiến thức riêng này, tôi cảm thấy tôi có thể gửi đi lời nhắn nhủ. Một giọng nói, một sự hiểu biết có thiện cảm về quá trình này, và về những sợ hãi và cảm nghĩ của họ, một cái nhìn, một tiếp xúc, một lời nói - tất cả có thể thông suốt, ở một mức độ nào đó, và chạm vào dây cung của hy vọng, về tính chất tinh thần bị bỏ quên, về nhân tính chung, và còn nhiều hơn nữa. Và cho những người có ý muốn biết nhiều hơn nữa, muốn hiểu biết rộng và chia sẻ kinh nghiệm của tôi với Catherine và cho những người khác như thể mở cửa sổ cho một luồng gió mát. Những người đã sẵn sàng thì tỉnh lại. Họ đạt được sự hiểu biết thấu đáo nhanh chóng hơn.

Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng những thầy thuốc chuyên khoa phải có một tâm hồn cởi mở. Đúng là các công trình khoa học hơn nữa cần phải chứng minh những kinh nghiệm chết và sắp chết, như của Catherine, những công trình thí nghiệm nhiều hơn nữa cũng rất cần thiết trong lĩnh vực này. Các thầy thuốc chuyên khoa cần xét khả năng của sự sống sau khi chết để sát nhập nó vào việc chỉ dẫn của họ. Họ không cần phải sử dụng thôi miên lùi về dĩ vãng, nhưng họ phải có đầu óc cởi mở, chia sẻ kiến thức của mình với bệnh nhân, và không nên coi nhẹ kinh nghiệm của bệnh nhân.

Bây giờ con người bị tàn phá bởi những đe dọa về tính bất tử. Tai họa của bệnh AIDS, sự tàn phá khủng khiếp của (vũ khí) hạt nhân, khủng bố, bệnh tật, và nhiều tai họa lớn treo trên đầu chúng ta và hành hạ chúng ta hàng ngày. Nhiều thiếu niên tin rằng chúng không sống quá hai mươi tuổi. Điều này không thể tưởng tượng được, phản ảnh sự căng thẳng khủng khiếp trong xã hội chúng ta.

Trên mức độ cá nhân, phản ứng của Minette với thông điệp của Catherine rất đáng khuyến khích. Tinh thần của bà được cũng cố, bà cảm thấy hy vọng trước đau đớn vật chất và cơ thể bị tàn phá. Nhưng những thông điệp đó là cho tất cả chúng ta, không chỉ để cho những người sắp chết. Cũng có niềm hy vọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta cần nhiều hơn nữa những thầy thuốc và khoa học gia thông báo những Catherine khác, để xác nhận và mở rộng thông điệp của cô. Những câu trả lời là ở đấy. Chúng ta bất tử. Chúng ta lúc nào cũng bên nhau.
CHƯƠNG MƯỜI HAI

Ba tháng rưỡi qua đi từ buổi thôi miên đầu tiên. Không những triệu chúng của Catherine thực sự biến hẳn, mà cô còn tiến bộ vượt qua cả việc chữa khỏi bệnh. Cô rạng rỡ với một sinh lực an lạc chung quanh cô. Cô lôi cuốn mọi người. Khi cô ăn điểm tâm tại quán Cà Phê ở bệnh viện, cả nam lẫn nữ đổ xô đến gặp cô. "Cô trông thật đẹp; tôi chỉ muốn nói với cô điều đó thôi." họ nói như vậy. Giống như người câu cá, cô muốn lôi họ vào con đường tâm linh vô hình. Không ai để ý và cô đã đến ăn tại quán cà phê này nhiều năm qua.

Như thường lệ cô chìm nhanh vào hôn mê thôi miên sâu trong phòng mạch không mấy sáng của tôi, mớ tóc vàng hoe của cô xìa từng cụm tỏa xuống chiếc gối quen thuộc mầu be.

"Tôi thấy một tòa nhà ... tòa nhà này làm bằng đá. Và một cái gì nhọn trên nóc tòa nhà. Đây là một nơi có nhiều núi non. Rất ẩm thấp ... rất ẩm thấp bên ngoài. Tôi nhìn thấy một cỗ xe. Tôi thấy một cỗ xe đi qua trước mặt. Toa xe có cỏ khô bên trong, một loại rơm hay cỏ khô hay một thứ gì đó cho súc vật ăn. Có một số người đàn ông ở đấy. Họ mang một loại cờ nào đó, một cái gì bay phấp phới ở đầu gậy. Mầu thật sáng. Tôi nghe thấy họ nói chuyện về Moors ... Moors. Và cuộc chiến đang diễn ra. Có một loại kim khí nào đó, một thứ gì bằng kim loại chùm đầu họ... Một loại mũ chùm đầu làm bằng kim loại. Năm đó là 1483. Một thứ gì đó về người Đan Mạch. Phải chăng chúng ta đánh nhau với người Đan Mạch. Một cuộc chiến nào đó đang xẩy ra."

Tôi hỏi, " Cô có ở đấy không?"

Cô trả lời dịu dàng, "Tôi không nhìn thấy cái đó". Tôi nhìn thấy những cỗ xe. Những cỗ xe này có hai bánh, hai bánh và cửa hậu. Những cỗ xe này lộ thiên, hai bên hông có song gỗ, một loại thanh gỗ cùng đóng vào với nhau. Tôi nhìn thấy ... một thứ gì bằng kim loại họ đeo ở cổ... rất nặng có hình chữ thập, nhưng ở có cái đầu cong, các đầu tròn... trên hình chữ thập. Đó là ngày lễ của một vị thánh nào đó... Tôi nhìn thấy những thanh kiếm. Họ có một loại dao hay gươm nào đó ... rất nặng , lưỡi rất cùn. Họ đang sửa sọan cho một trận chiến nào đó. "

"Xem xem cô có thể tìm thấy chính cô không?". tôi chỉ thị. "Hãy nhìn chung quanh. Có lẽ cô là một người lính đấy. Cô đang nhìn họ từ ở một chỗ nào đó."
"Tôi không phải là lính". Cô quả quyết về việc này.

"Hãy nhìn chung quanh."

"Tôi đã mang một số đồ tiếp tế. Đó là một cái làng, một cái làng nào đó". Cô im lặng.

"Bây giờ cô nhìn thấy gì?"

Tôi thấy một lá cờ, một loại cờ nào đó. Nó đỏ và trắng ... trắng có một cái hình chữ thập đỏ."

Tôi hỏi, "Có phải cái cờ ấy của dân tộc cô không?"

"Đó là cờ của binh lính nhà vua", cô đáp lại.

"Có phải vua của cô không?’

"Phải"

"Cô có biết tên vị vua ấy không?"

Tôi không nghe thấy. Ông ấy không ở đây."

"Cô hãy nhìn và xem cô đang mặc cái gì?" Hãy nhìn xuống và xem cô đang mặc gì."

"Một loại da ... một loại áo chẽn bằng da trên ... trên một cái áo sơ mi rất thô. Một cái áo chẽn bằng da... nó ngắn. Một loại giầy bằng da thú vật ... không phải là giầy, giống ủng hay những giầy da đanh hơn. Không ai nói chuyện với tôi cả."

"Tôi hiểu. Tóc cô mầu gì?"

"Tóc thưa, vì tôi già rồi, tóc đã hoa râm rồi đó."

"Cô cảm thấy thế nào về cuộc chiến tranh này?"

"Nó đã trở thành cách sống của đời tôi. Tôi đã mất một đứa con trong cuộc giao tranh nhỏ trước đây ."

"Một đứa con trai?"

"Phải". Cô buồn rầu.

"Cô còn ai? Cô còn ai trong gia đình?"

"Vợ tôi... và đứa con gái."

"Tên đứa con trai là gì?"

"Tôi không thấy tên nó. Tôi nhớ nó. Tôi thấy vợ tôi ."

Catherine vừa là nam vừa là nữ rất nhiều lần. Không con trong hiện kiếp, cô đã là cha mẹ của nhiều con vào những kiếp khác.

"Trông vợ ông thế nào?"

""Bà ấy rất mệt, rất mệt. Bà ấy già rồi. Chúng tôi có vài con dê."

"Đứa con gái còn ở với ông không?"

"Không, nó đã lấy chồng và đã dọn đi khỏi nhà ít lâu nay."

"Ông có cô đơn không, chỉ còn ông và vợ ông?"

"Phải."

"Đời ông ra sao?"

"Chúng tôi rất mệt. Chúng tôi rất nghèo. Thật không dễ dàng."

"Đúng. Ông đã mất đứa con trai. Ông có nhớ nó không?"

Cô trả lời đơn giản, "Có" nhưng niềm đau buồn quá rõ ràng.

Tôi đổi đề tài, "Ông có phải là nhà nông không?"

"Phải. Có lúa mạch ... lúa mạch, thứ gì đó như lúa mạch."

"Có phải có nhiều chiến tranh tại xứ ông không, trong suốt cuộc đời ông với nhiều thảm kịch?"

"Phải"

"Nhưng ông đã sống cho đến già".

"Nhưng họ đã đánh nhau ở ngoài làng chứ không phải trong làng". Cô giải thích, "Họ phải di chuyển đến nơi họ đánh trận... qua nhiều núi non".

"Ông có biết địa danh nơi ông ở không? Hay thành phố?"

"Tôi không nhìn thấy, nhưng nó phải có tên. Tôi không nhìn thấy".

"Có phải là thời gian sùng đạo với ông không? Ông nhìn thấy hình chữ thập trên những người lính."

"Với những người khác .Chứ không phải với tôi."

"Có người nào còn sống trong gia đình ông ngoài vợ và con ông không?"

"Không"

"Cha mẹ ông chết cả rồi à?

"Phải".

"Các anh và chị em?"

"Tôi có một người chị. Chị tôi còn sống. Tôi không biết chị ấy", cô nói thêm, nhắc đến đời sống của chị ấy là Catherine.

"Được rồi. Hãy kiểm tra xem ông có nhận ra được người nào khác trong làng hay gia đình". Nếu người ta luân hồi cả nhóm, cô sẽ tìm thấy một người nào tại đấy, người này rất có ý nghĩa trong hiện kiếp của cô.

"Tôi nhìn thấy một cái bàn bằng đá... Tôi nhìn thấy những cái bát."

"Có phải là nhà của ông không?"

"Phải. Cái gì đó làm bằng ... thứ gì vàng, thứ gì đó từ ngô ... hay thứ gì đó ... vàng. Chúng tôi ăn cái này..."

"Được rồi" Tôi nói thêm, hãy cố gắng tăng nhịp độ. "Ông đã có một cuộc đời rất khó khăn, một cuộc đời rất khó khăn. Ông nghĩ như thế nào?"

Cô thì thào , "Những con ngựa".

"Ông có ngựa không hay của người nào khác?"

"Không, những người lính... một số người lính. Hầu hết họ đi bộ. Nhưng không phải là ngựa, chúng là những con la hay những con gì đó nhỏ hơn ngựa. Hầu hết chúng chưa thuần".

Tôi chỉ thị, "bây giờ hãy tiến xa hơn nữa", "Ông đã rất già rồi. Hãy cố gắng tiến tới ngày cuối cùng trong kiếp này như một người già".

Cô phản đối "Nhưng tôi chưa già lắm."Cô đặc biệt là không để lại ảnh hưởng trong những tiền kiếp này. Cái gì diễn ra là diễn ra. Tôi cũng không thể gợi ý cắt đứt những ký ức hiện tại. Tôi cũng không thể bảo cô thay đổi những chi tiết về cái đã xẩy ra và được nhớ lại.

Tôi hỏi, thay đổi cách tiếp cận, "Còn gì nhiều nữa xẩy ra trong kiếp này? Rất quan trọng cho chúng tôi để biết".

"Không có gì quan trọng" Cô trả lời không xúc động.

"Rồi, tiếp tục đi, tiến xa hơn nữa. Hãy tìm xem ông cần phải học cái gì. Ông biết không?"

"Không, Tôi vẫn còn ở đấy".

"Phải, tôi biết. Ông có nhìn thấy gì không?" Một phút hay hai phút trôi qua trước khi cô trả lời.

Cô thì thào dịu dàng, "Tôi đang trôi lơ lửng."

"Bây giờ cô đã rời bỏ ông ấy?"

"Phải, tôi đang bềnh bồng lơ lửng". Cô lại vào trạng thái tinh thần.

"Cô có biết cô cần phải học gì không? Đây là một kiếp khó khăn khác cho cô?"

"Tôi không biết. Tôi đúng là đang lơ lửng."

"Được rồi. Hãy nghỉ ngơi, hãy nghỉ ngơi". Nhiều phút nữa trôi qua im lặng. Rồi dường như cô đang nghe thấy gì. Đột nhiên cô nói. Giọng cô to và sâu. Giọng này không phải của Catherine.

"Có bẩy bình diện tất cả, bẩy bình diện, mỗi bình diện gồm có nhiều mức độ, một trong chúng là bình diện về ký ức. Trên bình diện này, bạn được phép thu thập các tư tưởng. Bạn được phép thấy đời sống của mình vừa mới qua đi. Những người ở mức độ cao hơn được phép xem lịch sử. Họ có thể trở lại dạy chúng ta biết về lịch sử. Nhưng chúng ta ở mức độ thấp nên chỉ được phép xem đời mình ... vừa mới qua đi.

"Chúng ta có nợ phải trả. Nếu chúng ta không trả nợ xong, chúng ta phải mang những món nợ này vào kiếp khác ... để chúng có thể được biết kết quả. Bạn tiến bộ bằng cách trả nợ. Một số linh hồn tiến bộ nhanh hơn những linh hồn khác. Khi bạn ở trong dạng thể chất, và bạn lao động liên miên, lao động suốt đời ... Nếu điều gì đó làm bạn mất khả năng... trả nợ, bạn phải quay về bình diện của ký ức, và tại đấy bạn phải chờ đợi cho đến khi linh hồn mà bạn thiếu nợ đến gặp bạn. Và khi cả hai đều quay trở về dạng thức thể chất vào cùng một thời điểm, thì bạn được phép trở về. Nhưng bạn quyết định thời gian bạn sẽ trở về. Bạn quyết định làm gì để trả nợ đó. Bạn sẽ không nhớ được những kiếp khác... chỉ nhớ được một kiếp mà bạn vừa trở về. Chỉ những linh hồn ở mức độ cao hơn - những nhà hiền triết - được phép nhớ lịch sử và những biến cố ở quá khứ ... để giúp chúng ta, dạy chúng ta điều ta phải làm.

"Có bẩy bình diện... bẩy bình diện mà ta phải qua trước khi chúng ta trở về. Một trong bẩy bình diện này là một bình diện chuyển tiếp. Nơi đó chúng ta phải chờ. Trong bình diện đó có sự quyết định về những gì bạn sẽ mang theo với bạn vào kiếp sống kế tiếp. Chúng ta tất cả đều có ... điểm trội. Điều này có thể là tham lam hay có thể là khát vọng, nhưng bất cứ cái gì được quyết định, thì bạn cần phải trả xong nợ cho những người này. Rồi bạn phải vượt qua điều này trong hiện kiếp. Bạn phải học hỏi để vượt qua tham lam. Nếu không khi bạn trở về bạn phải mang theo với bạn đặc điểm đó, cũng như đặc điểm khác vào kiếp sống kế tiếp. Gánh nặng sẽ trở nên nặng hơn. Với mỗi kiếp sống mà bạn trải qua và bạn không trả xong nợ, kiếp sống kế tiếp sẽ khó khăn hơn. Nếu bạn trả hết nợ, bạn sẽ đạt được một kiếp sống dễ dàng. Cho nên bạn chọn kiếp sống nào bạn sẽ có. Trong giai đoạn kế tiếp, bạn chịu trách nhiệm về đời sống bạn có. Bạn chọn đời sống đó". Catherine rơi vào im lặng.

Việc này hiển nhiên không phải từ các Bậc Thầy. Ông ta tự nhận diện mình là "chúng ta thuộc về mức độ thấp" so sánh với những linh hồn có mức độ cao - "những nhà hiền triết". Nhưng kiến thức được truyền đạt vừa rõ ràng vừa thực tiễn. Tôi băn khoăn về năm bình diện kia và những đặc tính của nó. Giai đoạn tái sinh có phải là một trong những bình diện này? Và giai đoạn học hỏi và giai đoạn quyết định là thế nào? Tất cả trí tuệ được tiết lộ qua những thông điệp này từ những linh hồn ở các phương chiều thuộc về trạng thái tinh thần rất nhất quán. Văn phong truyền đạt khác nhau, cách nói và cú pháp khác nhau, sự sành điệu trong thơ ca và ngữ vững khác nhau; nhưng nội dung vẫn mạch lạc. Tôi đang thụ đắc một khối lượng lớn có hệ thống về kiến thức tinh thần. Kiến thức này nói về tình thương yêu và hy vọng, niềm tin và lòng nhân đức. Nó khảo sát đức hạnh và tật xấu, thiếu nợ người khác và của chính mình. Nó gồm có những kiếp sống đã qua và những bình diện tinh thần giữa các kiếp sống. Và nó nói về sự tiến bộ của linh hồn do hòa hợp và quân bình, tình thương yêu và trí tuệ, tiến tới mối liên hệ huyền bí và xuất thần với Thượng Đế.

Có nhiều lời khuyên thực tiễn trên cùng phương diện : Giá trị của kiên nhẫn và chờ đợi; sự thông thái trong sự quân bình của thiên nhiên; sự loại bỏ sợ hãi, nhất là sợ hãi về cái chết; nhu cầu của học hỏi về lòng tin cậy và vị tha, tầm quan trọng của việc không phán xét người khác hay ngăn cản đời sống của người khác; tích lũy và sử dụng khả năng trực giác; và có lẽ quan trọng hơn cả là kiến thức bất di bất dịch rằng chúng ta bất tử. Chúng ta vượt qua sự sống và cái chết, vượt qua không gian và thời gian. Chúng ta là những thượng đế, và thượng đế là chúng ta.

Catherine đang thì thào dịu dàng, "Tôi đang trôi lơ lửng."

Tôi hỏi, "Cô ở trạng thái nào?"

"Không có gì ... Tôi đang trôi lơ lửng... Edward nợ tôi cái gì đó... Ông ta thiếu tôi thứ gì đó".

"Cô có biết ông ta nợ gì cô không?"

"Không ... một số kiến thức ... ông ta nợ tôi. Ông có điều gì nói với tôi, có lẽ về đứa con của chị tôi."

Tôi lặp lại, "Đứa con của chị tôi?"

"Phải ... Nó là đứa con gái. Tên nó là Stephanie"

"Stephanie? Cô cần biết gì về nó?"

Cô trả lời, "Tôi cần biết cách tiếp xúc với nó". Catherine chưa bao giờ nói gì với tôi về cháu cô.

Tôi hỏi, "Nó có thân thiết với cô không?"

"Không, nhưng nó muốn tìm họ."

Tôi hỏi, "Tìm ai?" Tôi bối rối.

"Chị tôi và người chồng. Và cách duy nhất là nhờ tôi. Tôi là mối liên lạc. Ông ta có tin tức. Cha nó là một bác sĩ, và đang hành nghề tại một nơi nào đó ở Vermont, phía nam Vermont. Tin tức đến với tôi khi cần thiết".

Sau này tôi được biết chị của Catherine và người chồng tương lai đã đem đứa con gái của họ cho người ta nuôi. Vào lúc đó họ là trẻ vị thành niên và chưa cưới nhau. Việc cho con làm con nuôi được nhà thờ thu xếp. Không có tin tức gì nữa sau thời gian này.

Tôi đồng ý, "Phải, khi nào thì đúng lúc?"

"Phải. Rồi ông ta sẽ nói với tôi. Ông ta sẽ nói với tôi".

"Ông ta có tin tức gì khác cho cô biết không?"

"Tôi không biết, nhưng ông ta có những điều nói với tôi. Và ông ta thiếu tôi thứ gì đó ... thứ gì đó. Tôi không biết thế nào. Ông ta thiếu tôi thứ gì đó". Cô im lặng.

Tôi hỏi, "Cô có mệt không?"

Cô thì thào trả lời, "Tôi thấy bộ dây cương ngựa. Cột trên tường. Bộ dây cương ... Tôi thấy một cái mền ở bên ngoài chuồng ngựa".

"Có phải là chuồng ngựa không?"

"Họ có ngựa tại đấy. Họ có nhiều ngựa".

"Ngoài ra cô nhìn thấy gì nữa?"

"Tôi nhìn thấy nhiều cây - vời những bông hoa vàng. Cha tôi ở đấy. Ông săn sóc ngựa". Tôi hiểu tôi đang nói chuyện với một đứa bé.

"Trông ông ra sao?"

"Ông rất cao, với tóc muối tiêu."

"Cô có nhìn thấy chính cô không?"

"Tôi là một đứa bé ... một đứa con gái".

"Cha cô là chủ ngựa hay ông chỉ là người săn sóc ngựa?"

"Ông chỉ là người săn sóc ngựa. Chúng tôi sống ở gần đấy."

Cô có thích ngựa không?"

"Có"

"Cô thích nhất con ngựa nào?"

"Có, Con ngựa của tôi. Tên nó là Apple (Quả Táo)". Tôi nhớ lại kiếp sống mà cô có tên là Mandy khi con ngựa có tên là Apple xuất hiện. Phải chăng cô lại nhắc lại kiếp sống mà chúng ta đã trải nghiệm? Có lẽ cô đang tiếp cận kiếp này từ một cái nhìn khác.

"Apple... phải. Cha cô có cưỡi con Apple của cô không?"

"Không, nhưng tôi có thể cho nó ăn các thứ. Nó thường kéo cỗ xe của ông hiệu trưởng, kéo xe ngựa. Nó rất to lớn. Chân nó to. Nếu ông không cẩn thận, nó có thể giẫm lên chân ông."

"Còn ai nữa không?"

"Mẹ tôi ở đấy. Tôi thấy một người chị... Chị tôi to lớn hơn tôi. Tôi không nhìn thấy người nào khác".

"Bây giờ cô nhìn thấy gì không?"

"Tôi chỉ nhìn thấy ngựa".

"Đây là thời gian hạnh phúc của cô phải không?"

"Phải. Tôi thích mùi chuồng ngựa". Cô rất rõ ràng, đề cập đúng lúc đến thời gian ở chuồng ngựa.

"Cô có ngửi thấy mùi ngựa không?"

‘Có"

"Mùi cỏ khô?"

"Có... mặt chúng rất dịu dàng. Cũng có những con chó tại đấy, chó đen, vài con chó đen và vài con mèo ... nhiều súc vật. Chó dùng để đi săn. Khi họ săn chim, chó được phép đi theo."

"Có điều gì xẩy ra cho cô?"

"Không". Câu hỏi của tôi quá mơ hồ.

"Cô lớn lên tại nông trại này phải không?"

"Phải. Người đàn ông săn sóc ngựa". Cô ngưng. "Ông ta không phải thực là cha tôi." Tôi bối rối.

"Ông ấy không phải thực sự là cha cô sao?"

"Tôi không biết ... ông ta không phải thực là cha tôi. Nhưng ông giống như là cha tôi. Ông là người cha thứ hai. Ông rất tốt với tôi. Mắt ông xanh".

Hãy nhìn vào mắt ông - mắt xanh - và xem cô có nhận ra ông. Ông ta rất tốt với cô. Ông ta thương yêu cô."
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:38 am

"Ông là ông tôi ... ông tôi. Ông yêu chúng tôi lắm. Ông tôi yêu chúng tôi lắm. Ông thường dẫn chúng ta ra ngoài với ông. Chúng tôi thường đi với ông đến chỗ ông uống rượu. Và chúng tôi được uống nước ngọt. Ông thích chúng tôi". Câu hỏi của tôi làm cô bật ra khỏi kiếp sống đó rơi vào trạng thái quan sát, siêu thức. Bây giờ cô đang xem đời sống của Catherine và mối quan hệ của cô với người ông cô.

Tôi hỏi, "Cô có nhớ ông không?"

Cô trả lời dịu dàng, "Có"

"Nhưng cô biết ông đã ở với cô trước đây." Tôi đang giải thích cố gắng làm giảm bớt sự buồn đau của cô.

"Ông rất tốt với chúng tôi. Ông yêu chúng tôi. Ông không bao giờ la rầy chúng tôi. Ông thường cho chúng tôi tiền và đưa chúng tôi đi chơi với ông. Ông thích như thế, nhưng ông chết."

"Phải, nhưng cô sẽ lại được ở với ông. Cô biết điều đó."

"Phải. Tôi đã ở với ông trước đây. Ông không giống như cha tôi. Họ khác biệt nhau rất nhiều."

"Tại sao người này yêu cô nhiều và đối xử với cô rất tốt và người kia lại quá khác biệt?"

"Vì một người đã học hỏi. Người ấy đã trả nợ người ấy thiếu. Cha tôi không trả món nợ của mình. Ông đã trở lại ... không có hiểu biết. Ông phải làm lại"

Tôi đồng ý, "Đúng", ông phải học hỏi yêu thương, dưỡng dục."

Cô trả lời, "Phải"

"Nếu họ không hiểu biết điều này, tôi nói thêm, "họ coi trẻ con như tài sản, không biết yêu thương con người".

Cô đồng ý, "Đúng".

"Cha cô phải học hỏi điều này."

"Phải"

"Ông cô đã biết rồi..."

Cô xen vào, "Tôi biết", Chúng ta trải qua nhiều giai đoạn khi chúng ta ở trạng thái thể chất... giống như những giai đoạn tiến hóa khác. Chúng ta phải đi qua giai đoạn ấu thơ, giai đoạn em bé, giai đoạn đứa trẻ... Chúng ta phải đi thật xa trước khi tiến tới... trước khi chúng ta tiến tới mục tiêu. Các giai đoạn trong dạng thể chất rất khó khăn. Những người trong bình diện thiên thể lại dễ dàng. Ở đấy chúng ta chỉ nghỉ ngơi và chờ đợi. Bây giờ đây là những giai đoạn khó khăn".

"Có bao nhiêu bình diện trong trạng thái thiên thể?"

Cô trả lời, "Có bẩy"

Tôi hỏi, "Những bình diện ấy thế nào, chú ý để xác nhận những bình diện vượt qua hai bình diện đã ghi trước đây trong buổi thôi miên.

Cô giải thích, "Tôi chỉ được biết hai". Giai đoạn chuyển tiếp và giai đoạn ký ức."

"Những bình diện này là hai bình diện mà tôi quen thuộc".

"Sau này chúng ta sẽ biết những bình diện kia".

"Cô đã học hỏi cùng lúc như tôi", tôi nhận xét.

"Hôm nay chúng ta học về nợ nần. Việc này rất quan trọng".

"Tôi sẽ nhớ cái mà tôi nên nhớ", cô nói thêm một cách khó hiểu.

Tôi hỏi, "Cô sẽ nhớ những bình diện này chứ?"

"Không. Chúng không quan trọng với tôi. Chúng quan trọng với ông". Tôi đã nghe thấy điều này trước đây. Điều này là cho tôi. Để giúp cô, tuy còn nhiều hơn thế. Để giúp tôi, cũng còn nhiều hơn thế. Tuy tôi không thể hiểu đầy đủ mục đích to lớn hơn là gì.

Tôi tiếp tục, "Dường như bây giờ cô đạt được nhiều điều tốt hơn?", "Cô đang học nhiều."

"Đúng", Cô đồng ý.

"Tại sao bây giờ người ta bị lôi cuốn đến với cô? bị thu hút đến với cô?

"Vì tôi đã thoát khỏi quá nhiều sợ hãi, và tôi có thể giúp họ. Họ cảm thấy một sự lôi kéo tâm linh đến với tôi."

"Cô có thể giải quyết với việc này?"

"Được". Không có vấn đề gì. "Tôi không sợ". Cô nói thêm.

"Tốt, Tôi sẽ giúp cô".

Cô trả lời, "Tôi biết, Ông là thầy của tôi".
CHƯƠNG MƯỜI BA

Catherine đã loại bỏ được những triệu chứng đau buồn. Cô khỏe mạnh hơn mọi khi. Những kiếp sống của cô bắt đầu được nhắc lại. Tôi biết chúng tôi đang gần kề điểm chót, nhưng điều tôi không hiểu là vào cái ngày thu này khi cô lại đi vào hôn mê thôi miên thì năm tháng trời trôi qua từ buổi này đến buổi kế tiếp, sẽ là buổi cuối cùng.

Cô bắt đầu, "Tôi nhìn thấy những bức chạm. "Một số được làm bằng vàng. Tôi nhìn thấy đất sét. Người ta làm bình. Những cái bình đỏ ... họ dùng một loại nguyên liệu đỏ. Tôi nhìn thấy một tòa nhà nâu, một loại kiến trúc nâu. Đó là nơi chúng tôi đang ở đấy."

"Cô ở trong tòa nhà nâu hay ở gần tòa nhà ấy?"

"Tôi ở trong. Chúng tôi đang làm những công việc khác nhau."

Tôi hỏi, "Cô có thể nhìn thấy chính cô trong khi đang làm việc không?" "Cô có thể miêu tả chính cô không, cô ăn mặc ra sao? Hãy nhìn xuống. Trông cô thế nào?"

"Tôi mặc loại áo dài đỏ... Tôi có đôi giầy ngộ nghĩnh, giống như dép. Tóc tôi nâu. Tôi đang làm việc đắp hình người. Đó là hình một người đàn ông...một người đàn ông. Người này có một loại gậy... một cái gậy ở trong tay. Những người khác đang làm những đồ bằng kim khí."

"Có phải làm trong một xưởng không?"

"Chỉ là một tòa nhà. Tòa nhà được làm bằng đá."

"Bức tượng cô đang làm, người đàn ông với cái gậy, cô biết người ấy là ai không?’

"Không, chỉ là một người đàn ông. Người trông nom trâu bò ...những con bò cái. Có nhiều tượng ở chung quanh đây. Chúng tôi chỉ biết trông thấy chúng giống như thế. Nó làm bằng một loại nguyên liệu là lạ. Rất khó làm. Nó cứ vỡ ra."

"Cô có biết tên của nguyên liệu đó không?"

"Tôi không nhìn thấy. Chỉ biết là một thứ gì đó đo đỏ".

"Cái gì sẽ xẩy ra sau khi cô đã làm xong tượng?"

"Tượng sẽ được đem bán. Một số sẽ được đem bán ngoài chợ. Một số sẽ được cho những nhà quý phái khác nhau. Chỉ những sản phẩm đẹp nhất sẽ được đưa đến các nhà quý tộc. Phần còn lại sẽ được bán".

"Có bao giờ cô được giao thiệp với những nhà quý phái này không?"

"Không."

"Đây là công việc của cô phải không?"

"Phải"

"Cô có thích công việc của cô không?"

"Có"

"Cô đã làm công việc này lâu rồi phải không?"

"Không."

"Cô làm tốt chứ?"

"Không tốt lắm"

"Cô cần nhiều kinh nghiệm hơn phải không?"

"Phải, tôi đang học."

"Tôi hiểu. Cô vẫn sống với gia đình đấy chứ?"

"Tôi không biết, nhưng tôi nhìn thấy những cái lều mầu nâu."

Tôi nhắc lại, "Lều nâu"

"Chúng có khe hở nhỏ. Chúng có đường dẫn vào và một số tượng ở bên trong cửa. Những tượng này làm bằng gỗ, một loại gỗ. Chúng tôi phải làm tượng cho các lều này".

"Chức năng của những tượng là gì?"

Cô trả lời, "chúng để cho tôn giáo"

"Tôn giáo gì ở đấy - bức tượng?"

"Có nhiều thần, nhiều bảo vệ... nhiều thần. Người ta rất sợ hãi. Có nhiều việc được làm nơi đây. Chúng tôi cũng làm những đồ chơi ... những bảng chơi cờ có lỗ trong đó. Những đầu súc vật đi vào những lỗ đó."

"Cô có nhìn thấy gì khác nữa không?"

"Trời rất nóng, rất nóng và bụi bậm ... cát."

"Có nước ở đâu đấy không?"

"Có, nước xuống từ núi". Kiếp sống này bắt đầu có vẻ quen thuộc.

Tôi thăm dò, "Người ta có sợ hãi à? Họ có dị đoan không?"

Cô trả lời, "Có. Họ rất sợ hãi. Người nào cũng sợ hãi. Tôi cũng sợ hãi. Chúng tôi phải tự bảo vệ. Có bệnh. Chúng tôi phải tự bảo vệ".

"Bệnh gì?"

"Một loại bệnh giết mọi người. Nhiều người đang chết".

Tôi hỏi, "Bệnh do nước?"

"Phải, Rất khô... rất nóng, vì các thần tức giận, và các thần đang trừng phạt chúng tôi". Cô đang đi thăm lại kiếp sống với cách trị bệnh bằng tannis. Tôi công nhận tôn giáo của sợ hãi, tôn giáo của Osiris và Hathor.

"Tại sao các thần tức giận?", tôi hỏi nhưng đã biết câu trả lời.

"Vì chúng tôi không tuân theo luật lệ. Các thần tức giận".

"Không tuân theo luật lệ nào?"

"Những luật đã được ấn định bởi những nhà quý phái".

"Làm sao để các thần nguôi giận?"

"Phải mặc một số thứ. Một số người mang các thứ chung quanh cổ. Những thứ này giúp chống lại ma quỷ."

"Vị thần nào mà người ta sợ nhất?"

"Họ sợ tất cả các thần".

"Cô có biết tên vị thần nào không?"

Tôi không biết tên. Tôi chỉ nhìn thấy họ thôi. Có một vị thần có thân như người nhưng đầu thú. Có một vị thần khác giống như mặt trời. Có một vị thần giống như con chim, vị thần này đen. Các vị thần quấn dây trên cổ".

"Cô sống sót qua tất cả điều này?"

"Phải, Tôi không chết".

"Nhưng những thân nhân của cô chết". Tôi nhớ lại.

"Phải, ... cha tôi; Mẹ tôi không sao."

"Anh cô?"

" Anh tôi ... anh ấy chết." Cô ấy nhớ lại.

"Tại sao cô sống sót? Có gì đặc biệt về cô không? Điều gì cô đã làm?"

"Không", cô trả lời rồi thay đổi điểm trọng tâm. "Tôi hình như thấy thứ gì có dầu bên trong".

"Cô nhìn thấy gì?"

"Thứ gì trắng. Nó giống như đá hoa. Nó là ... thạch cao tuyết hoa... một loại chậu nào đó... có dầu trong đó. Dầu để sức lên đầu..."

"... của các thầy tu." Tôi nói thêm.

"Phải"

"Nhiệm vụ của cô là gì bây giờ? Cô giúp xức đầu à?"

"Không. Tôi làm các bức tượng".

"Có phải vẫn ở trong tòa nhà nâu không?"

"Không... sau này là một cái đền." Trông cô như lo lắng vì lý do nào đó.

"Cô có vấn đề gì ở đó?"

"Người nào đó đã làm gì ở trong đền làm các thần tức giận. Tôi không biết".

"Có phải là cô không?"

"Không, không ... Tôi chỉ nhìn thấy những thầy tu. Họ đang sửa soạn lễ hiến tế, giết súc vật ... giết cừu. Đầu họ hói. Không có tóc trên đầu họ, cũng chẳng có trên mặt họ..."

Cô rơi vào im lặng, và ít phút trôi qua. Đột nhiên cô trở nên tỉnh táo hồ như cô nghe thấy gì đó. Khi cô nói, giọng cô sâu. Một Bậc Thầy hiện diện.

"Chính trên bình diện này một số linh hồn được phép xuất hiện trước những người vẫn còn ở trong dạng thức thể chất. Họ được phép trở về ... chỉ khi họ đã để lại một số giao kèo chưa hoàn tất. Trên bình diện này sự liên lạc với nhau được phép. Nhưng trên những bình diện khác ... Đây là chỗ bạn được phép sử dụng khả năng tâm linh để truyền thông với người trong dạng thức thể chất. Có nhiều cách làm việc này. Một số được phép dùng thần nhãn và có thể hiện ra trước những người còn ở trong dạng thức thể chất. Những người khác có quyền năng hành động được phép dùng ngoại cảm để di chuyển đồ vật. Bạn chỉ có thể đi đến bình diện này nếu việc đi này hữu ích cho bạn khi đến đấy. Nếu bạn để lại giao kèo chưa được hoàn tất, bạn có thể quyết định đến đây và truyền thông một cách nào đó. Nhưng đó là tất cả những gì... mà giao kèo phải được hoàn tất. Nếu đời bạn đột nhiên bị chấm dứt, thì đó có thể là lý do để bạn đi đến bình diện này. Nhiều người chọn đến đây vì họ được phép nhìn thấy những người vẫn ở trong dạng thức thể chất và rất gần gũi với họ. Nhưng không phải mọi người đều chọn cách truyền thông với những người này. Với một số người, việc này có thể quá sợ hãi." Catherine rơi vào im lặng và dường như đang nghỉ ngơi. Cô bắt đầu thì thào rất dịu dàng.

"Tôi nhìn thấy ánh sáng"

Tôi hỏi, "Có phải ánh sáng này cho cô năng

lượng phải không?"

"Nó giống như bắt đầu lại ... nó là một sự tái sinh".

"Làm sao người trong dạng thức thể chất cảm thấy năng lượng này? Làm sao họ có thể kết nối với nó và được nạp lại năng lượng?"

Cô trả lời dịu dàng, "Bằng tâm họ".

"Làm sao họ có thể tiến tới trạng thái này?".

"Họ phải ở trong trạng thái rất thoải mái. Bạn có thể hồi phục lại do ánh sáng ... do ánh sáng. Bạn phải hết sức thoải mái cho nên bạn không còn tiêu thụ năng lượng, nhưng bạn đang tự hồi phục lại. Khi bạn ngủ, bạn hồi phục lại". Cô đang ở trong trạng thái siêu thức và tôi quyết định mở rộng câu hỏi.

Tôi hỏi, "Cô đã tái sinh bao nhiêu lần? Tất cả những lần tái sinh đều ở đây, trong môi trường này, trái đất, hay ở nơi nào khác?"

Cô trả lời, "Không, không phải tất cả ở đây".

"Ở bình diện nào, bình diện nào, cô đến?".

"Tôi chưa làm xong việc tôi phải làm tại đây. Tôi không thể đi tiếp cho đến khi tôi đã trải nghiệm tất cả sự sống, và tôi chưa trải nghiệm xong. Sẽ có nhiều kiếp sống ... để hoàn thành tất cả những giao kèo và tất cả những nợ nần thiếu".

Tôi nhận xét, "Nhưng cô đang có tiến bộ".

"Chúng ta luôn luôn có tiến bộ".

"Đã bao nhiêu lần cô đã có kiếp sống trên trái đất?"

"Tám mươi sáu".

"Tám mươi sáu?"

"Phải".

"Cô có nhớ tất cả những kiếp sống này không?"

"Tôi sẽ nhớ, khi điều đó là quan trọng đối với tôi để nhớ lại những kiếp sống ấy". Chúng ta đã trải nghiệm hoặc những mảnh vụn hoặc những phần chính của mười hay mười hai kiếp sống, và sau này những kiếp sống đã được lặp lại. Hiển nhiên, cô không cần phải nhớ bẩy mươi sáu kiếp sống còn lại hay những kiếp sống ấy. Quả thực cô đã có những tiến bộ xuất sắc, ít nhất trong thời gian làm việc với tôi. Tiến bộ nào cô đã đạt được ở đây, từ điểm này, không lệ thuộc vào ký ức về các kiếp sống. Tiến bộ tương lai của cô có thể cũng không lệ thuộc vào tôi hay sự giúp đỡ của tôi. Cô lại bắt đầu thì thào nhè nhẹ.

"Một số người tiếp xúc bình diện thiên thể bằng cách dùng ma túy, nhưng họ không hiểu điều họ đã trải nghiệm. Nhưng họ đã được phép vượt qua. Tôi không hỏi cô về ma túy. Cô đang dạy, chia sẻ kiến thức, dù tôi hỏi cụ thể hay không.

"Không thể sử dụng sức mạnh tâm linh của cô để giúp cô tiến bộ ở đây?", tôi hỏi, "Cô dường như phát triển sức mạnh này càng ngày càng nhiều".

Cô đồng ý, "Đúng, quan trọng, nhưng không quá quan trọng ở đây như sẽ ở trên các bình diện khác. Đây chỉ là một phần của tiến hóa và phát triển".

"Quan trọng cho tôi và cho cô?"

Cô đáp lại, "Quan trọng cho tất cả chúng ta".

"Làm sao chúng ta phát triển khả năng này?"

"Ông phát triển qua những mối quan hệ. Có một số người có quyền năng cao hơn đã trở lại với nhiều kiến thức hơn. Họ sẽ tìm ra những người cần sự phát triển và giúp những người này". Cô lại rơi vào im lặng rất lâu. Rời bỏ trạng thái siêu thức cô lại đi vào một kiếp khác.

"Tôi nhìn thấy đại dương. Tôi nhìn thấy một ngôi nhà gần đại dương. Nhà trắng. Tầu bè đi lại ở hải cảng. Tôi ngửi thấy mùi nước biển".

"Cô ở đấy phải không?"

"Đúng vậy".

"`Cái nhà ấy trông thế nào?"

"Nó nhỏ thôi. Có một loại tháp nào đó ở trên nóc... một cái cửa sổ có thể nhìn ra ngoài nhìn ra biển. Có một kính viễn vọng nào đó. Nó bằng đồng, gỗ và đồng."

"Cô có sử dụng kính viễn vọng này không?"

"Có, để theo dõi tầu bè."

"Cô làm gì?"

"Chúng tôi báo cáo về các thương thuyền khi chúng vào hải cảng". Tôi nhớ cô đã làm việc này ở một tiền kiếp, khi cô là Christian, người thủy thủ có tay bị thương trong một trận thủy chiến.

"Cô có phải là thủy thủ không?" Tôi hỏi chờ đợi sự xác nhận.

"Tôi không biết ... có thể ".

"Cô có thể nhìn cô ăn mặc thế nào không?"

"Có. Một loại áo sơ mi trắng quần sọc nâu và giầy có nút thắt lớn... Tôi là thủy thủ ở cuối đời, chứ không phải bây giờ". Cô có thể nhìn về tương lai nhưng hành động này khiến cô nhẩy đến tương lai đó.

"Tôi bị thương", cô co rúm lại, quằn quại trong cơn đau. Tay tôi bị thương. Quả thực cô là Christian, và cô đang sống lại trận thủy chiến.

"Có một tiếng nổ?"

"Phải... tôi ngửi thấy mùi thuốc súng!"

"Cô sẽ không sao cả". Tôi trấn an cô vì đã biết hậu quả.

"Nhiều người đang chết !" Cô vẫn còn khích động. "Buồm bị rách ... một phần của hải cảng bị phá hủy". Cô đang chăm chú xem thiệt hại của con thuyền. "Chúng tôi phải sửa lại buồm. Buồm phải được sửa chữa".

Tôi hỏi, "Cô đã bình phục chưa?"

"Vâng, khâu vải trên những cột buồm thật là khó".

"Cô có thể làm bằng tay của cô không?"

"Không, nhưng tôi đang quan sát những người khác... những cánh buồm. Buồm làm bằng vải bạt, loại vải bạt nào đó, rất khó khâu... Nhiều người đã chết. Họ đau đớn nhiều." Cô co rúm người lại.

"Cái gì thế?"

"Đau này ... ở tay tôi".

"Tay cô lành rồi. Hãy tiến xa hơn. Cô có đi biển nữa không?"

"Có" Cô ngưng. "Chúng tôi đang ở phía Nam Wales. Chúng tôi phải bảo vệ bờ biển".

"Ai tấn công?

"Tôi tin là người Tây Ban Nha. . Họ có chiến thuyền lớn".

"Cái gì sẽ xẩy ra?"

"Tôi chỉ nhìn thấy con tàu. Tôi nhìn thấy hải cảng. Có những cửa hàng. Ở một số cửa hàng, họ làm nến. Có những cửa hàng bán sách."

"Vâng. Cô có bao giờ vào tiệm sách không?"

"Có. Tôi rất thích những tiệm sách này. Những sách thật là tuyệt vời... Tôi nhìn thấy nhiều sách. Cuốn sách đỏ là lịch sử. Sách viết về những thành phố... đất đai. Có những bản đồ. Tôi thích cuốn sách này... Có cửa hàng bán mũ".

Tôi nhớ đến Christian mô tả về bia, "Có nơi

nào ở đấy cô uống rượu không?"

Cô đáp, "Có rất nhiều. Họ bán bia... bia mầu rất sẫm... với loại thịt nào đó... loại thịt cừu và bánh, bánh rất lớn. Bia rất đắng, rất đắng. Tôi có thể nếm thấy. Họ cũng có cả rượu vang và những bàn gỗ dài. "

Tôi quyết định gọi cô bằng tên, để xem phản ứng. "Christian". Tôi gọi lớn

Cô trả lời lớn tiếng, không lưỡng lự. "Có! Ông muốn gì?"

"Christian, gia đình anh ở đâu?"

"Họ đang ở một thành phố gần kề. Chúng tôi ra khơi từ hải cảng này".

"Có những ai trong gia đình anh?"

"Tôi có một người chị... một người chị, Mary".

"Bạn gái của anh ở đâu?"

"Tôi không có bạn gái. Chỉ là những phụ nữ trong thành phố".

"Không ai đặc biệt?"

"Không, chỉ là phụ nữ ... Tôi lại ra khơi. Tôi đã đánh nhiều trận, nhưng tôi không sao cả".

" Anh đã già ..."

"Vâng"

"Anh đã bao giờ lấy vợ chưa?

"Tôi tin là đã. Tôi nhìn thấy cái nhẫn".

"Anh có con không?

"Có. Con trai tôi cũng sẽ đi biển... Có một cái nhẫn, một cái nhẫn với một bàn tay. Bàn tay cầm thứ gì đó. Tôi không nhìn thấy nó là cái gì . Cái nhẫn là bàn tay, một bàn tay nắm chặt cái gì đó". Catherine bắt đầu nôn ọe.

"Có việc gì không ổn?"

"Người trên thuyền đều bệnh... bệnh do đồ ăn. Chúng tôi đã ăn đồ ăn xấu, Thịt lợn muối". Cô tiếp tục nôn ọe. Tôi đưa cô ra khỏi thời gian ấy, và sự nôn ọe ngưng hẳn. Tôi quyết định không tiếp tục với cô qua bệnh đau tim của Christian nữa. Cô đã kiệt sức rồi, và tôi đưa cô ra khỏi hôn mê.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Ba tuần lễ trôi qua trước khi chúng tôi gặp lại nhau. Tôi bị bệnh qua loa và cô đi nghỉ phép gây ra chậm trễ. Catherine tiếp tục thành công trong giai đoạn này, nhưng khi chúng tôi bắt đầu buổi thôi miên, cô dường như lo lắng. Cô báo rằng cô rất khỏe và cảm thấy khá hơn rất nhiều đến mức không còn cảm thấy thôi miên có thể giúp gì hơn nữa. Đuơng nhiên cô đúng. Trong những trường hợp bình thường, chúng tôi có lẽ đã ngưng sự chữa trị từ nhiều tuần qua. Tôi đã tiếp tục một phần vì sự quan tâm của tôi đến những thông điệp của các Bậc Thầy và vì một số vấn đề nhỏ vẫn còn dai dẳng trong đời sống hàng ngay hiện nay của Catherine. Catherine hầu như khỏi hẳn, và những kiếp sống của cô đang tái diễn. Nhưng nếu các Bậc Thầy muốn nói nữa với tôi thì sao? Làm sao chúng tôi có thể liên lạc với nhau mà không có Catherine? Tôi biết cô sẽ tiếp tục các buổi thôi miên nếu tôi năn nỉ. Nhưng tôi không cảm thấy việc năn nỉ này là đúng. Với một nỗi buồn, tôi đồng ý với cô. Chúng tôi trò chuyện về những biến cố của ba tuần lễ qua, nhưng tâm tư tôi không mấy chú ý.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:39 am

Năm tháng trời trôi qua. Catherine ngày càng khá lên. Sợ hãi và lo âu của cô còn chút ít. Chất lượng đời sống và những mối quan hệ của cô cao được nâng cao mạnh mẽ. Bây giờ cô đang hò hẹn với những người đàn ông khác, mặc dầu Stuart vẫn còn hiển hiện trong sự việc này. Đây là lần đầu tiên từ khi cô còn là một đứa bé cô cảm thấy niềm vui và hạnh phúc thực sự trong đời. Thỉnh thoảng, chúng tôi có gặp nhau ở hành lang hay trong khi xếp hàng ở nơi bán Cà Phê trong bệnh viện, nhưng chúng tôi không có những cuộc tiếp xúc bác sĩ - bệnh nhân chính thức.

Mùa đông qua đi và mùa xuân bắt đầu. Catherine hẹn gặp tôi ở phòng mạch để khám bệnh. Cô lại mơ trở lại, mơ về loại hiến tế nào đó dính líu đến những con rắn trong hang. Người người, kể cả cô bị đẩy vào hang. Cô ở trong hang, cố gắng trèo ra khỏi bằng cách lấy tay đào tường xây bằng cát. Những con rắn ở ngay bên dưới cô. Vào lúc này cô tỉnh dạy, tim cô đập mạnh.

Mặc dù một gián đoạn dài, cô vẫn rơi nhanh vào trạng thái thôi miên sâu. Không ngạc nhiên, cô quay ngay về một tiền kiếp xa xưa.

"Trời rất nóng tại nơi tôi đang ở", cô bắt đầu, "Tôi nhìn thấy hai người da đen đứng gần những bức tường đá lạnh và ẩm ướt. Họ đội mũ sắt. Có một sợi dây chung quanh cổ chân họ. Sợi dây được tết bằng hạt và tua rủ xuống. Họ đang làm một cái nhà kho bằng đá và đất sét, để chứa lúa mì trong đó, một loại hạt đã được xay. Những hạt lúa mì này được mang để vào một cái xe có bánh sắt. Những tấm thảm dệt được để trên xe hay ở một phần xe. Tôi nhìn thấy nước, rất xanh. Một người trông coi nào đó đang ra lệnh cho những người khác. Có ba bậc đi xuống vựa lúa. Có một bức tượng của một vị thần ở bên ngoài. Vị thần này có đầu một con thú, một con chim và một thân người. Vị thần này là thần mùa màng. Những bức tường được gắn kín bởi một loại nhựa đường để không khí không lọt vào và để giữ cho các hạt lúa mì được tươi. Mặt tôi ngứa ngáy... Tôi nhìn thấy những cái bím tóc xanh trên tóc tôi. Có những con rệp và ruồi chung quanh làm mặt và tay tôi ngứa. Tôi để một thứ gì dinh dính trên mặt tôi để chúng đừng đậu vào ...mùi này thật ghê gớm, nhựa của một thứ cây nào đó.

"Tôi có những bím tóc ở trên đầu và những tràng hạt ở bím tóc với những sợi dây vàng. Tóc tôi đen sậm. Tôi là thành viên của gia đình hoàng gia. Tôi ở đây vì lễ hội. Tôi đến để xem lễ xức dầu của các thầy tu ... một lễ hội dâng lên các vị thần cho mùa tới. Chỉ có lễ hiến tế bằng súc vật, không phải bằng người. Máu của những con vật tế thần chảy từ một cái giá trắng vào một cái chậu... rồi chảy vào miệng một con rắn. Đàn ông đội những chiếc mũ vàng nhỏ. Ai nấy đều da sậm. Chúng tôi có những người nô lệ từ những xứ khác, những xứ từ bên kia đại dương..."

Cô rơi vào im lặng, chúng tôi phải chờ đợi như thể hàng tháng không bao giờ hết. Cô dường như trở nên thận trọng, lắng nghe một thứ gì đó.

"Tất cả quá nhanh và phức tạp... những gì họ nói với tôi ... về thay đổi và phát triển và những bình diện khác nhau. Có bình diện của tỉnh thức và bình diện của chuyển tiếp. Chúng ta là sản phẩm của một kiếp sống, và nếu những bài học được hoàn tất, chúng ta di chuyển tới một phương chiều khác, một đời sống khác. Chúng ta phải hiểu biết đầy đủ. Nếu chúng ta không hiểu biết, chúng ta không được phép đi qua... chúng ta phải làm lại vì chúng ta không học. Chúng ta phải trải nghiệm mọi mặt. Chúng ta phải biết mặt thiếu sót, nhưng cũng phải biết cho ... Có nhiều điều để biết, có nhiều thần linh dính líu. Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây. Những Bậc Thầy chỉ là một trong bình diện này".

Catherine ngưng, và nói với giọng của Bậc Thầy thi nhân. Ông đang nói với tôi.

"Điều chúng tôi nói với ông là dành cho hiện tại. Ông phải học qua trực giác của chính ông".

Sau một vài phút cô lại nói với giọng thì thào dịu dàng của cô. "Có cái hàng rào đen, bên trong là mộ chí. Mộ của ông ở đấy".

"Của tôi?" tôi hỏi, ngạc nhiên về ảo giác này.

"Phải"

"Có thể đọc chữ khắc trên bia không?"

"Tên là Noble :1668-1724. Có hoa trên mộ... Đó là ở Pháp hay ở Nga. Ông mặc một bộ đồng phục đỏ... và bị ngã ngựa ... Có một cái nhẫn vàng ... có một cái đầu sư tử... được dùng như huy hiệu."

Không còn gì nữa. Tôi giải thích câu nói của Bậc Thầy thi nhân có nghĩa là không còn gì được tiết lộ do thôi miên Catherine và quả thật việc này là đúng. Chúng tôi không còn những buổi thôi miên với Catherine nữa. Bệnh của cô đã lành hẳn, và tôi phải học tất cả những gì tôi có thể do thôi miên lùi về dĩ vãng. Phần còn lại, điều nằm ở tương lai, tôi phải học qua trực giác của chính tôi.
CHƯƠNG MƯỜI LĂM

Hai tháng sau buổi thôi miên cuối cùng, Catherine gọi điện thoại hẹn gặp tôi. Cô nói cô có một chuyện rất lý thú muốn nói với tôi.

Khi cô bước vào phòng mạch của tôi, đó là dáng điệu của một Catherine mới, hạnh phúc, tươi cười, và rạng rỡ niềm an lạc bên trong làm cho cô hồng hào khiến tôi sửng sốt. Một lúc, tôi nghĩ về Catherine trước đây, và có sự khác biệt lớn lao nhường nào chỉ trong một thời gian ngắn như thế.

Catherine đã đi gặp Iris Saltzman, một chiêm tinh gia tâm linh nổi tiếng chuyên xem về tiền kiếp. Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng tôi hiểu sự tò mò của Catherine và nhu cầu của cô muốn có thêm tin tức xác nhận điều cô đã trải nghiệm. Tôi mừng là cô đã có niềm tin để làm việc này.

Catherine mới nghe nói về Iris qua một người bạn. Cô đã gọi tôi lấy hẹn, mà không nói gì với Iris về bất cứ cái gì đã diễn ra tại phòng mạch của tôi.

Iris chỉ hỏi cô về ngày tháng, giờ sinh và nơi sinh của Catherine. Từ đó , Iris giải nghĩa cho cô, cô phải xây dựng một cái vòng chiêm tinh, trùng hợp với năng khiếu trực giác của Iris, làm cho cô có thể thấy rõ chi tiết từ những tiền kiếp của Catherine.

Đây là kinh nghiệm đầu tiên với một bà đồng và cô thực ra không biết mong muốn điều gì. Trước sự ngạc nhiên của cô, Iris đã công nhận giá trị hầu hết những gì Catherine đã khám phá ra trong thôi miên.

Iris từ từ làm tâm trạng chính bà thay đổi bằng cách nói và lập ký hiệu trên một đồ thị chiêm tinh được xây dựng nhanh chóng. Ít phút sau khi bà đã đi vào trạng thái này, Iris với tay tới cổ họng của bà và báo rằng bà đã bị bóp cổ và bị cắt cổ ở kiếp trước. Việc cắt cổ này xẩy ra vào thời chiến, và Iris có thể nhìn thấy những ngọn lửa và sự tàn phá trong làng nhiều thế kỷ trước. Bà nói là Catherine là một người đàn ông trẻ vào lúc chết.

Cặp mắt của Iris dường như đờ đẫn khi bà tiếp tục mô tả Catherine là một nam nhân trẻ mặc đồng phục thủy quân với quần đen ngắn và giầy có những cái khóa kỳ quặc. Đột nhiên Iris nắm lấy tay trái bà và cảm thấy đau nhói, kêu lên là vật gì sắc đâm vào gây thương tật, để lại một vết sẹo vĩnh viễn. Có những trận thủy chiến lớn, diễn ra ở ngoài bờ biển Anh Quốc. Bà tiếp tục mô tả cuộc đời thủy thủ.

Iris mô tả nhiều quãng đời nữa trong những tiền kiếp. Có một kiếp sống ngắn ngủi tại Ba Lê, nơi đây Catherine là một đứa con trai và chết yểu trong nghèo khổ. Một lần khác cô là một người đàn bà Mỹ da đỏ ở bờ biển tây nam Florida. Trong kiếp này, cô là một bà lang chân đất. Cô da sậm và có cặp mắt kỳ cục. Cô xức dầu vào vết thương và cho dược thảo, và cô rất tâm linh. Cô thích đeo nữ trang bằng ngọc xanh, nữ trang mầu da trời, có hạt ngọc đỏ quấn vào.

Ở một kiếp khác, Catherine là một người Tây Ban Nha làm gái mãi dâm. Tên cô bắt đầu bằng chữ L. Cô sống với một người đàn ông già.

Trong một kiếp khác cô là con gái không chính thức của một người cha giàu có, có nhiều chức tước. Iris trông thấy gia huy trên những cốc lớn trong ngôi nhà lớn. Bà nói Catherine rất công bằng và có những ngón tay dài. Cô chơi đàn hạc. Đám cưới của cô được tổ chức. Catherine yêu thú vật nhất là ngựa, và cô đối xứ với súc vật tốt hơn những người chung quanh cô.

Trong một quãng đời ngắn cô là một đứa con trai Ma Rốc chết vì bệnh trong lúc còn nhỏ. Một lần cô sống tại Haiti, nói thổ ngữ và tham gia vào thực hành quỷ thuật.

Trong một kiếp xa xưa, cô là một người Ai Cập và tham gia vào những nghi thức chôn cất của văn hóa đó. Cô là một phụ nữ có tóc bện lại.

Cô có một vài kiếp sống tại Pháp và Ý. Trong một kiếp cô sống tại Florence và tham gia tôn giáo. Sau này cô di chuyển về Thụy Sĩ, nơi đây cô đã vào một tu viện. Cô là phụ nữ và có hai đứa con trai. Cô rất thích vàng và điêu khắc vàng, và cô đeo một cái thánh giá vàng. Ở Pháp, cô bị bỏ tù ở một chỗ lạnh lẽo và tối tăm.

Trong một kiếp khác, Iris thấy Catherine là đàn ông trong bộ đồng phục đỏ, liên quan đến ngựa và lính. Bộ đồng phục đỏ và vàng, có lẽ là người Nga. Tuy trong một kiếp khác cô là một nô lệ Nubian ở Ai Cập thời cổ. Có lúc, cô bị bắt và bị bỏ tù. Trong một kiếp khác, Catherine là một đàn ông ở Nhật, liên can đến sách vở và dạy học, rất uyên bác. Cô làm việc với các trường học và sống đến già.

Và cuối cùng, có một kiếp mới đây là một người lính Đức bị giết trong trận chiến.

Tôi say mê bởi những chi tiết trung thực về những biến cố ở tiền kiếp do Iris mô tả. Sự tương đồng với ký ức riêng của Catherine trong lúc thôi miên lùi về dĩ vãng thật đáng chú ý - Tay của Christian bị thương trong trận hải chiến và sự miêu tả quần áo, giầy ; cuộc đời của Louisa là một gái mãi dâm Tây Ban Nha; Aronda và việc mai táng Ai Cập; Johan , tên cướp trẻ tuổi hóa thân trước đây của Stuart cắt cổ trong khi làng của Stuart bị cháy.; Eric, người phi công Đức bị kết tội, và vân vân ...

Cũng có những sự tương đồng với kiếp sông hiện tại của Catherine. Thí dụ như, Catherine thích nữ trang ngọc xanh, nhất là mầu xanh da trời. Cô không đeo gì trong khi đi xem bói với Iris. Cô luôn luôn yêu súc vật, nhất là ngựa và mèo, cô cảm thấy an toàn với chúng hơn là người. Và nếu cô có thể chọn một nơi trên thế giới này để tham quan, nơi đó phải là Florence.

Tôi không thể gọi kinh nghiệm này là một thử nghiệm khoa học có giá trị. Tôi không có cách nào để kiểm chứng những sự thay đổi. Nhưng việc đã xẩy ra, và tôi nghĩ rằng nó rất quan trọng để nêu lên tại đây.

Tôi không chắc chắn cái gì đã xẩy ra ngày hôm đó. Có lẽ Iris bằng vô thức đã sử dụng ngoại cảm và "đọc" được tâm trí Catherine, vì những tiền kiếp đã sẵn có trong tiềm thức của Catherine. Hay có lẽ Iris đã thực sự nhận rõ được thông tin tiền kiếp bằng việc sử dụng khả năng tâm linh. Tuy nhiên điều đó đã xẩy ra, cả hai đã có cùng thông tin bằng những phương tiện khác nhau. Cái mà Catherine tới được qua thôi miên lùi về dĩ vàng thì Iris tới được qua kênh tâm linh.

Rất ít người có thể làm được như Iris làm. Nhiều người tự gọi mình là những nhà tâm linh chỉ lợi dụng sự sợ hãi của con người cũng như sự tò mò của họ về những cái không biết. Ngày nay, "những kẻ giả mạo tâm linh" và bịp bợm "tâm linh" dường như không còn gặp khó khăn nữa. Sự phổ biến rộng rãi những cuốn như Out On A Limb (Chơi Vơi) của Shirley Mac-Laine đã sinh ra một dòng "những ông đồng bà cốt" mới. Nhiều người lang thang đây đó, quảng cáo sự hiện diện của họ tại địa phương, và ngồi "đồng" nói với cử tọa mê tín và hãi hùng những lời nói tầm thường như " nếu bạn không hòa hợp với thiên nhiên, thiên nhiên sẽ không hòa hợp với bạn" Những lời tuyên bố này thường được phát ra bằng một giọng khác hẳn với giọng của "ông đồng bà cốt" , thường có vẻ có một giọng xa lạ nào đó. Những lời nhắn nhủ mơ hồ và có thể áp dụng cho nhiều người khác nhau. Thường thường những lời nhắn nhủ chủ yếu là đề cập đến những khía cạnh tinh thần, rất khó đánh giá. Quan trọng là loại bỏ cái sai ra khỏi cái thật để hoạt vi hoạt động không bị mất tín nhiệm. Những khoa học gia nghiên cứu hành vi chân chính cần làm công việc quan trọng này. Những nhà tâm thần học cần làm những nhận định chẩn đoán, để loại trừ bệnh tâm thần, giả ốm (giả mạo), và những khuynh hướng lừa đảo kỳ quái. Những nhà thống kê, tâm lý học và các nhà vật lý cũng rất quan trọng cho những đánh giá này và cho sự thử nghiệm thêm nữa.

Những bước đi dài đầy quan trọng sắp được thực hiện trong lĩnh vực này sẽ được làm bằng phương pháp khoa học. Trong khoa học, môn thôi miên là giả định mở đầu về một loạt quan sát, bước đầu tạo ra trước cách giải thích các hiện tượng. Từ đó môn thôi miên phải được thử nghiệm dưới những điều kiện có kiểm soát. Kết quả của những cuộc thử nghiệm này phải được chứng minh và được tái tạo trước khi một lý thuyết có thể được hình thành. Một khi các khoa học gia có được cái họ nghĩ là lý thuyết đúng, lý thuyết này phải được thử nghiệm nhiều lần bởi những nhà nghiên cứu khác, và kết quả phải giống nhau.

Những nghiên cứu khoa học chi tiết có thể chấp nhận được của Bác Sĩ Joseph B Rhine tại Đại Học Duke, và của Bác Sĩ Ian Stevenson tại Đại Học Virginia, Viện tâm Thần, của Bác Sĩ Gertrude Schneidler tại Trường Đại Học Thành Phố New York, và của nhiều nhà nghiên cứu khác chứng tỏ việc này có thể làm được.
CHƯƠNG MƯỜI SÁU

Gần bốn năm đã qua đi từ khi Catherine và tôi chia sẻ kinh nghiệm không thể tưởng tượng này đã thay đổi sâu xa cả hai chúng tôi.

Thảng hoặc cô ghé qua phòng mạch để chào tôi hoặc bàn luận về một vấn đề của cô. Cô không bao giờ còn có nhu cầu hay ham muốn thôi miên lùi về dĩ vãng nữa, cũng không đề cập đến triêu chứng hoặc tìm ra những người mới trong đời cô có thể liên quan đến cô trong quá khứ ra sao. Công việc của chúng tôi đã làm xong. Catherine bây giờ hoàn toàn tự do và tận hưởng niềm vui của đời sống, không còn bị phá hoại bởi triệu chứng bệnh tật. Cô đã tìm thấy ý nghĩa của hạnh phúc và sự thỏa mãn mà cô không bao giờ nghĩ rằng là có thể có được. Cô không còn sợ bệnh tật hay sợ chết. Đời sống có ý nghĩa và mục đích bây giờ với cô là ổn định và hòa hợp với chính mình. Cô tỏa chiếu một tâm hồn thanh thản mà nhiều người mong ước nhưng chỉ một số ít đạt được. Cô cảm thấy tinh thần nhiều hơn. Với Catherine, những gì đã xẩy ra hoàn toàn rất thật. Cô không nghi ngờ gì tính chân thực của một việc gì trong đó, và cô thừa nhận tất cả điều đó là một phần không thể thiếu được của cô. Cô không quan tâm đến việc theo đuổi nghiên cứu hiện tượng tâm linh khi nghĩ rằng cô "biết" ở mức độ nào đó không thể học hỏi chỉ từ sách vở hay những bản thuyết trình. Những người sắp chết hay gia đình có thân nhân sắp chết thường tìm đến cô. Họ dường như bị cô lôi cuốn. Cô ngồi và nói chuyện với họ, và họ cảm thấy dễ chịu hơn.

Đời sống của tôi hầu như cũng thay đổi một cách tích cực như Catherine. Tôi có khả năng trực giác hơn, nhận biết hơn về những phần ẩn dấu hay bí mật của các bệnh nhân, đồng nghiệp và bạn hữu của tôi. Tôi dường như biết nhiều về họ, dù trước đây tôi cũng có biết. Những giá trị và mục đích cuộc sống của tôi đã chuyển trọng tâm sang hướng nhân văn hơn, ít tích lũy hơn. Các nhà tâm linh, ông đồng bà cốt, các thầy lang, và những người khác xuất hiện trong đời tôi thường xuyên gia tăng, và tôi bắt đầu đánh giá khả năng của họ một cách có hệ thống. Catherine cũng phát triển cùng với tôi. Cô trở nên rất khéo léo đặc biệt trong việc cố vấn về vấn đề tử và cận tử, và bây giờ cô chỉ huy nhóm hỗ trợ các bệnh nhân sắp chết về bệnh AIDS.

Tôi bắt đầu thiền định, một thứ gì đó, cho đến mới đây, tôi tưởng chỉ có người Ấn Giáo và những người ở California tu tập. Những bài học do Catherine truyền đạt đã trở nên một phần ý thức trong đời sống hàng ngày của tôi. Nhớ đến ý nghĩa sâu xa hơn về đời sống và về cái chết là một phần tự nhiên của sự sống, tôi đã trở nên kiên nhẫn hơn, mạnh mẽ hơn, và thương yêu nhiều hơn. Tôi cũng cảm thấy trách nhiệm nhiều hơn về những hành động của tôi, sự tiêu cực cũng như cao thượng. Tôi biết sẽ phải trả giá. Cái gì trở thành thói quen sẽ biến đổi chính mình thành người khác (gieo gì gặt nấy).

Tôi vẫn còn viết những bài khoa học, thuyết giảng tại các cuộc họp chuyên nghiệp và trông nom Viện Tâm Thần. Nhưng bây giờ tôi đứng giữa hai thế giới : một thế giới hiện tượng của năm giác quan, tượng trưng bởi thân xác và nhu cầu vật chất ;và thế giới vĩ đại hơn của những bình diện phi vật chất, tượng trưng bởi linh hồn và tâm linh. Tôi biết rằng những thế giới này kết nối với nhau, và tất cả là năng lượng. Tuy chúng thường có vẻ rất xa nhau. Công việc của tôi là liên kết các thế giới, chứng minh bằng tài liệu một cách thận trọng và khoa học tính đồng nhất của các thế giới ấy.

Gia đình tôi hưng thịnh. Carole và Amy hóa ra là có khả năng tâm linh cao hơn mức thường, và chúng tôi vui đùa khuyến khích sự phát triển hơn nữa về những kỹ năng này. Jordan trở thành một thiếu niên mạnh mẽ và uy tín, một nhà lãnh đạo tự nhiên. Cuối cùng tôi trở thành ít nghiêm nghị hơn. Và đôi khi tôi có những giấc mơ bất thường.

Trong thời gian vài tháng sau buổi thôi miên cuối cùng của Catherine, một khuynh hướng khác thường xuất hiện trong lúc tôi ngủ. Đôi khi tôi có một giấc mơ sống động, trong đó tôi hoặc đang nghe một bài giảng hoặc đặt câu hỏi cho thuyết trình viên. Thầy trong giấc mơ tên là Philo. Khi tỉnh dạy, đôi khi tôi nhớ được một số tư liệu đã được bàn thảo và ghi nhanh lại. Tôi kèm theo đây một vài thí dụ. Đầu tiên là một bài thuyết trình, và tôi nhận ra ảnh hưởng của các thông điệp từ các Bậc Thầy.

"... Trí tuệ được hoàn tất rất chậm. Đó là vì kiến thức trí tuệ, dễ dàng đạt được, phải biến đổi thành kiến thức ‘xúc cảm’, hay tiềm thức. Một khi được biến đổi, dấu ấn đó không phai mờ. Thực hành ứng xử là chất xúc tác cần thiết của phản ứng này. Không hành động, khái niệm này sẽ tàn úa và phai mờ. Có kiến thức về mặt lý thuyết mà không có sự áp dụng thực tiễn thì không đủ.

"Ngày nay quân bình và hòa hợp bị sao lãng, tuy vậy chúng là nền móng của sự thông thái. Mọi thứ đã bị làm thái quá. Con người quá nặng cân vì họ ăn thái quá. Những người chạy để rèn luyện thân thể bỏ bê những khía cạnh của chính họ và những người khác vì họ chạy thái quá. Con người dường như xấu thái quá. Họ uống quá nhiều, hút thuốc quá nhiều, chè chén quá nhiều (hay quá ít) , nói quá nhiều mà không có nội dung, lo lắng quá nhiều. Có quá nhiều suy nghĩ tương phản. Quá tả hoặc quá hữu. Đó không phải là cung cách của thiên nhiên.

"Trong thiên nhiên có sự quân bình. Muông thú phá hoại với số lượng nhỏ. Hệ thống sinh thái không bị loại bỏ ồ ạt. Cây cối bị thiêu đốt và rồi lại mọc. Các nguồn gốc dinh dưỡng bị hạ xuống và rồi lại được làm đầy. Hoa thì có lợi ích, trái cây thì được ăn, và rễ được gìn giữ.

"Nhân loại không học về quân bình, cứ đơn độc thực hành. Quân bình bị hướng dẫn bởi tham lam và khát vọng, bị lèo lái bởi sợ hãi. Theo con đường này, cuối cùng nhân loại sẽ tự hủy hoại chính mình. Nhưng thiên nhiên sẽ sống sót; ít nhất là cây cối.

"Hạnh phúc thực ra gốc rễ ở bình dị. Khuynh hướng thái quá trong tư tưởng và hành động giảm thiểu hạnh phúc. Thái quá làm lu mờ các giá trị căn bản. Người mộ đạo bảo chúng ta rằng hạnh phúc là kết quả làm tràn đầy tim ta bằng tình thương yêu của niềm tin và hy vọng, của việc thực hành lòng nhân từ và chia sẻ lòng tốt. Những thứ đó thật rất đúng. Có những thái độ này, quân bình và hòa hợp thường sẽ đến. Nói chung đây là tình trạng của thể sống. Trong những ngày này, chúng là tình trạng thay đổi của ý thức. Dường như thể là nhân loại không ở trong tình trạng tự nhiên của nó trong khi ở trên trái đất. Nó phải tiến tới một tình trạng thay đổi nhằm chứa đầy tình thương yêu, nhân từ và bình dị, để cảm thấy trong sạch, để loại bỏ sự sợ hãi thâm căn cố đế của nó.

"Làm sao ta tiến tới trạng thái thay đổi này, hệ thống giá trị khác này? Và một khi ta tiến tới, làm sao ta có thể giữ vững nó được? Câu trả lời dường như đơn giản. Nó là mẫu số chung của hết thẩy tôn giáo. Nhân loại là bất tử, và cái chúng ta đang làm bây giờ là học những bài học của chúng ta. Chúng ta đều ở trong trường học. Thật quá đơn giản nếu bạn tin vào sự bất tử.

"Nếu một phần của nhân loại là bất diệt, và có nhiều bằng chứng và lịch sử để nghĩ như vậy, thì tại sao chúng ta lại làm những điều xấu xa cho chúng ta? Tại sao chúng ta giẫm lên người khác vì "lợi lộc" cá nhân khi thực tế là chúng ta đang làm bài hỏng? Rốt cuộc chúng ta dường như đều đang đi tới cùng một chỗ mặc dù ở tốc độ khác nhau. Không ai vĩ đại hơn ai.

"Hãy xem xét những bài học. Về mặt trí tuệ câu trả lời luôn luôn đã ở đấy, sự cần thiết phải biến thành hiện thực, bằng kinh nghiệm, làm cho tiềm thức in dấu vĩnh viễn bằng cách "xúc cảm hóa" và thực hành quan niệm này, là chìa khóa. Chỉ nhớ đến việc nghe thuyết giảng giáo lý cũng không đủ tốt. Lời nói cửa miệng mà không có cách ứng xử chẳng có giá trị gì. Đọc hay nói về tình thương yêu, nhân từ và niềm tin thì dễ. Nhưng để làm điều đó, cảm thấy điều đó hầu như đòi hỏi một trạng thái thay đổi ý thức. Không phải trạng thái tạm thời gây ra bởi ma túy, rượu, hay xúc cảm bất ngờ. Đạt tới trạng thái lâu bền được tiến tới bằng kiến thức và hiểu biết. Nó được hỗ trợ bởi cách ứng xử trần thế, bởi hành động và hành vi, bởi tu tập. Lấy một thứ gì gần như huyền bí và biến đổi nó thành thói quen hàng ngày bởi rèn tập.

"Hãy hiểu rằng không ai vĩ đại hơn ai. Hãy cảm thấy điều đó. Hãy tập giúp người khác. Tất cả chúng ta đều đang chèo cùng một con thuyền. Nếu chúng ta không hòa hợp với nhau, thế đứng của chúng ta sẽ bị lẻ loi vô cùng".

"Vào một đêm khác, trong một giấc mơ khác, tôi đang hỏi câu. "Làm sao ông lại nói rằng tất cả đều bình đẳng, thế mà những mâu thuẫn rõ ràng quất vào mặt chúng ta : sự khác nhau vô tận về đức hạnh, sự điều độ, tài chính, quyền hành, khả năng và tài năng, thông minh, khả năng tính toán?"

Câu trả lời là một ẩn dụ. "Như thể là có một hạt kim cương lớn sẽ được tìm thấy ở mỗi người. Hãy hình dung viên kim cương ấy dài một foot (phút, 0.3048m). Viên kim cương ấy có một ngàn mặt, nhưng những mặt này đều bị đất và hắc ín phủ kín. Công việc của linh hồn là làm sạch từng mặt cho đến khi bề mặt sáng chói và có thể phản chiếu ánh cầu vồng nhiều mầu.

"Bây giờ, một số người đã làm sạch nhiều mặt và phát ra tia sáng rạng rỡ. Những người khác chỉ làm sạch được một số ít mặt; chúng không lấp lánh. Tuy nhiên, dưới bụi bậm, mỗi người vẫn có trong họ viên kim cương lấp lánh có ngàn mặt phát sáng. Viên kim cương này hoàn hảo, không một tỳ vết. Cái khác biệt duy nhất của mỗi người là số mặt đã được làm sạch, chứ mỗi viên kim cương đều giống nhau, và mỗi viên đều hoàn hảo.

"Khi tất cả các mặt đều được làm sạch và phát ra quang phổ, viên kim cương trở về với năng lượng tinh khiết mà nó vốn có. Những tia sáng vẫn tiếp tục. Như thể là tiến trình này làm cho viên kim cương bị đảo ngược, tất cả áp lực đều được giải thoát. Năng lượng tinh khiết hiện hữu trong cầu vồng ánh sáng, và những tia sáng có ý thức và kiến thức.

"Và tất cả những viên kim cương đều hoàn hảo"

Đôi khi những câu hỏi thì phức tạp và những câu trả lời lại đơn giản.

"Tôi sẽ phải làm gì?" Tôi đang hỏi trong một giấc mơ. "Tôi biết tôi có thể trị bệnh và chữa chạy cho người bị đau. Quá nhiều người đến với tôi, vượt quá mức tôi có thể điều hành. Tôi quá mệt. Tuy nhiên tôi có thể nói không khi họ rất cần và tôi có thể giúp họ không? Có quyền nói ,"Không đủ rồi" không?

" Vai trò của bạn không phải là người cứu đắm", đó là câu trả lời.

Thí dụ cuối cùng tôi kể ra là một thông điệp gửi đến các bác sĩ tâm thần. Tôi tỉnh dạy vào khoảng sáu giờ sáng sau một giấc mơ, trong giấc mơ này, tôi được thuyết trình cho một cử tọa đông đảo các chuyên gia tâm thần học.

"Trong việc chạy đua vào việc nội khoa hóa bệnh tâm thần, điều quan trọng là chúng ta không bỏ những giáo huấn truyền thống mặc dù đôi khi mơ hồ trong nghề nghiệp của chúng ta. Chúng ta là những người vẫn nói với bệnh nhân một cách kiên nhẫn và bằng lòng nhân từ. Chúng ta vẫn bỏ thì giờ làm việc ấy. Chúng tôi đẩy mạnh quan niệm hiểu biết về bệnh, cách chữa bệnh bằng hiểu biết và sự khám phá đầy thuyết phục về sự tự biết mình, hơn là chỉ với những tia laser. Chúng ta vẫn sử dụng niềm hy vọng để chữa trị.

Trong ngày nay, những ngành y khoa khác thấy những phương pháp truyền thống về việc chữa trị, quá không hiệu quả, mất thì giờ và vô căn cứ. Họ thích kỹ thuật hơn là nói chuyện, thay máu bằng máy tính hơn là cấu trúc cá nhân thầy thuốc - bệnh nhân, những cái đó giúp bệnh nhân khỏi bệnh và làm thỏa mãn bác sĩ. Những phương pháp đáng hài lòng về mặt cá nhân có lý tưởng và đạo đức về y khoa không còn đứng vững trước những phương pháp kinh tế, có năng xuất, có tính biệt lập và phá hoại. Kết quả là các đồng nghiệp của chúng ta cảm thấy ngày càng bị cô lập và thất vọng. Bệnh nhân cảm thấy bị xô đẩy và trống rỗng, không được săn sóc.

Chúng ta nên tránh bị mê hoặc bởi kỹ thuật cao. Đúng hơn, chúng ta nên có vai trò kiểu mẫu cho các đồng nghiệp. Chúng ta phải có cách biểu thị lòng kiên nhẫn, hiểu biết và tình thương để giúp cả hai bệnh nhân và thầy thuốc. Bỏ nhiều thì giờ hơn để nói chuyện, dạy dỗ và, khơi dậy niềm hy vọng và lòng mong muốn khỏi bệnh - những đức tính phần nửa bị bỏ quên này của các thầy thuốc với tư cách là người chữa bệnh - những thứ này luôn luôn phải được chính chúng ta sử dụng và làm gương cho các thầy thuốc đồng nghiệp.

"Kỹ thuật cao thật tuyệt vời trong nghiên cứu và thúc đẩy sự hiệu biết về ốm đau và bệnh tật của con người. Nó có thể là một công cụ chữa bệnh vô giá, nhưng nó không bao giờ có thể thay thế được những đặc tính cá nhân cố hữu và các phương pháp của một thầy thuốc chân chính. Chữa bệnh tâm thần có thể là một chuyên khoa cao quý nhất trong các chuyên môn y khoa. Chúng ta là những thầy giáo. Chúng ta không nên bỏ vai trò này vì lợi ích trong quá trình hấp thụ, nhất là không phải lúc này".

"Tôi vẫn còn những giấc mơ như vậy, mặc dù chỉ một đôi khi. Thường thường trong lúc trầm ngâm, hay đôi khi trong lúc lái xe trên xa lộ cao tốc, hay cả lúc mơ màng ban ngày, những câu, những tư tưởng và ảo giác bật ra trong tâm trí tôi. Những cái này thường khác hẳn cách suy nghĩ thường lệ có ý thức hay hình thành quan niệm của tôi. Chúng thường đến rất đúng lúc, và giải quyết những câu hỏi hay những vấn đề tôi đang có. Tôi dùng chúng trong việc chữa trị và trong đời sống hàng ngày. Tôi coi những hiện tượng này là sự mở rộng khả năng trực giác của tôi, và tôi phấn khởi bởi chúng. Với tôi, chúng là những dấu hiệu là tôi đi đúng hướng, dù rằng tôi còn con đường dài phải đi.

Tôi nghe theo những giấc mơ và trực giác của tôi. Khi tôi nghe theo sự việc dường như suông sẻ. Khi tôi không nghe theo, một cái gì đó luôn chệch choạc.

Tôi vẫn cảm thấy các Bậc Thầy ở chung quanh tôi. Tôi không biết chắc chắn liệu những giấc mơ và trực giác của tôi có bị ảnh hưởng bởi các ngài không, nhưng tôi nghi là vậy.
PHẦN KẾT

Cuốn sách này được hoàn thành, nhưng câu chuyện tiếp tục. Catherine hết bệnh, không có triệu chứng căn nguyên nào trở lại. Tôi rất thận trọng về thôi miên lùi về dĩ vãng với những bệnh nhân khác. Tôi đi theo nhóm bệnh nhân có triệu chứng đặc biệt hay nhóm khó điều trị đối với cách điều trị khác, theo khả năng dễ dàng thôi miên, theo sự cởi mở của bệnh nhân đối với phương pháp này, và theo về phần tôi cảm nghĩ trực giác là con đường mà tôi chọn. Từ Catherine, tôi đã thực hiện rất chi tiết những cuộc thôi miên lùi về nhiều kiếp với nhiều bệnh nhân. Không một người nào trong số này bị loạn tinh thần, bị ảo giác hay có nhiều cá tính. Tất cả đều khá hẳn lên.

Mười hai bệnh nhân có tiểu sử và cá tính khác hẳn nhau. Một bà nội trợ người Do Thái ở Miami Beach nhớ rõ bà đã bị hiếp bởi một toán lính La Mã ở Palestine ít lâu sau cái chết của Jesus. Bà cai quản một nhà chứa ở thế kỷ thứ mười chín tại New Orleans, sống trong một tu viện ở Pháp vào thời Trung Cổ, và có một đời sống khó khăn là người Nhật. Bà là người duy nhất trong số các bệnh nhân trừ Catherine đã có thể truyền đạt các thông điệp trở lại từ trạng thái giữa bên này bên kia. Thông điệp của bà cực kỳ tâm linh. Bà cũng biết những sự việc và sự kiện về quá khứ của tôi. Bà còn có khả năng đoán đúng các sự kiện tương lai. Những thông điệp này bắt nguồn từ một thần linh đặc biệt, và hiện nay tôi đang thận trọng sưu tập những buổi thôi miên với bà. Tôi vẫn là một khoa học gia. Tất cả những tài liệu của bà phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá và công nhận có giá trị.

Những bệnh nhân khác không thể nhớ lại nhiều ở bên kia lúc chết, rời bỏ thân xác, và lơ lửng trôi đến ánh sáng chói. Không một ai có thể truyền đạt lại thông điệp hay tư tưởng cho tôi. Nhưng tất cả đều có ký ức sống động về tiền kiếp. Một người buôn bán cổ phần tài giỏi có một cuộc sống khá giả nhưng buồn chán ở Victorian Anh Quốc. Một nghệ sĩ bị hành hạ trong thời kỳ dị giáo ở Tây Ban Nha. Một chủ nhà hàng ăn không thể lái xe qua cầu hay qua hầm vì nhớ lại đã bị chôn sống trong nền văn minh Cận Đông. Một thầy thuốc trẻ nhớ lại chấn thương tại biển cả, khi ông ta là cướp biển. Một ủy viên ban quan trị đài truyền hình bị hành hạ sáu trăm năm trước tại Florence. Danh sách các bệnh nhân tiếp tục.

Những người này vẫn nhớ được những kiếp sống khác. Các triệu chứng được giải quyết khi những kiếp sống được phơi bầy. Bây giờ mỗi người tin chắc mình đã sống trước đây và sẽ sống nữa. Sự sợ hãi về cái chết của họ giảm thiểu.

Không nhất thiết là mọi người phải chữa bệnh bằng thôi miên lùi về dĩ vãng hay đi gặp các ông đồng bà cốt hay cả đến thiền hành. Những ai có những triệu chứng bất lực hay khó chịu có thể quyết định làm như vậy. Phần còn lại, cởi mở là nhiệm vụ quan trọng nhất. Hãy hiểu rằng đời sống còn nhiều hơn những cái mắt nhìn thấy. Đời sống vượt qua năm giác quan của chúng ta. Hãy tiếp nhận kiến thức mới và kinh nghiệm mới. "Nhiệm vụ của chúng ta là học, trở thành thánh thiện nhờ kiến thức."

Tôi không còn quan ngại về tác động của cuốn sách này tới nghề nghiệp của tôi. Tin tức mà tôi chia sẻ quan trọng nhiều hơn, và nếu được chú ý, thì sẽ lợi ích nhiều cho thế giới hơn bất cứ thứ gì tôi có thể làm được trên cơ sở cá nhân trong phòng mạch của tôi.

Tôi hy vọng rằng bạn sẽ được giúp đỡ bởi những gì bạn đã đọc tại đây, là sự sợ hãi của chính bạn về cái chết đã được giảm thiểu, và những thông điệp hiến dâng cho bạn ý nghĩa thực sự về sự sống sẽ giải thoát bạn để bạn bắt đầu sống với ý nghĩa đầy đủ nhất, tìm được hòa hợp và an lạc nội tâm và đem tình thương yêu đến người đồng loại.

HẾT
Chào Quý Thầy và các bạn ,

Những gì muốn biết , và muốn nói , thì đã trình bày rỏ ràng , xin hảy đọc kỷ lại và tự suy ngẩm sâu xa ....sẽ nghiệm thấy điều hay ....mà rất ít tài liệu nào nói về những vấn đề nầy một cách rỏ ràng , chi tiết và tương đối đầy đủ ..... Đa số chỉ nói một cách mơ hồ hoặc đưa đến cùng một kết luận , nhưng với một cách trình bày đánh trống lảng , trả lời mà không phải trả lời , hay đưa kết luận vào một niềm tin mà không thể kiểm chứng được .
Còn những tài liệu và sách vở theo luận chứng thông thường về luân hồi , tái sinh , tiền kiếp .....nếu ta có muốn đăng lên thì không biết bao giờ mới hết , nhiều vô cùng ....vì nó tích chứa từ xưa đến nay , có đến hàng tấn , tấn ....đều cùng một luận chứng như nhau ; Những luận chứng nầy đưa con người vào những hỏa mù không kiểm chứng được , hay đánh trống lảng hoặc thăng hoa đưa tâm linh con người lên một khung trời không tưởng nào đó ...
Vì những luận chứng nầy không giải thích được , như linh hồn làm thế nào để nhập vào bào thai , linh hồn nhập vào lúc thai nhi còn trong bụng mẹ hay nhậ̣p vào khi đã được sinh ra , con người khi chết , thể xác tan ra trở về tứ đại , nhưng linh hồn sao không nhập trở lại đầy đủ ký ức được , như kinh điển từng cho biết : con người cởi bỏ xác thân như ta thay chiếc áo mới , nhưng khi ta lấy xác thân mới thì ta lại hoàn toàn là một người khác và ta không biết ta là ta , những chứng minh về những trường hợp tái sinh trong sách vở , chỉ xảy ra lẻ tẻ và không được trình bày hoàn hảo , như những người nầy chỉ trình bày về những hồi ức về tình cảm và thói quen trong kiếp trước , mà không có trình bày về những sự nghiệp, kinh nghiệm cùng kiến thức được trở lại , để giúp cho gia đình và xả hội , cũng như ma quỷ , toàn là hiện lên để nhát người hay phá hoại thì là đa số ....đều nầy chứng tỏ , nảo bộ của những người nầy chỉ thu nhận được những mảnh vụn bức xạ tàn dư bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh cuả người đã chết trước đó về tình cảm hay hạ trí mà thôi ...và sự nhớ lại kiếp trước nầy không được công bằng cho tất cả mọi người ....Còn thôi miên chỉ có ích , khi cởi bỏ những uất ức dồn nén , hay những ảo ảnh trong tâm nảo con bệnh để trị liệu , còn về Past life regression , nhớ lại kiếp trước , chỉ ghi nhận lại những sự tái hiện lại những mảnh ký ức , mà không chứng minh được bộ nảo làm cách nào có thể có được những thông tin nầy , và những mảnh thông tin nầy đến từ đâu , còn nếu nói khơi khơi , là đến từ kiếp trước ....., thì vấn đề nầy ai nói cũng được ... Cũng như vấn đề ma nhập , thì con ma làm cách nào nhập vào con người và nó ở nơi nào của nảo bộ , con ma làm cách nào để đều khiển trí nảo , lời nói cùng cơ thể của người bị ma nhập và khi các Thầy cao tay ấn khi trục nó ra , thì con ma ra thế nào , tại sao thần trí của con người , phải chịu sự áp chế của con ma , mà không thể biểu lộ chủ quyền của mình đối với cơ thể mình ; ngay cả đến khi các Vị Thầy cao tay ấn chết đi , thì với một tài năng về huyền thuật cao như vậy , mà không thể tái sinh trở lại với đầy đủ khả năng huyền thuật của mình , mà phải bỏ mặc cho âm binh và chư vị Thần Linh đồng môn phải thăng về chốn củ , hoặc thần thức của các Thầy không linh thiêng để phù trợ cho gia đình hay con cháu của mình trong cuộc sống .....Nếu con người tìm ra được giải đáp cùng những kỷ thuật nầy và khoa học nầy được dạy trong trường học cho mọi người , thì văn minh con người sẻ có một bức tiến nhảy vọt và một nền văn hóa mới cùng tín ngưỡng của con người về tâm linh sẽ được cũng cố và hoàn hảo, cập nhật hóa hơn ; Nếu muốn phê bình về sự công bằng hay hai bênh vực cho những điều dạy trong kinh điển và niềm tin hiện tại , thì quá dể dàng , nào là vì nhân quả , nào là kiếp trước làm ác , kiếp nầy trả quả , nhớ lại kiếp trước là một đại họa cho con người , vì kiếp nầy những rắc rối cuộc đời không đủ hay sao , mà còn muốn nhớ lại kiếp trước ..., oán oán tương tranh , hà thời liểu , hoặc dể nhất là chụp cho một cái mũ phản động lại niềm tin chung của đại chúng là tự treo cổ mình , nếu có như thế thì kiếp sau đầu thai làm sẽ làm ngạ quỷ súc sanh ...Ôi sao ghê quá ..quá ....Chắc phải chạy theo số đông là chắc ăn nhất , mà còn được sôi oẳn để mà sống qua ngày hay còn có dịp may để công hầu khanh tướng ....
Thật ra hiện nay , người ác đầy rẩy , quyền uy , tiền tài , pháp thuật , thần thông , giang hồ cao thủ , ma thuật hắc phái nhiều vô số kể...thế nhưng tại sao , đa số xả hội vẩn sống trong một trật tự an lạc và con người vẩn được hưởng những lợi ích căn bản của mình trong một kiếp người .....Đó không phải là tạo hoá có lỵ́ do của nó ...như kinh dịch nói lấy hữu dư , bổ bất túc , vật cực tắc phản hay sao ...và nguyên tố quan trọng nhất vẩn là con người , con người tự tạo cho mình hạnh phúc thiên đàng hay địa ngục , là tự mình tự đeo vòng bông đẹp cho mình và mọi người hay tự đeo thòng lọng cho mình
Hảy đi , rồi sẽ đến...
Hảy gỏ cửa cửa , cửa sẽ mở ...
Vén bức màn nầy lên , thì kho tàng vàng bạc đầy ắp , vén bức màn kia lên , thì kim cương sáng chói , vô số bức màn che đi ánh sáng cùng kho tàng quí báo của nhân loại .....
Con người muốn vén những bức màn nầy lên nhanh hay chậm là do con người quyết định , không Thần Thánh nào cỏng họ đi được .....Mà Thần Thánh chỉ khải thí cho con người bằng cách nầy hay bằng cách khác mà thôi ....
Xin lổi Quý Thầy cùng các bạn , vì khi đưa bài lên trong bài có kèm hai đồ hình , nhưng không biết tại sao hai hình bị mất đi , có nhắn tin cho Thầy Hùng Sơn , xin email để gởi lại hai bức hình , nhưng có lẻ Thầy Hùng Sơn vì gần Tết nên Thầy mắc bận , nên chưa nhận được hồi âm ; Nếu Quý Thầy cùng các bạn cần xem hai đồ hình thì chờ khi nào Thầy Hùng Sơn rảnh , sẽ giúp đưa hai bức đồ hình đơn giản nầy lên để mọi người cùng tham khảo...Còn nếu mọi người im lặng , thì có nghĩa là bỏ qua đi tám , thì cũng vui vẽ cả nhà .
Bài viết nầy có tính cách tham khảo và cầu học sâu thêm cho vấn đề sáng tỏ , cùng tạo lợi ích cho toàn thể con người tiến bộ ; nếu có gì sơ sót và vô ý phạm tội ...xin mọi người vui lòng chỉ bảo .....
Xin Thầy Hùng Sơn kiểm duyệt , nếu có đoạn nào không thích hợp hay sai , xin tự tiện xóa bỏ , ngu đệ hoàn toàn vui vẽ ...vì mục đích bài viết đã nêu rỏ tôn chỉ của nó như đã trình bày .
Ngu Đệ
ÁNH SÁNG T2
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:41 am

Kính gửi huynh AnhSang T2 .

Tại hạ đang định hỏi huynh tại sao không post 2 bức đồ hình lên thì nay lại được huynh nói đã gửi cho tại hạ rồi, làm tại hạ đi tìm mỏi mắt ở trong tất cả các email mà không thấy. Chắc có lẽ trục trặc kỹ thuật rồi. vậy xin huynh gửi ngay cho tại hạ 2 bức đồ hình đó nhé. Email của tại hạ là dvs1942@yahoo.com .
Còn vụ xoá đi bài của huynh thì một chữ tại hạ cũng không dám vì đã nói trước rồi. Dù giả thuyết của huynh đúng hay sai thì đây cũng là một bài học cho tại hạ học hỏi cơ mà.

Đúng hay sai đâu có phải là vấn đề, mà sự thành tâm học hỏi để tìm ra chân lý của cuộc sống mới là điều đáng nói phải không huynh .

thân ái
Hùng Sơn
Chào huynh AST2, mình rất thích đọc bài của huynh viết. Bài có giá trị thực tiển cho những người muốn tìm hiểu sâu mọi vấn đề về huyền bí.
Càng thực tiển hơn cho những người có đầu óc khoa học hiện đại. Mình cũng là người duy vật và dùng khoa học để phân tích, nhưng mình cũng chưa dám nói gì về vấn đề nầy vì còn nhiều vấn đề khúc mắc và ẩn dấu bên trong.
Những sự bí mật chưa được công khai, nhưng dùng được do các vị thầy tổ của huyền thuật đã khám phá ra. Cũng giống như chúng ta khi bị bệnh gì thì uống thuốc nấy. Nếu có người nhờ chúng ta điều chế loại thuốc đó thì mình đành bó tay.
Muốn chế thuốc phải cần chuyên gia chế thuốc, muốn chế chữ bùa câu chú phải cần chuyên gia huyền thuật (các vị tổ của huyền thuật). Muốn hiểu rõ phải đi tìm gốc từ đâu mà có, khi đã tìm được nguồn gốc và công thức thì mọi chuyện coi như sáng tỏ.

Khi học khoa học hầu như ai cũng biết "định luật bảo tồn năng lượng", năng lượng sẽ không mất đi mà biến thành một dạng khác, các chữ bùa cùng câu chú có thể là dụng cụ để biến dạng năng lượng nầy thành dạng năng lượng khác. Huynh có nghĩ thế không???
Mình đang đi tìm vấn đề nầy, nhưng khó là mình không biết gì về huyền thuật, mà muốn hiểu rõ thì phải dấn thân vào học hỏi bùa chú thật sự mới có thể khám phá ra. Mình đang do dự không biết có nên học hay không, vì mình biết năng lực của bùa chú không phải chuyện giỡn chơi, huyền thuật là một vấn đề lớn của nhân loại cần tìm hiểu rõ ràng. Nếu hiểu và biết công thức minh bạch giống như khoa học ngày nay thì có thể nhân loại sẽ tiến lên thêm một bước nữa trong nền văn minh. (Mình nhát gan chưa dám hy sinh vì đại nghĩa...hì hì hì...)

Các vị thầy ở trong website nầy đang giữ một phần lớn bí mật của nhân loại. Các thầy đang đem bí mật đó tiết lộ phần nào, không giữ làm của riêng, thật là khả kính khả quý. Do đó mình rất tôn trọng.

Vấn đề con người sau khi chết đi còn tồn tại hay không ??? Mình cũng không biết, đang còn tìm hiểu vấn đề nầy. Nhưng mình tin rằng có (vì hy vọng nó có tồn tại) vì cũng chưa ai chứng minh rằng nó không có (AST2 đang chứng minh nó không tồn tại).

Có bao giờ AST2 quan sát con sâu sau khi làm kén và hóa kiếp thành con bướm chưa ??? Khi đã trở thành con bướm rồi, con bướm có thể nói chuyện mà con sâu hiểu không? Liệu con sâu có chấp nhận con bướm là con sâu trước khi hóa kiếp không? Ðiều khác biệt nữa là con sâu bò mà trong khi đó con bướm thì bay!!!! Con sâu có lẻ không chấp nhận được con bướm chính là con sâu trước kia. Và con bướm cũng không thể nào quay trở về hình dạng của con sâu được hết.

Một người chết đi sẻ biến thành một dạng khác, đi tìm cái giống con ngưởi khi còn sống sẽ không thể tìm được. Có thể ngôn ngữ cũng khác, hành động cũng khác. Mình đanh tìm hiểu hình dạng khác nầy. Theo mình hiểu thì huynh hình như muốn tìm dạng giống in như khi chưa chết và phải thông hiểu dễ dàng. Chuyện nầy mình nghĩ không thể thành công, và khi không thấy được dạng như vậy huynh kết luận là không có sự tồn tại sau khi chết.
Nếu nó giống y khuông con người khi còn sống thì nó là con người rồi, theo mình nghĩ đường hướng của huynh tìm hiểu phạm vi hơi bị thâu hẹp trong một giới hạn nhất định nào đó. Với sự thônh minh của huynh nếu chịu mở rộng cánh cửa tìm hiểu của mình ra nữa thì huynh sẽ đạt được sự thành công rất lớn.
Chúc huynh sớm đạt thành ước nguyện.
_________________
ngao du đây đó
Chào Thầy Hùng Sơn,
Đệ vừa gởi email hai bức đồ hình cho Thầy nếu nhận được , nhờ đưa lên cho mọi người tham khảo thêm cho rỏ ràng .
Hoan Hô tinh thần tự do dân chủ và khai phóng của Thầy , trình độ ý thức của Thầy khá cao , nên không đi theo những bánh xe đổ của những mạng lưới tâm linh khác , đã làm cho những vị cao kiến và kinh nghiệm phải lánh xa , để lại cho diển đàn của họ toàn là những bài nhạt nhẻo và không thực dụng ....người ta có thể tìm đọc những bài nầy ở tất cả mọi nơi mà không cần tốn công khó nhọc .
Bất kể mèo trắng hay mèo đen , miểm bắt được chuột là mèo giỏi ; Chân lý có hai mặt , như hai mặt của đồng tiền , để tạo giá trị mậu dịch cho nền kinh tế phồn thịnh....
Nhất là khoa học Tâm linh huyền bí , cần gạt ra tất cả những định kiến của xả hội và cá nhân , vì lợi ích chung của nhân loại , mà dủng cảm tiến bước và khai phá ......
Chúng ta có được đất dụng võ của giới huyền thuật này nay , là nhờ thực thi tinh thần vô úy - Bi , Trí , Dủng và Bác Ái đó ....
Dạo nầy , đệ thường rêu rao trên các diển đàn tôn giáo trên Paltalk , là hiện nay , trong giới người Việt trên toàn thế giới trang website THẾ GIỚI BÙA NGẢI.COM của Thầy Hùng Sơn là một trang web về tâm linh cởi mở và chuyên môn nhất , rất đáng cho mọi người vào tìm hiểu, tham khảo và học hỏi , nếu những trang tôn giáo hiển giáo ở paltalk không đáp ứng được nhu cầu tu tập , tìm hiểu , học hỏi và thực hành cũa mọi căn cơ thì website THẾ GIỚI BÙA NGẢI.COM của Thầy Hùng Sơn là nơi duy nhất để mọi người nên vào .
Với hùng tâm và thiện ý cộng thêm tài kinh bang tế thế của Võ Lâm Minh Chủ Hùng Sơn cộng thêm các Thầy cùng các bậc cao nhân ẩn sỉ ...thì ngôi đền thiêng liêng nầy nay đã trở thành nơi đất lành chim đậu , nơi hội tụ của các bậc thiên tài của hai phái , tạo cơ hội cho các vị nầy có dịp thử thách và chọn lựa đệ tử tốt để truyền nghề và giúp đời .
Nếu Thầy Hùng Sơn tạo được cơ duyên , hy vọng Thầy sẻ tạo ra thêm một room trên paltalk , chuyên đề về lấy tên là THẢO LUẬN THẾGIỚI BÙA NGẢI hay là THẢO LUẬN VỀ TÂM LINH , đầu tiên chọn lấy một ngày nào đó trong tuần , thí dụ như sáng chủ nhật , hẹn mọi người vào đó sinh hoạt thì hay biết mấy , giống như HOA SƠN LUẬN KIẾM thì thú vị biết mấy .....nếu thành công thì room nầy là nơi phổ biến khoa học huyền bí cho mọi người , hầu phá tan định kiến xấu hay những thành kiến sai lầm về bùa ngải trong dân gian , một mặt phổ biến những kiến giải hợp lý và khoa học để phá tan mê tín dị đoan hay lừa gạt người dân của những vị vì vô minh mà làm ô danh của giới Huyền học . Mặt khác , nơi đây sẻ là nơi túc trực thường xuyên để các Thầy có thể sẳn sàng dùng Huyền Học thực tài của mình hầu giải cứu cho những người vô tình đi lạc vào thế giới tà vại hoặc chữa bệnh cho bệnh nhân , khi y học hiện đại thúc thủ , vô phương cứu chửa cho họ.
Vì hiện nay , nhu cầu tâm linh thực hành rất cần thiết cho xả hội vật chất ngày nay , mà các room tôn giáo hiển giáo không đáp ứng nổi ; mổi ngày hảy nhìn và số người tham dự là biết rỏ .......còn nếu có ai hỏi những thắc mắc sâu hơn và thiết thực hơn , thì giải đáp chung chung hay trả lời như không có trả lời ....hoặc bị chụp mũ là phá room , tà đạo hay người hỏi bị tẩu hỏa nhập ma ....v..v....
Vì tương lai và tiền đồ sanh linh , đồng bào ruột thịt , mong Thầy hảy nhanh tiến hành việc nầy thì công đức vô lượng .....
Lành thay ...Lành thay .........
huynh ANHSANG T2 quí mến .

Đồ hình đã đưa lên rồi.

Chân thành cám ơn những lời khen tặng của huynh. Nếu tại hạ không nhận thì cho là khách sáo và . . . "thích thấy mẹ còn làm bộ" !

Nhưng nếu nhận đại chằng hoá ra là . . . . "cái thằng cà chớn. Người ta nói vậy mà không phải vậy đâu " !

Đằng nào cũng chết, quả là "độc chiêu". Xin bái phục. . . bái phục. Nhưng dù bái phục thì bái phục, chứ tại hạ vẫn chưa đồng ý với những gì huynh đưa ra đâu. Xin để xét lại nhé.



thân ái
Hùng Sơn
Chào Thầy Hùng Sơn ,
Thật sự , càng thức đêm càng biết Thầy thật là cao thủ trong thiên hạ ; Thầy khôn khéo vô cùng ; đệ đâu có ép dầu ép mở , ai nở ép Thầy chấp nhận lấy ai đâu ? mà Thầy Thanh Minh , Thanh Nga dử vậy !; Tội lổi , tội lổi ....cho đệ lắm ; đệ viết là để bà con đọc cho vui vẽ nhà cửa , ra vô cho nhộn nhịp ngôi cao ốc Thế Giới Bùa Ngải thêm nhiều dương khí , âm dương đều hòa , là nơi địa linh nhân kiệt dủng xuất mà ....
Thầy hạ độc chiêu , dương đông kích tây , kích tướng pháp , kéo liên minh vào để tiêu diệt vô minh , xa luân chiến để chờ mặt trời chân lý ló dạng , mang vầng dương để xua tan bóng tối và sưởi ấm cái lạnh trong tâm linh mờ mịch của con người ....
Nếu như thường tình , thì vở hát nầy đã kéo màn vản hát từ khuya ; nhưng nhờ tuyệt chiêu của Thầy tung ra xác minh 100 % hoàn toàn không đồng ý với đệ , Thầy mở hội vườn đào và kéo cả thế giới vào để đưa đệ lên bàn mổ , làm đệ teo thấy mẹ ......không biết làm sao có đủ thì giờ để ôm cột vừa run vừa trả lời , lở xẩy tay buông cột là té ngả chết ngắt ...chắc kiếp sau sanh lên làm cái con ĐẠO KHẢ ĐẠO PHI THƯỜNG ĐẠO quá ....còn kiếp nầy chắc phải thủ bút viết lại bộ chuyện 1001 đêm , mê ly , cụp lạc và phải viết hoài .....vì nếu thấy đệ không còn viết nữa , thì cái lầy ngộ , chắc xí lắc léo , không còn mong chi sống.... , chắc ngộ phải theo ông theo bà nội dồi ....bỏ lại một bầy khỉ nhỏ ai ....nuôi ........hic...hic....
Mong Thầy phù hộ cho đệ được phước như đông hải , thọ tỉ nam sơn , thì đệ mới mong hoàn tất sứ mạng thiêng liêng , mà Thầy đã pháp ấn nhản tàng giao phó ; vậy đệ xin tam bộ nhất bái , phụng hành .... cấp cấp như luật lệnh ....
AS-T2 .

Chào Huynh Talkative ,
Khi đệ viết bài trả lời lần trước cho Thầy Hùng Sơn , sau đó vừa đệ mới vừa viết được hai trang có nội dung gồm những thông tin có giá trị , để trả lời cho Huynh về những vấn đề mà Huynh có nêu lên , nhưng bất ngờ một chuyện quái dị xảy ra , là đệ đang gỏ máy , nhà không có cúp điện , mà tự động máy vi tính của đệ bị tắt máy , và khi boot- up trở lại , thì máy bị hư system files bị mất , cần phải re install lại , không biết có bị internet spy hay terrorist theo dỏi quấy phá hay không ? dù sao những việc kỳ lạ nầy xảy ra , cũng là những việc bình thường , của những lực lượng bóng tối thường quấy phá đệ đấy , đệ đã quen rồi , và thường cám ơn họ , vì nhờ họ mà đệ có được những tiến bộ trong tâm linh như ngày nay ....
Nay , đệ tạm thông tin cho Huynh biết , là nhờ ở nhà đệ có máy vi tính thứ hai ở hậu phương tiếp viện ....Khi có thời giờ , đệ sẽ hầu chuyện cùng Huynh , về những vấn đề của Huynh nêu lên , nó cũng là những suy tư của đệ lúc còn tuổi thanh niên vậy .....sao mình chí lớn gặp nhau , và cùng một loại chí vậy ......vui thay .....
AS-T2
Chào Thầy Hùng sơn , Huynh AnhSangT2 , huynh HP va con nhieu Huynh nưả ...
Như ý kiến cuả Huynh AnhSangT2 vào diển đàn Paltalk để hô.i luâ.n và gă.p gở nhau , đê. rất vui và mong gă.p đươ.c Thầy HS và các Huynh ,
không có gì vui bằng đươ.c nghe tiếng nói va đươ.c đo.c bài viết , cho uidf vào ngồi nghe nha , chúc sức khoẽ Thầy HS và các Huynh .
uidf5959
Chào huynh AST2,
Trích dẫn:
Nay , đệ tạm thông tin cho Huynh biết , là nhờ ở nhà đệ có máy vi tính thứ hai ở hậu phương tiếp viện ....Khi có thời giờ , đệ sẽ hầu chuyện cùng Huynh , về những vấn đề của Huynh nêu lên , nó cũng là những suy tư của đệ lúc còn tuổi thanh niên vậy .....sao mình chí lớn gặp nhau , và cùng một loại chí vậy ......vui thay .....

Talkative phải gọi AST2 bằng huynh mới đúng, vì mình vừa mới qua tuổi thanh niên nên không dám để cho huynh xưng đệ !!!
Tạm thời trên room kêu sao cũng được, nhưng mình xưng saigon42 bằng bác đó.
Mình muốn tìm hiểu vì nếu có thể làm hữu ích cho nhân loại thì quý giá vô cùng...
Kiến thức của mình có hạn và năng lực cũng có hạn nên chỉ dám xem không dám bàn luận...hi hi hi...
Chúc mọi người an lạc.
_________________
ngao du đây đó
Thân gửi huynh ANHSANG T2

Oan ơi Ông Địa. . . rõ ràng là Oan Ơi Ông Địa . Tại hạ có lòng tốt quảng cáo cho những ý tưởng uyên thâm của huynh lên trang chính cho tất cả mọi người thưởng lãm thiên tải của huynh mà huynh lại cho là tại hạ kêu gọi liên minh đánh xa luân chiến. Rồi lại còn khích tướng pháp nữa mới . . . oan ơi là oan cơ chứ. Huynh thử nghĩ xem, tại hạ một điều nói "không bao giờ dám xoá một chữ nào của huynh", hai điều nói; bất cứ huynh nói gì thì cũng là những bài học cho tại hạ phải học hỏi thì . . .khích tướng ở cái chỗ nào cơ chứ !!!

Nói trước thì tại hạ cũng dưới trướng huynh. Nói sau thì tại hạ cũng dưói cơ huynh. Nhưng chỉ có mỗi một điều là tại hạ nuôi được mấy. . . "con ma". Chúng nó ở một thế giới khác, nhưng vì yêu thương tại hạ nên về ở với tại hạ ít lâu nay thì làm sao mà tại hạ đồng ý với huynh là . . . chết rồi là hết sao được.

Cũng vì vậy mà ngay lần đầu tại hạ đã nói chúng mình có thể kiếm một căn nhà nào. . . "có ma". Hai đứa thử ngủ một đêm xem có con ma nào . . .nhéo tai, bóp cổ huynh hay không . Nếu có thì nhất định huynh phải tin chết là. . . chưa hết được đâu
Nhưng huynh lại cho là các nhà huyền thuyật có thể chứng minh 2 + 2 = 5 nên tại hạ . . . thua luôn !

Vậy thì xin kết luận là . . . tại hạ bị oan ơi là oan chứ không phải thanh minh thanh nga gì đâu . . . hì hi hi

thân ái
Hùng Sơn
Chào Thầy Hùng Sơn , Huynh Talktaive và Quý Thầy , Quý Huynh cùng bạn hữu năm châu …..

Thầy Hùng Sơn thật là người vui vẽ , cởi mở và thân mến ……Đáng kính phục , mà mọi người cần gần gủi trao đổi , những kiến thức của Thầy đã có được , mà ngu đệ chưa có , nên có thể học được từ Thầy , mổi người một sở trường , muôn màu muôn sắc , mười phân vẹn mười ..….Bể học mênh mong , trong một kiếp người làm sao học hết ; do đó , mọi người cần vào đây để phân công , trao đổi kinh nghiệm và kiến thức bản thân , thì với kiến thức của vạn người , một người có thể trong một thời gian ngắn có thể thâu lượm và học hỏi , để thực hành ; như thế một người không cần tu muôn vạn kiếp như lối cổ điển để được giác ngộ , mà ngày nay với sự phối hợp của khoa học hiện đại , với nền tự do dân chủ khai phóng , cộng thêm môn cận tâm lý , ngoại cảm học , trường sinh vật học , khí công , huyền bí học và pháp thuật ……., con người có thể tu tập ngay trong một kiếp nầy cũng có thể trực chỉ nhân tâm , kiến tánh thành Phật vậy . Mọi mê tín dị đoan và sai lầm sẻ dần dần được chỉnh đốn , khử trược lưu thanh , nền khoa học tâm linh chính xác sẻ được hình thành và tạo nên một nền văn hóa và thổi luồng sinh khí mới cho nhân loại ……
Con người khi chết đi , thì hết hay còn ; đó chỉ là tiền đề của câu chuyện , dùng để ném ngói dẩn ngọc , dù đó là một giả thuyết sai đi nữa , nó vẩn là một bản thảo sơ khai đã vừa ló dạng , để con người có đầu mối để khai triển thêm …..mong các đồng nhân mọi giới , nếu có thêm những tư duy , những dẩn chứng khoa học hay tâm linh có liên quan đến góc nhìn mới mẽ nầy của nền vật lý sống và nhân thể học của thế kỷ 21 , xin đừng ngần ngại mà cứ tự do đưa lên để mọi người có thêm thông tin mà tham khảo , sau đó , với những phương pháp phân tích , suy luận , diển dịch , quy nạp và tổng kết , để hình thành một công thức , một khuôn mẩu có một giá trị cho việc thực nghiệm trong hai phòng thí nghiệm , một trong phòng thí nghiệm của khoa học quy ước ngoài đời , do những nhà khoa học gia khoa bảng đảm trách và một trong phòng thí nghiệm được đặt bên trong con người , do trực giác tâm linh con người đảm nhận của những nhà cận tâm lý , ngoại cảm , yoga , thiền , pháp thuật cùng huyền bí học Đông Tây …..
Xin mọi người , đừng đưa lên những triết thuyết về vấn về nầy qua những nền tin tưởng xưa với truyền thống kinh điển và những khoa học kiểm chứng lâm sàng , nhưng không giải thích được những hiện tượng dị thường của tâm linh con người và tất cả thường quy về lối suy luận và tư duy củ cổ điển , để cũng cố thêm cho niềm tin xa xưa , mà mọi người đã từng nghe , từng biết và đã từng ẩn dấu sự chán nản nầy ….như vậy sẽ đở tốn thì giờ và công sức của quý bạn , vì từ xa xưa đến nay đã có rất nhiều người đi qua , nhưng kết quả không có được là bao…..
Nay , chúng ta cũng thử nói luân hồi , tái sinh , tiền kiếp , thế giới sau khi chết , ma quỷ ....với một cách lý luận khác là khi ta chết thể xác mới được sinh ra cùng với một kiến thức và kinh nghiệp toàn hảo của kiếp vừa qua , nếu không tái sinh thì làm cách nào chúng ta cũng biết là chúng ta vẩn tồn tại , mặc dù không có thể xác , và chúng ta làm cách nào để giao tiếp với người thân còn sống của mình và có thể giúp đở họ .....ngày xưa thì không biết ra sao , nhưng ngày nay chúng ta có nhiều cơ hội và khả năng để làm những việc nầy , những gì AS-T2 đã trình bày từ đầu đề của mục Sống chết sự đại , cũng đã được chứng minh và nói lên điều đó ; tất cả là do một quá trình tu tập , tìm tòi phân tích , suy luận , diển dịch , quy nạp và tổng kết hai triết thuyết cực hữu và cực tả của xả hội , trong một khả năng hạn chế của cá nhân AS-T2 và những thông tin cũng như nguồn tài liệu hạn chế có được ngày nay trên xả hội về vấn đề nầy , của tất cả khoa học hiện đại , kinh điển cùng triết thuyết xưa nay về cái chết , mà nhờ đó AS-T2 đã có thể quy nạp tổng kết theo con đường trung đạo TÂM VẬT GIAI THIÊN LÝ để ngày nay có thể cống hiến cho mọi người góp sức cùng tham luận vậy ....
Như Huynh Talkative có nói , phạm vi tìm hiểu đề tài nầy bị thu hẹp trong một giới hạn nhất định nào đó , như ta thường nghe câu nói ví von như THIÊN ĐÀNG HỬU MÔN , VÔ NHÂN VẤN ; ĐỊA NGỤC VÔ MÔN HỬU KHÁCH TẦM ; đúng là như thế , vì đây là cách cửa vô môn , chỉ có thể mở được khi những tiềm năng tiềm ẩn của con người được khai mở …….và với sự tiến bộ vượt bậc mọi mặt của con người trong kỷ nguyên Bảo Bình , về khoa học vĩ mô cũng như vi mô , từ hạt cho đến sóng , cho đến trường thông tin được mả hóa phát ra từ các sinh vật sống , từ hóa học sinh thái cho đến hóa học của huyền bí học ……con người có thể đi sâu vào trường sinh thái sống vi tế của vạn vật , và đã dần dần tìm ra được bộ mặt thật của nó …….các ảo ảnh lung linh của những oan hồn uổng tử sẻ có chổ đứng xứng đáng của nó trong bảng phong thần của nền văn minh và văn hóa hiện đại …..Vì những tiến bộ trên cộng thêm phong trào bùng nổ thông tin và nối kết tâm linh nhân loại qua mạng lưới Internet , Paltalk và Yahoo Messenger ….Cánh cửa thiên đàng nay rộng mở và đã thấy được qua cái nhìn của mắt thịt của chúng ta , khi chúng ta nhờ công sức lao động của tâm linh mà chúng ta có được những con số thông tin chính xác về cách rà đài cùng các bản giải mả tâm linh , mọi hiện tượng tâm linh sẽ được hiểu biết bằng cách nầy hay cách khác trên hai lảnh vực hữu và vô hình ; mà những công cụ cùng kiến thức nầy ngày xưa bị phát triển hạn chế và là đặc quyền chỉ cho một thiểu số nào trong quá khứ….và có thể 80 % các vấn đề nầy là không có , và nếu có ai hỏi , liền sẽ được trả lời một cách khẳng định và chính xác là THIÊN
CƠ BẤT KHẢ LẬU ......v..v........
Còn vấn đề con sâu biến thành con bướm ........cũng cùng chung một thể loại đã được trình bày ; xin Huynh Talkative tham khảo lại đoạn , đứa trẻ sáu tháng và Ông già 80 có giống nhau không , là hai hay là một .....vân vân và vân vân .....đã được trả lời trong bài tham luận thứ hai của bài viết khi một chater trong room TVLS nêu lên trong mục Con người chết rồi đi về đâu của Huynh Learner ....đưa ra ......và trong room Nói chuyện Linh Tinh của Thầy Hùng Sơn đã tạo điều kiện và môi trường cho vấn đề nầy đi xa , sâu hơn và có kết quả thiết thực hơn ......chớ không phải một cách nói chuyện viễn vong vô ích ......Mọi người cũng cần nên biết rằng vấn đề nầy cũng là một khoa học cao cấp cần phải khám phá ra của tất cả khoa học gia của các cường quốc , cũng như các nhà Huyền bí học đông Tây......
Lý do là vì , tất cả những vị nầy khi sinh tiền , thì là quyền năng pháp thuật đầy mình , mà khi họ chết đi , cũng không thể biến thành người lảnh đạo cho những liên hệ siêu linh của mình cùng các âm binh âm tướng của mình để mặc dù xác thân đã mất , nhưng với tài năng tâm linh siêu việt như thế , đoàn quân tâm linh cùng tập đoàn binh mả vẩn có thể hành hiệp để cứu nhân độ thế cùng giúp đở cho con cháu của mình đang hoang mang điêu đứng không chổ dựa , đến nổi phải mất niềm tin vào huyền thuật và tâm linh , để rồi công lao tâm linh gầy dựng một đời của các Vị nầy , phải bị thất lạc , bị bán ra hàng sách củ , bị hỏa thiêu , hay bị mục nát qua thời gian .....và con cháu đời sau ....phải lánh xa họ vì được sự cố vấn tư tưởng của những niềm tin cổ điển xa xưa .....
Việc luân hồi , tái sinh , tiền kiếp , thế giới sau khi chết , ma quỷ .....triết thuyết , kinh điển cùng niềm tin của thời xa xưa vẩn còn đó , và nó vẩn phát huy được tác dụng lợi ích của nó trong sinh hoạt con người , nó đã có công trong việc tạo sự ổn định cho thân tâm của con người và xả hội trong một định chế và thể chế chính trị nào đó , nó giúp cho con người có tính nhẩn nại hơn , sống an phận hơn trong nề nếp của mình cùng trật tự của Khổng Mạnh , nó giúp cho những uẩn ức của con người được thăng hoa , và im lặng âm thầm , chấp nhận tuyệt đối , để trả những mối nợ oan khiên của những tiền kiếp vô minh từ xa xưa mà mình đã tin vào đó .....Con người đã sanh ra trong tiếng khóc vô ý thức , cũng như chết đi trong đau khổ hay tự trói mình vào những ảo giác yên lặng êm ái của cuộc ra đi vô ý thức ......khi con người thành công trong việc tiếp nối kinh nghiệm và thần tức toàn hảo của mình qua một cơ thể mới , thì lúc đó sẻ là lúc ; Con người sanh ra trong tiếng cười ý thức và cuối cuộc đời phúc lạc sẻ toàn thức mà dọn qua ở trong một ngôi nhà mới trong niềm hạnh phúc , vui vẽ khoan khoái thân tâm với những thành quả lao động đầy đủ , mà con người đã tạo nên khi ở nhà củ ....
Việc luân hồi , tái sinh , tiền kiếp , thế giới sau khi chết , ma quỷ .....vẩn còn được phát huy tiếp tục qua những khám phá mới và qua những góc nhìn khác nhau của thời đại trực giác tâm linh bảo bình nầy , và viên ngọc kim cương nầy sẽ chiếu sáng lung linh muôn màu .....con người ngày nay được toàn quyền tự chọn cho mình bất cứ màu sắc tâm linh nào họ muốn .......Con người tự định đoạt số phận của mình ..........

Khi có thì giờ , xin mọi người hảy đưa lên những kiến giải dù về khoa học hay tâm linh có liên quan đến đề tài với các diển giải và cách dùng từ khác về các vấn đề như : Ký ức của cá nhân và vũ trụ – Bộ nảo vật chất tạo ra ý thức như thế nào – Ký ức của con người được cất ở đâu – Tại sao hình tư tưởng bị tan rả khi con người chết đi hay vẩn còn tồn tại , nếu tồn tại , thì cấu trúc của những hình tư tưởng nầy như thế nào và nó có tác dụng gì lên thiên nhiên hay con người ....Thuật chuyển di tư tưởng như thế nào – Thuật thâu hồn như thế nào – Thuật dùng tâm lực để điều khiển người khác của Quỷ Cốc Tử – Bí ẩn tâm linh tại sao, Trung Cộng xua quân xâm chiếm Tây Tạng – Tại sao những quốc gia nổi tiếng về huyền thuật lại bị thua trận trước hỏa lực mạnh của súng và bom đạn – Thuật khai mở thần nhản – Thuật nhìn hào quang của con người – Thuật đọc tư tưởng của người khác – Thuật xuất hồn – Thuật Tá thi hoàn hồn – Thuật Kim Thiền thoát xác của tâm linh – Ma Thuật – Tại sao ma quỷ có thể nhập vào con người - Ma quỷ làm thế nào để xử dụng thân xác con người để giao tiếp với người dương .........
Nếu các vấn đề nầy được mọi người nói và thực hành rỏ ràng và dể dàng thì những hiện tượng luân hồi , tái sinh , tiền kiếp , thế giới sau khi chết , ma quỷ ...sẻ được sáng tỏ,vì nó cũng cùng chung một nguyên tắc như vậy .....
Đừng cho những việc trên , là những thần thông và quyền năng ma quỷ làm cản trở con người trong việc tu tập , mà hảy làm những việc nhỏ trước đi , mới có cơ sở để làm việc lớn , chớ đừng nghe những lời hướng dẩn nào đó để quay lưng về hướng mặt trời , thì chắc chắn một ngày nào đó , bài vị của mình sẻ được nhang khói đầu đủ trong vài đời là có phước lắm đó.....
Ngày nay , người ta nói thiện , nói đạo đức thì hay , mà không có ai chỉ dạy những trí huệ cùng những thiện xảo để giúp con người dùng cái thiện cái hay của đạo đức để đối diện với những khó khăn của thực tại xã hội cùng những gút mắt trong tâm linh của con người .....người có đạo đức và người thiện cũng cần có khả năng để giúp mình và giúp người , chứ không thể nói suông được .....nếu không ,thì chẳng chóng thì chầy cũng trở thành nạn nhân của kẻ vô minh ....
Những kiến thức trên có rất nhiều trên thị trường Tây Tàu , là con dân nước Việt , người Việt hải ngoại có điều kiện và khả năng , hảy cùng nhau đưa những kỷ thuật và kiến thức nầy lên để mọi người cùng tham khảo và học hỏi , nhất là giúp những người Việt nào ở những nơi khác không có khả năng nầy ...cũng có dịp tiến bộ và học hỏi như những sắc dân khác ......đó cũng là đóng góp một phần nào trong công cuộc bài trừ mê tín , dị đoan và thúc đẩy hình thành một nền khoa học và văn minh tâm linh tiến bộ , lành mạnh và lợi ích cho mọi người .....

Kính mời mọi người tích cực tham gia và xây dựng cho nhân loại nay và mai sau .....
Cám ơn Thầy Hùng Sơn đã tạo môi trường vui vẽ , thoải mái cho mọi người trao đổi và học hỏi .
Thành thật tri ơn ...

ÁNH SÁNG – T2 – ÚC CHÂU
Huynh ANHSANG T2 quí mến .

Tâm tình của huynh đáng nhẽ là bổn phận của tại hạ trên diễn đàn này. Vậy mà huynh đã đỡ lời cho tại hạ. Quả thực đó là một đặc ân làm tại hạ vô cùng cảm kích.

Đúng như những gì huynh nói : ". . . .đó cũng là đóng góp một phần nào trong công cuộc bài trừ mê tín , dị đoan và thúc đẩy hình thành một nền khoa học và văn minh tâm linh tiến bộ , lành mạnh và lợi ích cho mọi người. ". Lành thay ý tưởng cao đẹp này. Đây cũng là mục đích của tại hạ không nề nà bỏ công sức, tiền bạc ra để làm sao gây được một ý thức tâm linh tiến bộ như huynh dậy bảo.

Giờ đây không còn gì quí hoá hơn sự góp ý của các thân hữu trên diễn đàn này. Tại hạ mong được lắng tai nghe lời chỉ bảo của chư vị bốn phương trong đề tài này vậy.

thân ái
Hùng Sơn
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeThu Sep 30, 2010 11:42 am

Tạng thư Sống Chết

The Tibetan Book Of Living And Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
--- o0o --



MỤC LỤC

Lời giới thiệu của Đức Dalai Lama

Lời nói đầu

PHẦN MỘT: SỐNG

1. Trong tấm gương của cái chết
2. Vô thường
3. Tư duy và thay đổi
4. Bản chất của tâm
5. Đưa tâm về nhà
6. Tiến hóa, Nghiệp và tái sinh
7. Bardo và những thực tại khác
8. Đời này: Bardo tự nhiên
9. Con đường tâm linh
10. Tự tánh sâu xa của tâm


PHẦN HAI: CHẾT

11. Lời khuyên tâm huyết giúp người sắp chết
12. Lòng bi mẫn: viên ngọc như ý
13. Giúp đỡ tinh thần người sắp chết
14. Hành trì cho người sắp chết
15. Tiến trình chết


PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH

16. Nền tảng
17. Tia sáng nội tại
18. Trung ấm (Bardo) tái sinh
19. Giúp đỡ sau khi chết
20. Kinh nghiệm cẩn tử: nấc thang lên trời?



PHẦN BỐN: KẾT LUẬN

21. Tiến trình phổ quát
22. Sứ giả hòa bình

Phụ lục 1: Vấn đáp về sự chết
Phụ lục 2: Hai mẫu chuyện
Phụ lục 3: Hai bài thần chú

Lời giới thiệu của đức DALAI LAMA


Đức Dalai Lama

Trong tác phẩm này, thầy Soyal tập trung vào các vấn đề làm sao để hiểu ý nghĩa thực thụ của sự sống, làm sao để chấp nhận cái chết, và làm sao để giúp đỡ người sắp chết, và người đã chết.

Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống. Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính mình, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.

Là một Phật tử, tôi xem chết là chuyện bình thường, là một thực tại mà tôi phải chấp nhận, khi tôi còn hiện hữu trên trái đất. Đã biết không thể nào thoát khỏi, thì lo lắng làm gì. Tôi có khuynh hướng nghĩ đến sự chết cũng như thay bộ y phục khi nó đã cũ mòn, hơn là một cái gì hoàn toàn chấm dứt. Tuy vậy cái chết không thể biết trước: ta không biết được khi nào cái chết đến với ta, và ta sẽ chết như thế nào. Bởi thế tốt hơn cả là ta hãy dự phòng một số việc trước khi cái chết thực sự xảy ra.

Đương nhiên phần đông chúng ta đều muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều cũng hiển nhiên nữa, là ta không thể hy vọng chết một cách thanh bình nếu đời sống của ta đầy những bạo hành, hoặc nếu tâm ta thường giao động vì những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, hay sợ hãi. Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, thì ta phải đào luyện sự bình an trong tâm ta, và trong lối sống của ta.

Như bạn đọc sẽ thấy trong sách này, theo quan điểm Phật giáo thì cái kinh nghiệm thực thụ về chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của chúng ta, nơi tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết có thể ảnh hưởng tới tính chất của tái sanh kế tiếp. Vậy, vào lúc chết, mặc dù ta đã tích lũy đủ loại nghiệp, nhưng nếu ta làm một nỗ lực đặc biệt để phát sinh một tâm lành, thì có thể tăng cường và khởi động một nghiệp thiện, và do đó đem lại một tái sinh hạnh phúc.

Lúc chết thực sự cũng là lúc mà những kinh nghiệm nội tâm lợi lạc sâu xa nhất có thể xảy ra. Do thường thực tập tiến trình chết trong khi thiền định, một thiền giả tu cao có thể sử dụng lúc chết của mình để đạt những chứng ngộ lớn lao. Đấy là lý do những hành giả có kinh nghiệm thường nhập định vào lúc họ chết. Một dấu hiệu của sự đắc đạo nơi họ là thi thể họ thường không thối rửa sau khi họ đã chết rất lâu trên phương diện lâm sàng.

Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng mình, một việc khác không kém phần quan trọng là giúp người khác có một cái chết tốt đẹp. Khi mới sinh ra đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối; nếu không nhờ sự săn sóc tử tế mà chúng đã nhận được, thì chúng ta đã không thể sống còn. Người sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu, và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh thản. Điều quan trọng nhất là tránh làm điều gì khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết là làm cho họ được thoải mái. Có nhiều cách để làm việc này. Với người đã quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho người sắp chết một thái độ bình an, thoải mái.

Cái chết và tiến trình chết có thể cung cấp một giao điểm gặp gỡ giữa Phật giáo Tây Tạng và khoa học tân tiến. Tôi tin rằng hai bên có thể cống hiến cho nhau rất nhiều về hiểu biết và thực hành. Thầy Sogyal Rinpoche đúng là người để làm cho cuộc gặp gỡ này thêm dễ dàng, vì thầy đã sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đã thụ giáo với một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời thầy cũng được hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đã sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây phương và đã quen thuộc với lề lối tư duy của người phương Tây.

Sách này không chỉ cống hiến cho độc giả một trình bày lý thuyết về sự chết, mà còn cung cấp những cách thực tiễn để hiểu và tự chuẩn bị cho mình lẫn người khác (về cái chết) một cách thản nhiên và viên mãn.

Ngày 2 tháng 6, 1992

Lời Nói Đầu

Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đã vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôi có truyền thống độc đáo là tìm tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đã từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hãy còn bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai. Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù mãi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đã từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.

Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung bình. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ý nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy.

Cái nhìn và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện. Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôn ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.

Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đã vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôi có truyền thống độc đáo là tìm tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đã từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hãy còn bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai. Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù mãi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đã từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.

Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung bình. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ý nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy. Cái nhìn và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện. Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôn ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.

Jamyang Khientse là nền tảng của cuộc đời tôi, và là nguồn cảm hứng cho tác phẩm này. Thầy là nhập thể của một bậc thầy đã canh tân sự thực hành đạo Phật trong xứ sở chúng tôi. Ở Tây Tạng, được danh xưng là một vị “tái sinh” chưa đủ, bạn luôn luôn phải làm cho người ta kính nể nhờ học và tu. Thầy tôi thường nhập thất nhiều năm, và có nhiều mẫu chuyện mầu nhiệm được kể về thầy. Thầy có tri kiến và thực chứng tâm linh sâu xa, và tôi dần khám phá rằng thầy giống như một bộ bách khoa về trí tuệ, thầy biết giải đáp cho mọi câu hỏi bạn có thể đặt ra. Ở Tây Tạng có nhiều dòng tu, nhưng thầy Jamyang Khientse lại có tiếng là một vị thông suốt tất cả lý thuyết các dòng ấy. Đối với mọi người đã biết hay nghe nói về thầy, thì thầy chính là nhập thể của Phật giáo Tây Tạng, một bằng chứng sống cho ta thấy thế nào là một con người “thuyết thông lẫn tông thông”.

Tôi đã nghe nói thầy tôi bảo rằng tôi sẽ giúp tiếp nối sự nghiệp của thầy, và dĩ nhiên thầy luôn xem tôi như con đẻ. Tôi có cảm nghĩ rằng những gì tôi có thể thành tựu được trong công việc của mình đều nhờ ân phước của thầy tôi.

Mọi hoài niệm sớm sủa nhất của tôi đều là hoài niệm về thầy tôi. Thầy là bối cảnh trong đó tôi lớn lên, và ảnh hưởng thầy ngự trị tuổi thơ tôi. Thầy như một người cha đối với tôi. Thầy cho tôi bất cứ gì tôi xin cầu. Người bạn đạo của thầy, Khandro Tsering Chodron, mà cũng là cô tôi, thường bảo:

- Đừng quấy rầy Rinpoche, có thể ông đang bận đấy.

Nhưng tôi thì luôn muốn ở bên cạnh thầy, và thầy cũng sung sướng có tôi ở bên mình, Tôi thường không ngớt đặt những câu hỏi với thầy suốt buổi, và thầy luôn luôn kiên nhẫn trả lời tôi. Tôi là một đứa bé hư hỏng, không một thầy giáo nào có thể ghép tôi vào kỷ luật. Mỗi khi họ cố đánh tôi, thì tôi lại chạy đến thầy, leo lên sau lưng thầy, thế là không ai dám bén mảng. Thu mình ở đấy, tôi cảm thấy hãnh diện và khoái thích, còn thầy chỉ cười lớn. Bỗng một ngày nọ, thầy dạy kèm yêu cầu thầy tôi mà tôi không biết, giải thích rằng vì lợi ích cho riêng tôi, không thể tiếp tục để như thế được. Lần kế tiếp khi tôi chạy đến nấp sau lưng thầy, thì thầy dạy kèm đi vào phòng, lạy thầy tôi ba lạy, rồi lôi tôi ra ngoài. Trong khi bị kéo ra khỏi phòng, tôi nhớ mình đang nghĩ rằng, thật lạ lùng là ông này dường như không sợ gì thầy tôi cả.

Jamyang Khientse thường ở trong gian phòng mà tiền thân của thầy đã có những linh kiến và khởi sự công cuộc phục hưng văn hóa và tôn giáo đã lan tràn suốt miền đông Tây Tạng trong thế kỷ trước. Đấy là một gian phòng kỳ diệu, không rộng lắm nhưng có một bầu không khí thần tiên, đầy những vật thiêng liêng, tranh và sách. Nó được gọi là “thiên đường của những vị Phật”, “căn phòng đầy năng lực”. Nếu có cái gì ở Tây Tạng làm tôi nhớ nhung, thấp làm bằng gỗ và những đai da, tôi ngồi bên cạnh. Tôi thường không chịu ăn cái gì không phải lấy từ nơi bát của thầy. Trong cái phòng ngủ nhỏ gần kề, có một hành lang luôn luôn mờ tối, với một ấm nước trà sủi bọt trên hỏa lò nhỏ đặt trong góc. Tôi thường ngủ cạnh thầy tôi, trên một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy. Một âm thanh mà tôi không bao giờ quên được là tiếng lần tràng hạt của thầy trong lúc thầy nhẩm những lời cầu nguyện. Khi tôi đi ngủ thầy thường vẫn ở đấy, ngồi thiền đọc kinh và sáng sớm khi tôi thức dậy thì thầy cũng đã ngồi tu tập, tràn đầy năng lực và ân phước. Mỗi khi mở mắt trông thấy thầy, lòng tôi lại ngập tràn một niềm hạnh phúc ấm cúng. Có một vẻ gì rất thanh bình nơi thầy.

Khi tôi lớn lên, thầy Jamyang thường để cho tôi chủ tọa những buổi lễ, còn thầy làm duy na điều khiển thời tán tụng. Tôi có dịp chứng kiến tất cả những cuộc giảng dạy và phép quán đảnh mà thầy làm cho mọi người, nhưng không phải nhớ những chi tiết mà nhớ bầu không khí trong những dịp ấy. Với tôi, thầy chính là Phật, tôi không còn nghi ngờ gì về chuyện ấy. Và mọi người khác cũng công nhận như thế nữa. Khi thầy làm lễ quán đảnh, những đệ tử sợ tới nỗi không dám nhìn mặt thầy. Một vài người thấy thầy dưới hình dạng của vị tiền thân của thầy, hoặc thấy thầy giống vị Phật này, vị bồ tát kia. Mọi người gọi ngài là Rinpoche, “bậc quý nhân,” danh xưng đối với một bậc thầy, và khi thầy ở đấy thì không có vị nào khác được gọi bằng danh từ ấy. Sự hiện diện của thầy gây cảm khái tới nỗi nhiều người thương mến gọi thầy là “Phật nguyên thủy.”

Nếu tôi không gặp được thầy tôi, tôi đã thành một con người khác hẳn. Với trí tuệ và đức bi mẫn, thầy là hiện thân của giáo lý thiêng liêng và khiến cho giáo lý ấy thực tiễn và đầy sức sống. Khi tôi nói với người khác về bầu không khí vây quanh thầy tôi, họ cũng cảm thấy như tôi. Vậy, thầy tôi đã gây trong tôi cảm hứng gì? Đó là một lòng tin không lay chuyển đối với nên giáo lý, và một niềm tin ở tầm quan trọng chính yếu và quyết liệt của bậc thầy. Bất cứ một hiểu biết gì mà tôi có được, đều nhờ thầy mà có. Đấy là một điều không bao giờ tôi có thể đền đáp, song tôi có thể trao lại cho những người khác.

Suốt thời niên thiếu của tôi ở Tây Tạng tôi đã thấy cái tình yêu thương mà thầy tôi thường tỏa ra trong hội chúng, nhất là khi hướng dẫn người hấp hối và người đã chết. Một vị Lama ở Tây Tạng không chỉ là một bậc thầy về tâm linh mà còn là một người minh triết, một người trị bệnh, cha xứ, bác sĩ, người chữa tâm bệnh, người giúp đỡ kẻ hấp hối. Về sau tôi phải học những kỹ thuật đặc biệt để hướng dẫn người sắp chết và người chết, từ những giáo lý liên hệ cuốn Tử thư Tây Tạng. Nhưng những bài học lớn nhất mà tôi học được về sự chết – và về sự sống, là nhờ ngắm nhìn thầy tôi khi thầy hướng dẫn người chết với một lòng bi mẫn vô biên, với trí tuệ và hiểu biết.

Tôi cầu nguyện rằng sách này sẽ truyền đạt đến mọi người một trí tuệ và từ bi của ngài, và qua nó, các bạn có thể cảm nhận phần nào tâm đầy trí tuệ của ngài và tìm thấy một mối giao cảm linh động với ngài.
Tạng Thư Sống Chết không những là một tuyệt tác về tâm linh mà còn là một sách dẫn, một cẩm nang, sách tham khảo, và một nguồn cảm hứng thiêng liêng. " Trong một thời đại cực kỳ nguy hiểm như ngày nay, khi nhiều người trong chúng ta đang tìm kiếm sự hướng đạo minh triết và những giải đáp soi sáng cho ta về cách sống cuộc đời mình và cách đối mặt với cái chết, thì tác phẩm này đang cống hiến một sự hướng đạo như thế, một vài lời giải đáp như thế. Nó đã được viết ra để gợi cảm hứng cho người đọc khởi sự cuộc hành trình tiến về giác ngộ, để thành những "sứ giả hòa bình" theo như tác giả gọi, những người làm việc với trí tuệ và tình thương, để trực tiếp góp phần vào sự cứu vãn tương lai nhân loại.
==============================================

Xin các bạn vào trang nhà này để coi toàn tập
http://www.quangduc.com/Taisanh/15tangthu.html
Chào huynh AST2,
Nói về bìa chú thì mình không biết, nhưng một số vấn đề mình biết và viết lên đây nếu có thời giờ.

Làm sao thấy hào quang (aura) mình đã có chỉ phương pháp luyện rồi, nó nằm trên nầy huynh tìm sẽ thấy (mình quên nó nằm tại mục nào rồi..hì hì...thông cảm).

Muốn thấy được tiền kiếp của chính mình, có thời gian mình sẽ post lên cho mọi người nghiêng cứu. Những phương pháp mà mình post trên diễn đàn, tất cả mình đều thử nghuệm rồi và nó có một kết quả thật sự thì mình mới dám post lên. Mình cần thời gian để dịch phương pháp nầy sang tiếng Việt, hy vọng có thể hoàn thành sớm để huynh đệ tỷ muội có thể tham khảo.

Chúc mọi người an vui trong cuộc sống.
_________________
ngao du đây đó
Chào Thầy Hùng Sơn , Huynh Talkative và các Bạn khắp năm châu ....

Hoan hô tinh thần đóng góp của Thầy Hùng Sơn , Huynh Talkative ... , chúng ta sẽ đưa lên những tài liệu thiết thực và có giá trị liên quan đến việc tạo môi trường và kiến thức cùng kỷ thuật huyền bí học để mọi người có điều kiện phát triển những khả năng nầy , như vậy mọi người cùng tập và mọi người cùng có khả năng tâm linh , thì nó sẽ trở thành việc bình thường cho nền văn minh nhân loại trong tương lai .
Vì những loại kỷ thuật nầy , rất hiếm bằng chữ Việt ; Do đó , mong các bậc Thiện tri thức ở mọi nơi hảycùng dịch ra và đưa lên đây để giúp đở cho mọi người tu tập , hoặc có ai có những bí kiếp về phát triển những kả năng nầy cũng có thể phá lệ mà đưa lên để ai có điều kiện sẽ tham khảo , bàn luận và cùng nương đở vào nhau để thực hành .

Sau đây là những lỵ́ giải và cơ chế của ký ức vũ trụ và thần nhản con người được trình bày dưới dạng ngoại cảm học và khí công học .


Những thông tin có liên quan đến
khoa học vật lý sống và nhân thể học .
Tham khảo cho tham luận về
sự sống chết tâm linh của con người .

Mổi cơ thể sống đều phát ra trong môi trường chung quanh nó những tín hiệu dưới các dạng hóa, nhiệt , điện , từ hoặc điện từ , tạo nên cái gọi là trường sinh học – Bio-energy .
Trường sinh học là đặc trưng cho từng loài , cho mổi cá thể trong loài và biến đổi tùy theo giới tính , lứa tuổi trạng thái sinh lý , tâm lý của cá thể . Mổi tập hợp nhiều cá thể , tạo nên trường sinh học tập thể . Trường sinh học cá thể và trường sinh học tập thể , là một cơ sở cho sự thông tin giao tiếp giữa cá thể trong loài và giữa các loài khác nhau trong quá trình tồn tại và phát triển .
Một điều đáng quan tâm là trường sinh học , không chỉ tồn tại khi cơ thể đang sống ,mà còn để lại vết tích khi cơ thể đã chết , hoặc đã di chuyễn .
Trường sinh học của mổi cá thể người , để lại dấu vết trên ảnh chụp , chữ viết , vật dụng , băng ghi tiếng và hình ; chúng ta có thể lấy được một số thông tin từ những dấu vết đó ...một trong số những phương pháp ấy là dùng con lắc , để lấy một số thông tin từ vết tích trường sinh học của mổi cá thể .
Trích đoạn từ trang 193
của sách CẢM NHẬN THẾ GIỚI SỐNG tác giả nguyễn Đình Phư .


GIẢI THÍCH HẠCH TÙNG VÀ TRẠNG THÁI HOÀN HƯ

Hạch tùng nằm ở nảo thất bên trong đại nảo , được bao bọc bởi thể chai để bảo vệ , lọc nhiễu bên ngoài cho bộ chủ sóng . Nó nằm trên giao lộ trục chẩm ấn và trục tý ngọ . Là tụ điểm của khí thanh từ ngọc chẩm , vùng hồi chẩm đi ra ấn đường ; là tụ điểm của ánh sáng từ ấn đường , nhản thần và phát xạ thứ cấp của thể chai , nằm trên đường thông thương sinh lực với bên ngoài ; là bộ thu phát sóng nảo , sóng thông tin và tâm linh , tàng linh .
Là nền tảng cho quá trình hư tỉnh – vô thức để hoàn hư ; là cái nôi và nguồn gốc của giác quan thứ sáu .
Thật vậy trong cuộc sống đời thường đã ghi nhận có rất nhiều hiện tựợng lạ thường ở khắp nơi trên trái đất , với mật độ tăng theo sự lưu ý ghi chép của mọi người . Khoa học hiện nay , mặc dù đã trắc nghiệm xác minh được một số trường hợp ,nhưng chưa giải thích đầy đủ , mà còn ở dạng suy luận , nên đã liệt nó vào giác quan thứ 6 .
Các nhà Yoga , Đạo gia , Đạo sỉ, Thiền sư và các Khí công sư đã khai mở được tuyến tùng , trong quá trình tu luyện , mà trường thọ , cải lảo hoàn đồng .
Y học hiện đại đã trích được , chất nội tiết tố ở hạch tùng tạo ra để kích thích sinh lực sống của thời thanh xuân , cho hồi sinh trở lại .
Yoga Ấn Độ và Mật Tông Tây tạng là môn pháp bí truyền đã thành đạt đến mức kỳ diệu “không tưởng “ trong sự khai thác các khả năng tiềm ẩn ở các luân xa ; phải chăng cái luân xa quan trọng nhất , luân xa của mọi luân xa , đó là hạch tùng đã được khai mở , bông sen 7 cánh được cắt lớp đến tận phần linh .



LUÂN XA NGỌC CHẨM – SINH TỬ HUYỀN QUANG

Tính năng đặc trưng :
LUÂN XA NGỌC CHẨM thực chất không phải luân xa , mà nó có chức năng như một luân xa , là vùng chẩm nằm ở sau sọ , trên tiểu nảo – Hướng ra phía trước , quay theo chiều ngũ hành đồng biến – Quan hệ trực tiếp với tiểu nảo , liên quan với tuyến yên , tuyến tùng . NGỌC CHẨM như là màn phản quang , tiếp nhận và phản ảnh năng lượng thông tin .
Tác dụng :
NGỌC CHẨM là nơi tiếp nhận , cung cấp năng lượng thông tin cho đại nảo , nhằm thanh hóa nảo bộ , kích thích các tuyến yên , tuyến tùng và các luân xa ấn đường bách hội .
NGỌC CHẨM là nơi phản chiếu khí quang qua vùng hồi chẩm – Là nơi cung cấp thanh khí qua đường chẩm- ấn để thanh hóa nội ấn đường , màn hình vầng trán ở tiền đình – Cung cấp thanh khí qua giao lộ chẩm – ấn và tý – ngọ để thanh hóa hạch tùng và bách hội , hoá thần hoàn hư .

LUÂN XA ẤN ĐƯỜNG
Tính năng đặc trưng :
Nằm giữa hai lông mày trước trán ; quan hệ trực tiếp với tiền đình và nội ấn đường – Hướng ra phía trước , quay theo chiều ngũ hành đồng biến – Liên hệ với nảo trước , bách hội , hạch tùng , ngọc chẩm , vùng thị giác , hạch giao thoa thị giác .
Tác dụng :
Tiếp nhận và điều tiết năng lượng khí quang và khí hình – Điều khiển trực tiếp chức năng vùng tiền đình , hiển thị được ánh sáng và hình ảnh như một monitor siêu chất lượng – Điều tiết nội ấn đường , phục hồi lại tiềm năng con mắt thứ ba đã bị thoái hóa do không được xử dụng – Xử lý bệnh rối loạn tiền đình , phục hồi trí nhớ – Kích thích hạch thị giác , kích thích nội ấn đường , để khai mở nhản thần , mở rộng tầm nhìn “ không biên giới “ vào không gian vô hình , không gian vi tế ...

LUÂN XA BÁCH HỘI

Tính năng đặc trưng :

Nằm ở giữa đỉnh đầu ,nơi hội 6 kinh dương trên đốc mạch , có tứ huyệt cận đối giao quanh – nằm trên trục tý-ngọ , hướng lên quay theo chiều ngũhành đồng biến – Quan hệ trực tiếp với ấn đường , hạch tùng – Là cửa ngỏ giao lưu nội ngoại quan trọng , đặc biệt lúc khai mở sẻ cho xuất hồn , nhờ sóng nảo của hạch tùng để thâm nhập thế giới tâm linh .

Tác dụng :

Thu ngoại khí tiên thiên , thanh hóa nảo bộ – Giao lưu sinh lực với thiên địa khí qua trục sinh lực tý ngọ , liên kết chặt chẻ mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân – Cửa ngỏ tâm hồn , giao hòa với thế giới tâm linh – Như anten thu hát sóng nảo , cầu nối thông tin giác quan thứ 6 , giữa thế giới tâm linh với linh hồn con người .
THIÊN LUÂN HẠCH TÙNG

Tính chất đặc trưng :
Nằm ở giữa nảo thất , trên tiểu nảo , dưới bờ cong ở phần sau thể chai ( màn lưới phóng xạ thứ cấp sóng nảo ) – Là tuyến chủ của hệ nội tiết – Chủ đạo hệ luân xa – Là trung tâm của ba luân xa phản ánh : ngọc chẩm – ấn đường và bách hội , nơi khu trú tâm linh – Nằm tại điểm giao thoa của trục chẩm ấn và tý ngọ – Hướng ra phía trước , quay theo chiều ngũ hành đồng biến .

Tác dụng :
Chỉ chấp nhận năng lượng kích thích là thanh khí và linh khí – Điều khiển mọi hoạt động thần kinh bậc cao , chi phối hệ luân xa và hệ nội tiết – Phát các loại sóng nảo mà tần số và thời gian lại biểu thị trạng thái tâm sinh lý và cấp độ vi tế của tâm linh – Đặc biệt quan trọng là có khả năng sản sinh hai nội tiết tố : Tiết xuất chất Melatonin mang thể âm , tính thanh , điều tiết các trạng thái tâm sinh lý , hoạt động đồng bộ và hoàn thiện – Tiết xuất chất Seratonin mang thể dương , tính thực , kích thích sự phát sóng nảo và đưa con người về trạng thái tiền định .
Đường chẩm ấn cắt trục tý ngọ qua hạch tùng .Hồi chẩm có tác dụng hiệu chỉnh sắc tố màu ở vùng trán . Hạch thị giác được kích thích khai mở nội ấn đường để có được khả năng thấu thị , nội soi và ngoại soi .

ĐẶC ĐIỂM VỀ HẠCH TÙNG

1.- Tuyến tùng nằm ở dưới vùng nảo thất , tây y quy về tuyến nội tiết , là tuyến chủ đạo toàn bộ về việc tiết xuất nội tiết tố . Trong khí công và yoga gọi là hạch tùng , coi như một luân xa đặc biệt quan trọng , điều khiển sự hoạt động của toàn hệ luân xa . Như vậy có thể hiểu nôm na rằng ; tuyến tùng biểu thị phần thức , là điều hành việc sản sinh chất nội tiết tố , còn hạch tùng biểu thị phần thanh , là hiệu chỉnh sự cân bằng và đồng bộ cho hệ luân xa .

2.- Hạch tùng coi là một cơ quan đầu nảo , là tâm của nguồn bức xạ sóng nảo( đại diện là sóng alpha ) . Nó chỉ được kích hích bởi thanh khí và linh khí , hay nói cách khác là hạch tùng chỉ hoạt động trong môi trường khí quang và khí hình .

3.- Là nơi giao hội giữa trục sinh lực tý ngọ và đường chẩn ấn . Nguồn năng lượng thanh được cung cấp qua hai trục nầy . hạch tùng lại còn chi phối các luân xa bách hội , ấn đường , ngọc chẩm .

4.- Là nơi khu trú tính linh của con người ; Đạo gia gọi là đan điền thần , là nguồn của thần . Hạch tùng coi như là cơ quan linh cảm qua hoạt động của “ hạt tư tưởng “ hay sóng alpha , mà thường gọi là giác quan thứ sáu .
Trong một tương lai gần , khoa học vi phẩu sẽ khám phá ra các khả năng kỳ diệu của hạch tùng mà các yogis, các Đạo gia và Khí công sư đã từng quan sát mô tả các khả năng đặc dị ấy .
Có thể ví hạch tùng như là bộ vi xử lý của các loại máy tính siêu hạng . Nó là bộ nhớ các gene di truyền ; là bộ phát và nhân tín hiệu qua hạt sóng nảo , mã nóa và giải mã ( Khóa của gene di truyền ) thu thập dử liệu thông tin và có khả năng điều hành . Một khi đã được khai mở , tùy theo cấp độ , sẽ tự động khai thác lập trình đã được lưu giữ trong không gian vi tế , tạo nên các hiệu quả bất ngờ , mà con người bình thường chưa bao giờ nghĩ tới .

CẤU TRÚC HẠCH TÙNG

Hạch tùng sản sinh ra hai chất Melatonin và Seratonin , điều khiển mọi hoạt động sinh học và tâm sinh lý trong cơ thể .
Chất Melatonin có đặc tính âm , kích thích sự phát sóng nảo , tương thích với chu kỳ tâm sinh của hệ thần kinh trung ương , đồng thời trao đổi thông tin giao tiếp nội ngoại .
Cơ thể con người luôn bị , quá trình thực hóa hằng ngày tác động làm cho hạch tùng dể bị kết khí , dần dần đánh mất chức năng sẳn có của nó , cần phải xử lý khí kết đen , đưa nó trở về trạng thái trong sáng nguyên thủy .
Nguồn năng lượng để thanh hoá hạch tùng là ngọn lửa tam muội , trong đó có ba thành phần :
- Thực hỏa chân dương chỉ dùng cho việc thanh hóa tụ kết calcium ở cột sống .
- Thanh hỏa dùng để thanh hóa và kích thích hệ luân xa và hạch tùng , để khai mở khí quang .
- Linh hỏa chỉ hoạt động theo trục sinh lực tý ngọ để kích thích hạch tùng bức xạ sóng nảo và khai mở khả năng khí hình .

CÁC CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA HẠCH TÙNG


Hạch tùng chỉ hoạt động với thanh khí và linh khí , được cung cấp từ ngọc chẩm qua đường chẩm ấn và nguồn linh hỏa của tam muội qua trục tý ngọ . Sự hoạt động phải đảm bảo tính đồng mức từ năng lượng – thông tin- tâm linh .
Nó hoạt động ở cơ chế phản ánh và xữ lý thông tin.Ví dụ như phản ánh khí quang ở vùng trán , khí hình ở vùng cảm giác hạch thị giác . Nếu như hình chưa rỏ , thì đưa về hồi chẩm để phân lọc quang . Đặc biệt sự hoạt động của hạch tùng thường đã được lập trình sẳn , nếu không thì cần phải luyện đưa vào chương trình hóa cho nó .

CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG NĂNG LƯỢNG CỦA HẠCH TÙNG

Nguồn năng lượng từ ngọc chẩm cung cấp cho hạch tùng , rồi phát ra ấn đường . Nhưng ấn đường lại điều chỉnh khả năng khí quang cho hạch tùng . Sự kích hoạt bao giờ cũng bắt đầu từ năng lượng , rồi mới mang cấp độ lên thông tin .
Nguyên tắc hoạt động là năng lượmg phát ra từ ngọc chẩm theo chiều xoáy thuận đến hạch tùng , rồi xoáy rộng theo dạng loa hình nón đến ấn đường và mở rộng ra vùng trán , độ mở tốt nhất hay độ mở tiêu chuẩn là điều chỉnh sao cho độ mở vòng xoáy năng lượng ở ấn đường có kích cở gấp hai lần độ mở hạch tùng . Cách phát xoáy năng lượng liểu hình nón nầy gọi là Miêu công tỉnh . Nếu vận dụng cả Nhân thần “ ánh mắt “ kết hợp với vòng xoáy từ ngọc chẩm ra ấn đường thì sẽ đạt hiệu quả cao hơn . Trường hợp nầy gọi là Miêu công động , được kết hợp vào việc chửa một số bệnh tâm thần bằng phương pháp thôi miên .

CƠ CHẾ NỘI LUÂN VÀ NGOẠI LUÂN

Cơ chế nội luân và ngoại luân xa bao hàm các tính đặc trưng về cấp độ vi tế , về sự phản ánh cùng sự tương tác về cấu trúc giữa các cặp với nhau .
Về cấp độ thanh hoá như giữa luân xa năng lượng “ phách “ và thông tin “ vía “ được thể hiện ở vòng năng lượng từ ngọc chẩm đến ấn đường và các chùm tia thông tin từ hạch tùng ra ấn đường . Trường năng lượng “ ngoại luân “ phân bố ở phần ngoài da , nhờ các tế bào phản quang bức xạ thứ cấp phát quang cho ánh sáng trắng đặc trưng thể phách . Bề mặt da ở vùng trán tập trung tế bào phản quang nhiều nhất , đã tạo nên màn hình hiển thị . Nhờ khoa học vi phẩu , mà có thể cấy tế bào phản quang vào vùng trán để giúp người mù nhìn thấy qua sự trợ giúp của nhản thần được kai mở . Còn các tia thông tin nằm ở vùng năng lượng nên gọi là nội luân , sự hoạt động của chúng phải được đồng mức , đồng bộ thì mới đạt kết quả trong quá trình luyện khai quang .
Về sự phản ảnh ở luân xa tâm , bao gồm nội tâm và ngoại tâm . Nội tâm là trái tim , được gọi là nội luân , còn ngoại tâm là màng bao tim “ tâm bào “ được gọi làngoại luân . Về cơ năng thì màng bao tim bảo vệ trái tim ; còn về chức năng thì nó là sự phản ánh về tính chất bức xạ khí ; tâm bào mang tính thực nhiệt ngoại luân , còn trái tim mang tính thsnh hỏa nội luân . Một khi bị rối loạn làm cho sự hoạt động không đồng bộ thì cần phải hiệu chỉnh lại ngay .
Về vị thế cấu trúc của luân xa ấn đường , nó bao gồm ngoại luân ấn đường vànội ấn nằm sâu ở nảo trước . Nội ấn nằm giữa hạch tùng với ấn đường , là con đường tạo nên ánh sáng vi tế vàng óng được bức xạ từ hạch tùng, khi có sự hoạt động lệch pha giữa chúng thì sẽ xuất hiện các hình ảnh kỳ lạ như có hai hình ,hư cảnh ..v..v...

CƠ CHẾ NỘI QUANG VÀ NỘI QUANG

Cơ chế nội quang là nguồn khí bức xạ năng lượng lên các vùng phản ánh , gồm hai loại cơ chế :
- Cơ chế ngũ hành : Dùng ngũ khí kích thích nội tạng , đưa về đan điền lọc phân quang , đưa lên ngọc chẩm , hạch tùng , đến vùng trán , hiện quang .
- Cơ chế âm dương ùng chân khí kích thích đan điền , phân âm dương , theo đốc mạch lên ngọc chẩm , đến hạch tùng , đưa ra ấn đường hiện quang .
Cần phải tuân theo quá trình kích thích chuyển hóa từ phần thực lên phần thanh bằnt cách thông thực và hành cho tốt . Yêu cầu phải có hiện quang ngũ sắc và phân biệt âm dương .
Cách tốt nhất là dùng vô hình pháp bậc hai để thu ngoại quang ánh sáng và kích thích đồng mức thanh hoá , tụ lại vùng cần tác động sẻ cho khả năng hiện quang tốt hơn .
Hai cơ chế ngũ hành và âm dương mang tính hướng ngoại , nên có xu hướng phát tán , nhờ vậy mà giúp cho việc thanh xả màn hình vầng trán tích cực hơn.
Cơ chế ngoại quang luôn tác động vào cơ thể làm rối loạn nội khí , nội quang . Bởi vậy cần phải tạo lớp hào quang bảo vệ , phân lập nội ngoại . Đó là cách thu khí quang đưa theo trục tý ngọ , phát tán quang khí ra xung quanh cơ thể để cân bằng nội ngoại .Cả ba phương pháp trên đạt được sự cân bằng nội ngoại cao , nên ổn định tốt thể phách , tức là ổn định trường năng lượng xung quanh cơ thể .

VÔ HÌNH PHÁP

Thế giới “ có thực “ đang tồn tại trong vũ trụ bao la . Song con người ngày nay mới chỉ cảm nhận cái “ thế giới thức “ qua cảm quan của mình , mà chưa thể nhận biết đến cái thế giới đã và đang tồn tại lớn hơn gấp nhiều lần , đó là “ thế giới vô hình “ Thế giới thực hay là thế giới hữu hình chỉ biểu hiện cái bên ngoài , hình dáng cái bản chất của sự vật và hiện tượng . Còn thế giới vô hình là cái thức chất bên trong , cái cấu trúc bản chất của sự vật và hiện tượng . Đó là cái căn bản ban đầu .
Cuối thế kỷ 20 , qua kính viễn vọng , con người đã phát hiện ra lổ đen trong vũ trụ . Nhờ công nghệ quang học vi điện tử , đã tiếp tầm nhìn cho kính viễn vọng khám phá thêm một số lổ đen khác , còn lớn hơn gấp nhiều lần thái dương hệ . Phải chăng trong thế kỷ 21 nầy là bước khởi đầu , vén bức màn đen để nhìn được bản chất của không gian vô hình đang tồn tại gần thái dương hệ mà chúng ta đang sống .
Về Đầu Trang Go down
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:48 am

Trong “ tiểu vũ trụ “ của con người cũng đang tồn tại bức xạ khí .mà mắt thường không nhìn thấy được , còn sự vận động của nó thì tai thường không nghe được . Ấy là khí vô hình , con người phải có khả năng khí quang và khí hình ,mới cảm nhận được bức xạ khí vô hình . Cơ quan nhận biết được màu sắc là Ấn đường và hạch thị giác , của âm thanh là hạch thính giác ở vùng nội tai và luân xa thiên đột , của hình ảnh là hạch tùng .
Các mức độ cảm nhận thế giới vô hình như sau:
Hình như xuất hiện lờ mờ , như lúc có lúc không – Có lẻ như ở đâu đó , không điều khiển được – Chắc chắn đã biết chắc , đã làm chủ được cơ thể.
Các nhà ngoại cảm nghe biết được lời chỉ dẩn vô hình văng vẳng ở tai ; đó là nhờ đã khai mở được luân xa thiên đột và hạch thính giác nội tai ở nảo bộ ; còn các nhà ngoại cảm khác nhận thấy hình ảnh ở trong đầu , hoặc thấy được ở rất xa ; Có khi nhìn xuyên thấu lòng đất , ấy là họ có khả năng thấu thị , vì nhờ nội ngoại ấn đường , đã được khia mở , trong đó có hạch thị giác và nhản thần “ con mắt thứ ba “.
Còn nhà ngoại cảm toàn năng , cũng có thể có được khả năng tiên tri , đoán được ý nghỉ , hiểu được quá khứ vị lai . Đó là có sự trợ giúp để khai mở các luân xa tâm thức “tỳ - tâm “ , thiên luân hạch tùng và cửa ngỏ giao tiếp bách hội . Trong quá trình nầy , cơ thể được cân bằng nội ngoại qua trục sinh lực tý ngọ và được thanh linh đến mức hào quang thứ 7 , có nghĩa là đã thâm nhập được vào không gian tâm thức – tâm linh .
Vô hình pháp là phương pháp xử dụng nguồn khí vô hình tác động lên sự vật và hiện tượng để quan sát , hiệu chỉnh , xữ lý theo những mục đích rỏ ràng . Vô hình pháp bao gồm hai cấp độ bức xạ năng lượng , đó là : - Tương tác bằng năng lượng thông tin , ở dải tầng đặc trưng là khí đơn sắc , ngũ sắc và ánh sáng thường ; nó gồm có 7 bậc từ bậc 1 , còn gọi là vô hình thực pháp đến bực 7 .
-Tương tác bằng năng lượng vi tế , ở dải tầng cao hơn , là ánh sáng trắng bạc và trong suốt vi tế . Nó có 4 bậc , gọi là hư pháp .

LINH CẢM – GIÁC QUAN THỨ SÁU

Sự linh cảm thường xảy ra hằng ngày trong cuộc sống riêng tư của mổi người , được xem như lẽđương nhiên .
Chuyện một thiếu nữ đang tuổi yêu đương , sẽ rất nhạy cảm hay linh cảm nhận thấy hình như có cặp mắt nào đang “dòm ngó “ ở phía sau , mặc dù cô không hề ngoái cổ . Lại có một kẻ phạm tội , sẽ linh cảm rằng trong vài ba gnày tới sẽ gặp “ rắc rối “ .Còn có một bà mẹ , đột nhiên cảm thấy bôn chồn lo lắng về đứa con đi xa , và quả nhiên sau đó có tin , con vừa gặp nạn và v..vv...
Ấy là các phản xạ tự nhiên của giác quan thứ sáu , sản phẩm siêu linh của nảo bộ , một khi được kích động đồng ứng và đồng mực .
Khác với hiện tượng ngoại cảm , sự linh cảm chỉ xảy ra có điều kiện và trong khoãng khắc tức thời ; thêm vào đó là độ linh cảmcòn phụ thuộc vào tình cảm gắn bó , thân thương của dòng máu huyết thống ; hay nói cách khoa học là nó phụ thuộc vào gene di truyền ADN qua sự cộng hưởng tương tác trong trường không gian tâm thức .
Khoa học hiện đại ngày nay , cũng đã cho rằng nảo bộ của con người tương tự như bộ thu phát sóng , mà ở đây là sóng nảo ; tùy thuộc vào trạng thái tâm thần , mà xuất hiện các dạng sóng khác nhau; đó là sự khác nhau về cấp độ tần số , về dạng sóng và phương thức truyền dẩn “ sóng “hay “ hạt “.
Nền khoa học cổ xưa và nền khí công ngàyh nay , quan niệm rằng , hạch tùng là cơ quan phát sóng nảo chủ yếu .
Tiềm thức ở mổi con người đều được mã hóa cài đặt vào gene di truyền ADN từ thưở bào thai , và được lưu giữ ở hạch tùng ; mổi khi có sự đột biến tâm thức , hạch tùng được kích thích rất mạnh , sóng nảo siêu thức được phát lên không gian tâm linh ; nhờ trường tình cảm tâm thức của luân xa tỳ và tâm cực nhạy của cha mẹ , vợ chồng con cháu cộng hưởng được với tín hiệu cùng gene di truyền , làm cho hạch tùng khai mở ; tín hiệu được giải mã và thông tin đến người nhận .
Hiện nay còn chưa chứng minh được hạch tùng phát tín hiệu ở dạng sóng hay dạng hạt ; nhưng qua trải nghiệm trong không gian vi tế , người ta thiên về cả hai dạng truyền ; điều đó có thể giải thích rằng : khi hạch tùng được khai mở nó phát hạt ánh sáng vi tế “ sáng trong màu bạc “ và lung linh dao động theo phương truyền dẩn như dạng sóng . Đã là hạt vi tế thì vô cùng nhỏ , nhưng nó có trọng lượng , có tính âm dương không , và tại sao không bị tổn hao trong môi trường truyền sóng .Đặc biệt lại xảy ra tức thời , gần như không có khái niệm thời gian .Như vậy phải chăng hạt vi tế truyền dẩn qua không gian tâm thức đồng nhất trong vũ trụ , lại giống như trường thống nhất của Xakharop và Burthoff vừa được công bố lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 21 nầy .
Khoa học hiện đại đã đo được giải tần phổ của sóng nảo ; trong số đó có hai dải tần phổ alpha và theta là có liên quan đến trạng thái hưtỉnh vô thức và giấc mơ lành .
Con người bình thường , ở trạng thái tâm lý yên tỉnh thì sóng nảo alpha xuất hiện ; khi ở trong giấc ngũ thì xuất hiện sóng theta , còn sóng alpha lại suy giảm ; dải tần phổ của chung lại còn tùy thuộc vào các trạng thái tâm sinh lý của con người .
Con người luyện khí công , khi ở vào trạng thái bán hư tỉnh thì sóng alpha tăng biên độ , giảm bớt nhịp tần số một cách đều đặn theo sự quán tưởng ; còn trong trạng thái hư tỉnh sâu thì xuất hiện sóng theta, nhưng sóng alpha vẩn được duy trì .
Các nhà khí công đều đã vượt qua ngưỡng ở mức luyện không cần có điều kiện ; điều có nghí̃a là cơ thể đã ở vào tạng thái tự động vận hành và tự bảo vệ .Bởi vì ở trong trạng thái hư tỉnh vô thức , thì tâm hồn trong sáng , mà thiền gọi là tâm không , thì dể thâu nhận được tâm linh trong không gian trí huệ , làm cho bộ nảo tiến hóa hơn . Hay nói cách khác là khi hư tỉnh thì sóng nảo alpha xuất hiện và tiếp cận được với không gian tâm thức , để tiếp nhận bồi bổ cho trí thức con người .

TRUNG TÂM TRÍ HỤÊ VÀ TRƯỜNG THỐNG NHẤT


Trung tâm trí huệ chính là không gian siêu tâm linh , lưu trử những tinh hoa của nền văn minh nhân loại . Không gian trí huệ là không gian siêu tâm linh, là trường đồng nhất các hạt tư tưởng ; nó không có khái niện thời gian ,mang tính vĩnh hằng ; có thể quan niệm không gian nầy , là trường đồng nhất các hạt tư tưởng vô cùng linh động , tồn tại trong thái dương hệ và dải ngân hà . Nếu đúng như vậy thì chẳng khác nào TRƯỜNG THỐNG NHẤT của Xakharop và Burthoff đã đưa ra vào cuối thế kỷ 20 của thiuên niên kỷ vừa qua .
Theo luận thuyết nầy , xem vũ trụ là một trường thống nhất tuyệt đối , nó không có khối lượng nên sẽ không có khối lượn quán tính và hấp dẩn của định luật cơ học Newton F=mA và P =mG . và công thức nổi tiếng E = mC2 của Einstain có thể sẽ được các nhà bác hoc̣ đối chiếu phát triển .
Luận thuyết nầy quan niệm rằng : do sự chuyển động tương tác giữa trường thống nhất cục bộ với trường thống nhất tổng thể , sẻ tạo nên khối lượng về quán tính và hấp dẩn . Từ luận thuyết căn bản nầy Xakharopcòn phát triển thành trường thống nhất hoàn chỉnh . Từ trên cơ sở đó , thì chẳng bao lâu nữa , con người sẽ nghiên cứu chế tạo ra động cơ vĩnh cữu ; có được như vậy thì loài người sẽ du hành đến các vì sao ở dải ngân hà sẽ không còn al̀ chuyện xa xcăm hoang tưởng nữa .Thiết tưởng cũng nên liên tưởng về ánh sáng lạnh vi tế với thứ ánh sáng trắng từ các đĩa bay UFO , có thể hôm nay còn là chuyện huyền thoại , mà sau nầy sẽ là sự thật .
Nếu Xakharop đã mở được” con mắt thứ ba “ tìm thấy trường thống nhất , các thuộc tính như trường tâm linh , thì phải chăng đó là một tín hiệu báo trước rằng : con người sắp tiến trên con đường đi vào ngưỡng cửa KHOA HỌC TÂM LINH .

Thế giới tâm linh tồn tại trong không gian vô hình là một thực thể khách quan . Các bậc tiền nhân khổ tâm tu luyện để tiếp nhận không gian nầy mà thành đạt đã không bao nhiêu . Thời ấy đã ít ghi chép , lại mang tính bí truyền , để rồi bị thất truyền , các phương pháp độc đáo cho hậu thế .
Bởi vậy cho nên , không gian tâm linh vô hình vẩn còn là điều bí ẩn trong tâm thức của mọi người . Khoảng trống không gian ấy , là mảnh đất tốt cho các tà đạo lợi dụng tôn giáo , tạo nên sự cuồng tín cho các tín đồ đưa họ đến các cuộc thánh chiến ; mặt khác các đảng phái chính trị liên kết với lực lượng tà giáo , hợp pháp hóa tôn giáo với pháp quyền để dể bề thao túng , đẩy những tín đồ vào con đường tội lổi mà bản thân không hề hay biết .
Các nước đã nhận tức được vấn nạn nầy , thì nhanh chóng hình thành cơ quan nghiên cứu ứng dụng vào mục đích có ích cho xả hội . V í như giữ an ninh xã hội , bài trừ mê tín dị đoan , ứng dụng chửa bệnh . Mặt khác nó còn được ứng dụng vào ngoại giao , quốc phòng và cho các cuộc hành trình không gian ở thời tương lao .
Song cái quan trọng nhất , là dùng phương pháp khoa học nào để tìm hiểu bản chất , thâm nhập vào được không gian tâm linh ấy ; nhưng còn cái khó hơn là thước đo tính chân thực và iếp cận được chân lý đó .
Thiên niên kỷ thứ 3 , hay trong thế kỷ 21 nầy ; con người sẳn sàng và quyết tâm đi tìm các bí ẩn trong thái dương hệ , ở dải ngân hà và còn ước muốn đến các vì sao ẩn hiện xa xăm . mặt khác con người còn đang lần về cội nguồn để tìm hiểu khả năng tiềm ẩn của chính mình .
Có thể nói một cách khác , về hai nhiệm vụ lớn lao của con người như sau : - Một mặt là dùng khí cụ khoa học hữu ình để quan sát ,thâm nhập vào thế giới vô hình ở đại vũ trụ .- Mặc khác lại dùng bức xạ vi tế vô hình để khai mở các khả năng tìm ẩn trong cơ thể hữu hình ở tiểu vũ trụ là con người .

Trích đoạn từ KHÍ CÔNG CHỮA BỆNH DƯỞNG SINH
của Thầy Hoàng Vũ Thăng và Thầy Ngô Anh Ba biên soạn .
Huuynh ANHSANG T2 thân mến .

Đọc bài của huynh tại hạ đầu óc muốn nổ tung lên vì sức học của mình còn kém cỏi quá. Bởi vậy vừa đọc vừa tìm những đồ hình để đối chiếu với bài viết cho dễ hiểu hơn. Vậy mong huynh đừng chấp nhất nhé.

Vốn sinh ngữ về tâm linh tại hạ cũng còn kém cỏi , vậy xin huynh dịch luôn ra cho tại hạ học hỏi thêm nhé. Cám ơn huynh hết sức đó.

À, còn nữa, nếu huynh chỉ bảo thêm cho tại hạ về " Hố`Đen của Vũ Trụ" thì thú vị biết bao. Tại hạ chưa biết gì nhiều về con đường vũ trụ này ra sao cả.

thấn ái
Hùng Sơn


Kính chào huynh saigon42 (thật ra xưng như vậy là vượt bậc, nhưng trong diễn đàn thì cứ xưng cho để huynh saigon42 thấy mình trẻ ra...yêu đời hơn nữa...hè hè hè...).
Talkative thấy huynh AST2 viết rất rõ ràng và mạch lạc, nếu chịu khó đọc kỷ một nữa thì rất hữu ích cho những người muốn tìm hiểu sâu hơn về huyền bí.
Theo Mình đọc bài của huynh ast2 thì hình như huynh ấy có liên quan đến hội thông thiên học, mà huynh ấy cũng là một thành viên gạo cội của hội đó (đoán mò thôi nhé).
Talkative hiểu biết về vấn đề nầy chỉ là ngoài da thôi, nhưng nhiều khi ngoài da thì dễ để cho những người khác dễ hiểu hơn (sau nầy quen thuộc với những mớ lằng nhằng thì sẽ thấy bài của huynh ấy rất dễ hiểu).

Có thể phân ra thứ lớp như sau:
Ðại đại huyệt, đại huyệt, huyệt, và chỗ mẫn cảm. Những vị trí nầy dòng năng lượng đều xoáy theo chiều kim đồng hồ.
Ðại đại huyệt: chính là thân thể con người. Nó chứa tất cả các dòng năng lượng giao thoa lẫn nhau.
Ðại huyệt: là chỗ các dòng năng lượng giao thoa với nhau 49 lần.
Huyệt: là chỗ các dòng năng lượng giao thoa lẫn nhau 21 lần.
Chỗ mẫn cảm: là nơi các dòng năng lượng giao thoa với nhau 7 lần.

Con người có 7 đại huyệt chính là 7 luân xa chính. Có ba luân xa cần chú ý nhiều nhất vì nó khá đặt biệt. Luân xa đỉnh đầu, Luân xa tim, và Luân xa trán (con mắt thứ ba).

Luân xa đỉnh đầu quan trọng nhất vì khai mở được nó chúng ta dẽ nhận được nguồn năng lượng trực tiếp từ vũ trụ và còn nhiều điều huyền bí hơn nữa.

Luân xa tim, có nhiều phái tu luyện lấy ngay vị trí trái tim để làm chính, có nhiều sách xưa thì là ngay giữa ngực ???? Thật sự nó như thế nào ???
Nếu người nào thật sự khai mở được khả năng nhìn vào bên trong thân thể của chính mình (từ vô hình đến hữu hình) thì sẽ biết rõ được cấu trúc của luân xa tim như thế nào.
Luân xa tim được cấu tạo bởi ba cấu trúc khác nhau: Chính giữa ngực, trái tim thịt, trái tim vô hình.

Trái tim thịt thì ai cũng biết, khi nhìn vào quả tim thịt bằng thần nhãn (đã khai mở hoàn toàn) sẽ thấy tim thịt có hai màu là màu đen và màu đỏ. Khi con người sắp hết dương số thì màu đen hầu như hoàn toàn chếm hết quả tim thịt. Nhìn trái tim sẽ biết được người đó còn sống bao lâu nữa. Phần đối diện với trái tim thịt là trái tim vô hình, chủ sức mạnh tâm linh. Phần chính giữa ngực là cơ quan điều hòa giữa hữu hình và vô hình. Ngoài ra phần chính gĩua nầy còn là nơi dùng để sửa đổi cấu trúc DNA của con người (sửa vĩnh viễn hay sửa tạm thời, như các vị tiên gia biến thành hình người nầy người nọ...nếu vào được cũng đừng thọc mạch thay đổi cấu trúc của nó kẻo khổ đời).

Luân xa trán mà người ta biết là nằm ngay giữa hai lông mày (mi tâm), điều nầy phải hiểu là như thế nào???
Cấu trúc của toàn bộ của con mắt thứ ba khá phức tạp không đơn giản như mọi sách vở bán trên thị thường hiện giờ mà chúng ta thấy. Huynh ast2 đã có nói một phần của nó rồi.
Từ huyệt ngọc chẩm nằm sau đầu đến tuyến tùng, từ tuyến tùng đi đến trán là đường chính yếu của thần nhãn. Thần nhãn muốn mở và thấy rõ ràng cần phải có một nguồn năng lượng cực mạnh. Nguồn năng lượng đó có thể lấy từ khí ngũ hành của bản thân, hoặc là từ vũ trụ vào. Nguồng năng lượng càng mạnh thì sự thấy sẽ càng lâu và rõ ràng, nếu luồng năng lượng yếu thì nhiều khi nó chỉ lóe lên trong chớp mắt và không thấy nữa.
Luyện nội công, khí công ...cho đến khi nào đan điền chứa đủ năng lượng nó chạy đến xương cụt sau lưng (huyệt trường cường, cưu vĩ, lư vĩ...), rồi chạy dọc theo đường sống lưng đến ngọc chẩm, từ ngọc chẩm phóng năng lượng vào vùng tuyến tùng, tuyến tùng sẽ hoạt động tích cực để phóng thẳng khả năng thấy của thần nhãn ngay tại trán. Linh ảnh sẽ được hiện lên tại trán (không phải ngay mi tâm).
Vùng tuyến tùng có hai đường năng lượng nối trực tiếp với hai mắt thịt. Con người khi sinh ra thường thường thì hai đường nầy đã thông sẳn rồi, đường chính yếu của thần nhãn tuy có đó nhưng nhỏ như sợi tơ nên không có khả năng thấy. Muốn khai mở thần nhãn thì hai mắt thịt phải dòm vào trong (một số người tu luyện vì muốn mở thần nhãn nên thường lấy tay bịt mắt và tập trung dòm vào trong...). Tập điều khiển làm gián đoạn năng lượng ra hai mắt thịt, dẫn luồng năng lượng đó từ vùng tuyến tùng thẳng đến trán lâu ngày sẽ mở được thần nhãn. Mi tâm có thể ví như cửa sổ của thần nhãn, nó rất cần thiết vì cấu trúc đặt biệt. Mi tâm là đường thông với năng lượng của vũ trụ và cũng có thể thâu nạp năng lượng đó để thần nhãn sử dụng, vì thần nhãn mỗi lần mở ra để thấy nó tiêu hao một số năng lượng cực lớn, năng lượng ngũ hành của thân thể không đủ cung cấp. Nhưng đa số mọi người đều bị tắt nghẽn con đường nầy. Từ mi tâm nó có con đường thông vào ngay đường truyền năng lượng từ tuyến tùng đến trán (nối dính vào chính giữa đường truyền từ vùng tuyến tùng đến trán). Cần phải khai thông con đường nầy thì thần nhãn mới đủ năng lượng để thấy lâu dài và rõ ràng.
Nhiều người chỉ chú ý khai mở mi tâm, cũng thấy được vậy nhưng sự thấy sẽ không sâu, và thường thì chỉ thấy giống như là nhìn ống dòm, màng hình nhìn thấy sẽ có hình thuẫn tròn, hai đầu hơi dẹp như hình trái đất (sự thấy nầy sẽ cục bộ và giới hạn trong một phạm vi nào đó).



Sự hiểu biết của mình chỉ đến mức độ giới hạn như vậy thôi, mong huynh đệ tỷ muội thông cảm. (Nếu không đồng ý thì cứ việc sửa sai cho mình...không giận đâu nhé...)
Chúc mọi người an vui.
_________________
ngao du đây đó
Hay quá, chúng ta lại có thêm một tác phẩm về cái chết và sự tái sanh do huynh hp571 đưa lên trong mục Chuyện Thần Linh. Mời các chư huynh đệ qua đó đọc nhé.

thân ái
Hùng Sơn


Tai hạ vừa đọc xong cuốn sách " Sự Tái Sanh Của Các Lạt Ma Tây Tạng" và cảm thấy sự sống lại, đầu thai của các vị này thật là kỳ diệu và không thể nào chối bỏ được sự thật này. Sách tới 478 trang và tràn ngập hình ảnh cũng như những bằng chừng hùng hồn về sự sống lại của các vị này.

Tiếc rằng tại hạ không dám copy sách lên đây vì Tác giả giữ bản quyền, hơn nữa lại quá dầy nên đành chịu. Nhưng các bạn muốn đọc có thể tới thư viện mượn được.
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:49 am

nên đành chịu. Nhưng các bạn muốn đọc có thể tới thư viện mượn được.

thân ái
Hùng Sơn
mến gửi huynh ANHSANG T2 và các thân hữu .

Tại hạ đang hởi huynh Ánh Sáng T2 về "Hố Đem Vũ Trụ" nay lại vừa vô tình đọc được bài "Lỗ hổng thời gian" sau đây, xin hỏi huynh Ánh Sáng T2 không biết cái vụ này giải thích ra sao . Tại hạ chịu thua, xin huynh biết chỉ cho tại hạ với nhé.

Thân ái
Hùng Sơn





Chào Thầy Hùng Sơn cùng các bạn cùng tham khảo bài viết sau :

LỔ ĐEN VŨ TRỤ

Sau một vụ nổ lớn của một ngôi sao lớn bị hủy diệt , sau khi ngôi sao nầy dùng hết năng lượng nguyên tử của nó , thì hạt nhân của nó rơi vào trung tâm lực hút của tự bản thân nó tạo ra và tạo thành lổ đen , lổ đen nầy có một sức hút rất mạnh , nó hút tất cả mọi vật đến gần nó ; cả đến ánh sáng rơi vào cũng bị biến mất luôn ; thí dụ nếu con người nhảy vào lổ đen thì lực hút ở chân sẽ mạnh hơn lực ở đầu , cơ thể con người lúc đầu sẽ bị kéo dài ra như một một sợi mì ống của Ý , sau đó cơ thể con người sẽ bị biến mất ở điểm vô cực “ Event horizon “ . Những vật bị lổ đen hút sẽ làm gia tăng thêm khối lượng của nó .
Lổ đen có đủ vật liệu để tạo ra 100.000 mặt trời .Có giả thuyết cho rằng lổ đen nằm ở trung tâm của vũ trụ .
Những lổ đen gần nhất địa cầu cũng phải mất nhiều ngàn năm ánh sáng mới đi đến đó được , nên chúng ta không sợ nó .

Những thông tin của khoa học giả tưởng hay điện ảnh , cho rằng khi ta đi vào lổ đen , thì ta sẻ đi sang một thế giới khác có nhiều chiều đo , khác với thế giới vật chất .
Các nhà huyền học cho rằng , khi ý thức con người khi bắt được liên lạc với ý thức của vũ trụ , thì con người giống như đi vào mộ thế giới khác như đi vào lổ đen của vũ trụ vậy .
Những hiện tượng những người và vật đột nhiên biến mất tại một địa điểm nào trên trái đất hay trong không gian , là những hiện tượng xảy ra do những lực phi vật chất tác động , đây là một khoa học hành tinh và UFO , nó khác với khoa học qui ước của địa cầu ; Những người tự bị biến mất và tự nhiên được hiện lại và trả trở về trái đất , là do đám mây năng lượng phi vật chất hay một trường lực phi vật chất cuốn hút lấy , và đem đi một nơi khác , và khi đám mây năng lượng nầy tan đi thì họ liền bị trả trở lại lại trái đất ; đám mây năng lượng phi vật chất nầy có tính chất vô hình , phản chiếu lại toàn bộ ánh sáng , nên con người khi đi vào đó sẻ trở thành vô hình , ý thức và tâm thân của họ đều bị ngưng động , không bị sự chi phối của thời gian và lực hấp dẩn của trái đất ; nên khi họ được trả trở về trái đất , thì cơ thể của họ đều được giữ nguyên trạng và ý thức của họ được trả trở về với họ với những nhận thức của thời đại mà họ đang sống ; điều nầy tương tự như chuyện Lưu Nguyễn lạc cỏi thiên thai vậy , nhưng chỉ có khác là Lưu Nguyễn vẫn còn nhớ lại được , những chuyện tai nghe mắt thấy của cỏi thiên thai , cỏi Tiên vậy .
Một giả thuyết khác , là những vụ mất tích là do người hành tinh khác – UFO dùng kỷ thuật phi vật chất để bắc cóc họ vậy .
Vấn đề vũ trụ là khoa học vĩ mô . Sự phân bố của vật chất vũ trụ không gian vĩnh viển là những lực ba động của những sóng có tần số rung động khác nhau , mật độ ba động nầy mỏng hay đậm đặc ở mổi chổ khác nhau ; tất cả mọi vật đều có biên giới và biên độ của nó , và đây là nơi thăng bằng của dẩn lực , và cũng là nơi mà vật chất và năng lượng ba động có sự trao đổi với nhau ; sự trao đổi biến dạng nầy là tương đối ; vật chất có hấp thu thì đương nhiên phải có sự thải hồi ; sự thay đổi của quang tử là lượng vật chất nhỏ nhất mà ta thấy được , những cái mà chúng ta không trông thấy được không có nghĩa là nó không có sự trao đổi năng lượng ; Không gian và vật chất là tương đối , vật chất có thể chuyển hóa thành không gian và không gian có thể chuyển hóa thành vật chất ; nhưng không gian và vật chất không thể nào cùng một lúc mà bị tiêu diệt và rồi cùng sản sinh cùng một lúc được ; hơn nữa cơ thể xác thân của con người được cấu tạo là để dùng sống trên trái đất , nếu đi vào những không gian vật chất xa hơn thì cần phải chi phí nhiều ngân sách khổng lồ để trang bị cho sự tồn tại của xác thân để sống và làm việc ở những cỏi ngân hà xa xăm , việc làm nầy đôi khi trở thành vô nghĩa , giống như thảy tiền vào một cái giếng không đáy ; tốt hơn là các cường quốc hảy dùng đồng tiền nầy vào việc kiến tạo hạnh phúc ấm no cho nhân loại . Vì những gì là vật chất thì sẽ chịu luật chi phối của vật chất và những gì phi vật chất sẽ bị sự chi phối của những luật phi vật chất ; mà chúng ta đang nghiên cứu trong thế giới huyền học là thế giới vi mô tâm linh , mà tâm thần của con người là một dạng năng lượng có sóng ba động mang thông tin toàn hình “ holographic ‘ đa dạng , nó không chịu sự chi phối của thời gian không gian và lực hấp dẩn của trái đất , nên chúng ta càng phát triển khả năng tâm linh thì con người sẽ có nhiều khả năng khám phá vũ trụ và chúng ta sẽ gầy dựng một khoa học vũ trụ tâm linh để phục vụ cho hạnh phúc cùng an lạc cho con người trên trái đất , ngoài ra con người có thể dùng tâm linh của mình để liên lạc với tâm linh của các loài khác qua khả năng thông linh , vấn đề là ta tìm được con số làn sóng tâm linh của họ ; như vậy con người không cần phung phí và dùng nhiều tiền bạc mà vẩn có thể sống hạnh phúc vậy .
Ngày xưa , khi con người chưa có khoa học kỷ thuật vật chất tiến bộ như ngày nay , thì con người vẩn sống trong sự an lạc hạnh phúc ; ngày nay , mặc dù con người được sống trong sự tiện nghi của đời sống vật chất , nhưng tâm linh con người vẩn sống trong sự an lạc của tâm linh như ngày nào , bởi lẻ những kỷ thuật tâm linh cao cấp ngày xưa chưa được phổ biến cấm chỉ , hay chưa cần dùng cho lúc đó ; nhưng ngày nay những kỷ thuật nầy đã được phổ biến để giúp con người thăng bằng tâm linh và thể chất trong thế kỷ 21 nầy .
Những ai , đang sống trong thời đại văn minh kỷ thuật vật chất ngày nay ,mà tâm linh và tinh thần còn bị giam hảm hay tự mình muốn giam hảm và tự giới hạn mình trong những phạm trù văn hoá tâm linh và tín ngưỡng của thời đã qua ; thì họ luôn bị sự ray rứt cấu xé tâm linh và tinh thần rất khổ sở ; trong khi thể xác của họ cần phải sinh hoạt và hoạt động trong một môi trường kinh tế , kỷ nghệ và nhân dụng cấp tiến của thời hiện đại ; Chỉ có những tinh hoa và tâm linh thực dụng của Huyền Bí Học , Mật Tông và Đạo Gia .......mới có đủ khả năng và can đảm nhìn thẳng vào vấn đề , mà giúp con người khôi phục lại chổ đứng VẠN VẬT CHI LINH của mình , mà nhờ những khoa học tâm linh nầy để thăng bằng cuộc sống tâm và vật , có được cuộc sống hạnh phúc của xác thân và thỏa mản nhu cần tâm linh của mình , mà họ không cần phải bị cấm đoán nầy , cấm đoán nọ trong cuộc sống ; vì một lẻ dể hiểu là những gì mà tạo hóa đã tạo ra cho con người , đều có ý nghĩa và sự hữu dụng của nó cả , vấn đề là con người có biết can đảm và trí huệ để dùng những tạo vật nầy cho cuộc sống thánh thiện, xây dựng , và an lạc hạnh phúc theo nền văn minh tâm linh mới trong thế kỷ 21 nầy hay không .
Chúng ta nên biết rằng tinh hoa khoa học nằm trong Huyền Bí Học , Mật Tông và Đạo Gia .......không phải chỉ gồm những thông tin và văn chương cùng triết học được phổ biến khắp nơi trong internet tôn giáo và xả hội , vì những loại kiến thức và kỷ thuật nầy đả bị mả hoá và phóng đại ,nhiều khi còn bị hướng dẩn sai , vì mục đích chính trị hay tôn giáo thế quyền , nên rất khó cho những người sơ cơ không có trình độ , phải hoang mang , như đi vào một đám rừng thiêng nước độc và dể bị lạc hướng hay bị tẩu hỏa nhập ma . Mà những tinh hoa khoa học nằm trong Huyền Bí Học , Mật Tông và Đạo Gia ...nầy đã được các bậc đắc đạo , những nhà thám hiểm tâm linh như David Nell , Sir John Woodroffe Athur Avalon , Chistoher Hill , Lobsang Rampa , Trần Kiện Dân “ Mật tông “ , Nam Hoài Cần “ Mật Tông và Đạo Gia , Mantak Chia “ Đạo gia “ cùng một số nhà ngoại cảm “ Spychic “ Đông Tây phương khác ; một số lớn tinh hoa nầy được giữ bí mâṭ trong truyền thống huyền học Do Thái , Ba Tư và Hồi giáo và Hạ Uy Di......nhưng một số khác được hệ thống hóa và giãng dạy có hệ thống trong các tổ chức Thập Tự Hôǹg Hoa “ Crosci Cruson “ , hội Tam điểm “ Free masion “ và trong các tổ chức tình báo và quốc phòng của các cường quốc .
Thông qua , trang web Thế Giới Bùa Ngải .com , những tinh hoa nầy sẽ được giải mả và dần dần sẽ được những nhà huyền bí học , ngoại cảm học , khí công học , cận tâm lý học , trường sinh học “ Bio-energy “ , thần thông học , khoa học qui ước ......của giới người Việt , Hoa ,Miên , Lào , Indonesia ; Anh , Pháp , Nga ,Nhật , Đức , Ấn Độ Trung đông ......sẻ được Việt hoá và xuất hiện theo thời gian trên trang web nầy ......

ÁNH SÁNG –T2 – ÚC CHÂU .
Bí mật của hiện tượng siêu trí nhớ
Năm 20 tuổi, cô gái Elina Markand (người Đức) bị tai nạn. Khi tỉnh dậy, Elina bỗng nói tiếng Italy rất thông thạo, mặc dù trước đó cô chưa từng học một ngoại ngữ nào. Cô còn tự nhận mình là Rozetta Caste Liani, công dân Italy, và yêu cầu được trở về thăm quê hương.
Về tới "nhà", Elina mới biết rằng người có tên Rozetta Caste đã mất từ năm 1917. Đón cô là một bà già lụ khụ, xưng là con gái của Rozetta Caste. Elina chỉ tay vào bà già, nói: “Đây là Fransa, con gái tôi!”. Lúc ấy, tất cả mọi người đều giật mình, vì người đàn bà này quả thực tên là Fransa, đúng như Elina gọi.
Câu chuyện của Elina Markand đã trở thành đề tài đầy hấp dẫn cho giới khoa học. Thực tế, trong lịch sử từng có không ít trường hợp tương tự, và hiện tượng “nhớ về quá khứ” không nhất thiết phải bắt đầu từ một chấn thương nào đó, như trường hợp của Elina Markand.
Vào thập niên trước, một cô gái nhỏ người Anh đã biến thành "một người xa lạ" sau khi tỉnh dậy một buổi sáng. Em không nhận ra mẹ và người thân của mình, không nói được tiếng mẹ đẻ trong khi lại thông thạo tiếng Tây Ban Nha, và lúc nào cũng tỏ ra sợ sệt.
Các bác sĩ đều có kết luận giống nhau: Em bé 10 tuổi này không có biểu hiện gì về bệnh lý hoặc tâm thần, sức khoẻ tốt. Em nhận mình là người Tây Ban Nha và sống ở thành phố Toledo. Em kể lại rằng một người cùng phố do ghen ghét và đố kỵ đã đâm chết em năm em 22 tuổi. Cảnh sát Tây Ban Nha đã thẩm tra lại câu chuyện kỳ quặc về “tiền kiếp” của em, và kết luận, đúng như lời em kể. Ở số nhà đó trong thành phố Toledo từng có một cô gái 22 tuổi bị hãm hại. Những người hàng xóm đã tìm thấy xác cô ngay trong nhà. Câu chuyện càng sáng tỏ hơn khi hung thủ (lúc này đã già) tự đến gặp cảnh sát để thú tội.
Các nhà khoa học còn tiếp tục ghi nhận nhiều trường hợp khác. Chẳng hạn có người đột nhiên "biến" thành công dân La Mã cổ đại, và bằng chứng khó chối cãi là anh ta biết sử dụng được thứ ngôn ngữ “nguyên thủy” của mình, không còn ai hiểu nữa. Tương tự như vậy, có người châu Âu bỗng nói tiếng Ai Cập, mất hẳn khả năng dùng tiếng mẹ đẻ. Rồi anh ta mô tả chính xác cảnh vật ở vùng sông Nile, và tự nhận có nguồn gốc Ai Cập.
'Trí nhớ gene'
Một số nhà khoa học đã thử đưa ra một lý thuyết giải thích hiện tượng trên với khái niệm "trí nhớ gene": Nếu các vùng "ngủ" trong ADN bị kích thích, con người có thể "trở về tiền kiếp". Họ bỗng nhớ lại gốc gác La Mã hoặc Ai Cập từ xa xưa. Cũng do ảnh hưởng bởi tiền kiếp mà nhiều người có thói quen xoa râu quai nón, mặc dù trên mặt không hề có râu. Người khác lại có thói quen nhấc vạt áo vét, y như động tác vén váy dài đang mặc khi vượt qua vũng nước.
Nhưng ở cô Elina người Đức và bé gái người Anh thì rõ ràng không hề có quan hệ nào về “gene di truyền” với người mà mình hoá thân, có nghĩa là trường hợp của họ không thể giải thích bằng “trí nhớ gene”. Vậy nó là thế nào? Ở châu Á, người ta rất quen thuộc với thuyết luân hồi của Phật Giáo, cho rằng thể xác con người – tức là cái “bề ngoài” - luôn thay đổi. Còn cái “bên trong thể xác” - tức linh hồn - là vĩnh cửu. Theo thuyết luân hồi, cuộc sống không khởi đầu bằng sự sinh ra, và cũng không kết thúc bằng cái chết. Cuộc sống cứ trôi vô tận. Linh hồn ở mỗi "kiếp" lại nhập vào một thân xác mới. Vì thế, sẽ không lạ khi cô Elina và bé gái người Anh đột nhiên nhớ lại kiếp trước của mình.
Thuyết về kết cấu "phách"
Lại có một số nhà vật lý và sinh học đưa ra cách giải thích vấn đề trên bằng “kết cấu phách”. "Phách" ở đây tất nhiên không phải là "phách" trong âm nhạc, mà là một khái niệm chỉ "phần bất biến" của con người, còn được hiểu là "phần năng lượng tách ra dưới dạng sóng". Khi người chết, “phách” liền tan vào vũ trụ. Vì thế, “phách” có thể hiểu là một loại “trường sóng hạt cơ bản nhẹ”, hoặc là “tập hợp những năng lượng thông tin cá thể”.
Theo các nhà khoa học này, thuyết về phách có thể lý giải được đa phần hiện tượng thần đồng (trong âm nhạc, thi ca, khoa học…). Ở tuổi rất trẻ, những thần đồng này đã tích tụ được lượng kiến thức khổng lồ mà người bình thường cả đời cũng khó có được. Theo thuyết này, “phách” của các thiên tài là sản phẩm của hàng vạn kiếp trong quá khứ dồn lại trong một cơ thể hiện hữu. Nói cách khác, "trường sóng hạt cơ bản nhẹ" hay những "tập hợp thông tin cá thể" đã tập trung vào cơ thể họ theo một quy luật nào đó.
Nhiều nhà khoa học đã mạnh dạn đề cập tới những khái niệm rất mới về hiện tượng "nhớ về quá khứ". Họ đã lập ra một "quy trình công nghệ" cho phép bằng thực nghiệm đưa con người vào trạng thái giữa mơ và thực. Ở trạng thái lơ lửng kỳ ảo này, người tham gia thực nghiệm vẫn nhìn thấy những gì quanh mình, nhưng trong tiềm thức, họ lại thấy cả quá khứ. Phương pháp thực nghiệm này đã được áp dụng để chữa một số bệnh tâm thần và đem lại kết quả.
Mặc dù đã có những thành tựu nhất định, nhưng đến nay, những chuyện về "siêu trí nhớ" gần như vẫn nằm ngoài vòng nghiên cứu của khoa học chính thống. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là nhân loại chịu bó tay để tự rơi vào vòng "bất khả tri", các nhà khoa học vẫn đang tìm cách để giải thích những điều khó giải thích nhất.
Trích tư nguồn Langtieu.com

Thần giao cách cảm, thực và hư
Bệnh viện Sklifosovski sau một vụ nổ bom khủng bố tại quảng trường Puskin, Matxcơva (Nga) đã đón một nữ nạn nhân bị vô số vết bỏng trên người. Khi người chị sinh đôi đến thăm em, các nhân viên vô cùng sửng sốt nhận thấy trên cơ thể khỏe mạnh của cô cũng có những vết bỏng.
Mặc dù không hề nghĩ đến hiện tượng này, người chị đã nhận một phần đau đớn từ em. Sự kiện trên diễn ra vào tháng 8/2000. Đây được coi là một ví dụ về hiện tượng thần giao cách cảm.
Các nhà khoa học từ lâu đã chứng minh được là tín hiệu thần giao cách cảm tồn tại. Từ năm 1989, tại Viện Não thuộc Viện Hàn lâm Y học Nga, người ta đã tiến hành những cuộc nghiên cứu cho phép thu nhận những tín hiệu đó bằng máy đo.
Thử nghiệm
Valeri Guzel, Trưởng khoa Tâm lý thuộc Đại học Nhân văn (Nga) bật máy tính, mở một tập dữ liệu. Trên màn hình hiện lên một người với những vầng hào quang xung quanh và những tia sáng đứt đoạn phát ra. “Đấy là aura, tức trường sinh học của một người được thí nghiệm", ông nói, và giải thích thêm: "Hãy xem, đây là vùng đảm trách công việc của hệ tim mạch, vùng này, cho ruột non, vùng này cho xương cụt… Ở khu vực dạ dày, aura yếu, có lẽ anh ta ăn phải cái gì đó không ổn… Diện tích chung: 36.000 đơn vị. Tính đối xứng 98%, đó là các chỉ số tốt. Còn bây giờ, hãy xem sau khi anh ta tiếp xúc với một người khác, aura giảm bớt: diện tích tụt xuống còn 31.000 đơn vị, tính đối xứng: 76%. Nghĩa là việc tiếp xúc không thành công”.
Sau nhiều năm theo dõi và thử nghiệm, Guzel kết luận là giữa bác sĩ tâm lý trị liệu và bệnh nhân (cũng như giữa bác sĩ và người bệnh hay giữa những người bất kỳ có quan hệ chặt chẽ với nhau) có sự trao đổi dạng năng lượng nào đó. Chúng truyền tải thông tin về sự hoạt động của các cơ quan hay hệ thống trong cơ thể người. Nếu tình trạng của bệnh nhân được cải thiện, thì nhiều khi chính bác sĩ lại gặp dấu hiệu mệt mỏi và trầm uất. Hơn nữa, có khi bác sĩ "nhận" về mình những vấn đề và bệnh tật từ người khác. Đến lượt họ, lại chuyển cho bạn bè, người thân hay bệnh nhân đến sau.
Sự điều chỉnh theo nhau
“Một số trạng thái tâm lý có thể có tính lây nhiễm và được truyền thông qua trao đổi năng lượng", Tiến sĩ triết học, GS Aleksandr Vodolagin (Nga) nói. Ở đây không có gì là huyền bí, đơn giản là khi có sự tiếp xúc, xảy ra hiện tượng liên kết hai hệ thống năng lượng sinh học thành một khối thống nhất. Hiện tượng này được gọi là sự điều chỉnh theo nhau.
Người ta có thể gặp hiện tượng này trong đời sống hằng ngày. Khi bạn hiểu nhau chỉ cần bằng nửa lời nói, khi “hai trái tim cùng nhịp đập”… Chẳng hạn, người ta nhận thấy rằng nếu vợ chồng sống với nhau tâm đầu ý hợp trong nhiều năm, thì cách thể hiện bên ngoài của họ trở nên giống nhau.
Các nhà nghiên cứu đã đưa một con thỏ cái lên tàu ngầm. Còn trên một con tàu ngầm khác, bơi ở đại dương khác, người ta nhốt những đứa con của nó. Vào một thời điểm, khi chích điện vào da thỏ con, da thỏ mẹ đồng thời cũng bị giật theo. Người mẹ và đứa con nhỏ cũng có sự điều chỉnh theo nhau rất mạnh, do vậy “nghe” thấy nhau từ khoảng cách rất xa, giống như hai đài phát sóng vô tuyến cùng trên một tần số.
Hội chứng số đông
Tại sao một người bình thường, khi ở trong đám đông lại hành động như một kẻ mất hồn và hoàn toàn tuân theo “không khí” của đám đông đó?
“Sự điều chỉnh theo nhau của đám đông có sức mạnh lớn nhất. Bất cứ mục đích thống nhất nào, dù có tính xây dựng hay phá huỷ, sẽ dẫn tới một trường mạnh. Aura của đám đông làm thay đổi aura của cá thể, làm cho nó mất tính đối xứng và bằng cách đó làm cảm xúc vượt qua lẽ phải”, Vodolagin giải thích.
Các dấu hiệu đặc trưng cho quốc gia như quốc ca, quốc huy là những yếu tố của sự điều chỉnh theo nhau. Đó là những tín hiệu làm cho bạn khóc và xao xuyến khi nói tới một cái gì đó vĩ đại. Còn nếu đám đông có một thần tượng chung, thì người đó có cơ hội tuyệt vời để thay đổi trạng thái tâm lý của mỗi người. Ví dụ, một nghệ sĩ nghiện ma tuý, bản thân không có ý định tuyên truyền, nhưng vô tình đã “hướng” đám đông những người hâm mộ tới việc thử dùng chất nguy hiểm đó.
Sức hút của nỗi sợ
Ở Mỹ từng xảy ra một chuyện kỳ lạ. Trước khi bộ phim Thân thể (Body) được đưa lên màn ảnh, người ta không thấy có trường hợp nào cá mập tấn công người. Nhưng khi phim được trình chiếu, các con cá hung dữ bắt đầu săn đuổi những người nghỉ trên bãi tắm. Điều gì đã xảy ra?
“Đó là sự lập trình đều khắp, sự định trước vào nỗi lo sợ - ông Guzel đưa ra một giả thuyết - khi con người sợ một cái gì, anh ta sẽ nhận được chính cái đó. Khi tìm cách xua đuổi đối tượng gây ra sợ hãi, chúng ta nhận được sự đáp trả từ nó. Sự đáp trả đó đưa đến chỗ theo đúng không gian và thời gian nơi đối tượng (hay tình huống) chờ đợi chúng ta. Tất nhiên đó mới chỉ là một cách giải thích cho một trong nhiều hiện tượng còn bí ẩn trong cuộc sống của chúng ta.
(Theo Luận Chứng và Sự Kiện, 5/2001)
Bí mật về hiện tượng ảo giác (phần I)


Là thật hay là ảo giác?
Một lần, bạn đang trả lời một người hỏi đường, thì đột nhiên, hai người lạ mặt khênh một cánh cửa đặt giữa bạn và vị khách. Bạn hơi ngạc nhiên một chút, nhưng sau đó hai kẻ bất lịch sự kia đã vội vã khênh cửa đi. Sau đó, bạn vẫn tiếp tục nói mà không nhận thấy một điều kỳ lạ đã xảy ra…
Người khách hỏi: “Chị thấy gì lạ không?”. Bạn nhăn trán... Hình như bạn cảm thấy có gì đó khác lạ nhưng lại không hiểu là gì. Người khách lại hỏi: “Chị thử nhìn tôi kỹ hơn xem nào!” Bạn nhìn rất sâu vào mắt người khách, rồi bạn để ý tới giọng anh ta nói, tới áo quần anh ta mặc… Hồi lâu… A! Bạn bỗng hét lên. Đứng trước mặt bạn là một người đàn ông hoàn toàn khác chứ không phải người đã hỏi đường bạn… Một lúc sau, người lạ này giải thích cho bạn biết rằng, anh ta là một trong hai người đàn ông khênh cánh cửa và đã tráo đổi vị trí với người khách hỏi đường trong thời gian ngắn ngủi khi họ dừng lại giữa hai người…
Trên đây là một ví dụ tiêu biểu về hiện tượng ảo giác, một hiện tượng kỳ lạ và khó hiểu nhất thường gặp trong thực tế. Người làm thí nghiệm này là Giáo sư Daniel Simons, Đại học Havard, Mỹ. Ông đã tiến hành thí nghiệm này trên hàng trăm trường hợp khác nhau và kết quả thật kỳ lạ: Trên 50% các trường hợp, người chỉ đường vẫn tiếp tục nói chuyện với vị khách hỏi đường đã bị đánh tráo mà không nhận ra điều gì lạ, mặc dù hai nhân vật này hoàn toàn khác nhau, từ hình dáng, giọng nói tới quần áo.
Nhận biết có lựa chọn
Hiện tượng trên còn có tên khoa học là “mù thoáng qua”(change-blindness). Cùng với các kết quả thí nghiệm khác, đầu những năm 90, hiện tượng này dẫn tới một giả thuyết gây ra nhiều cuộc tranh luận dữ dội: Cái chúng ta thực sự nhìn thấy ít hơn rất nhiều so với cái chúng ta tưởng rằng đã nhìn thấy. Điều đó có nghĩa là, chúng ta luôn sống trong ảo giác do niềm tin gây ra. Trong thí nghiệm trên, người chỉ đường luôn tin rằng mình đang nói chuyện với cùng một người hỏi đường, nên hoàn toàn không nhận thấy anh ta có sự thay đổi gì sau khi đã bị đánh tráo.
Ông Simons giải thích: "Nếu bạn quan sát một khung cảnh với những hiện tượng xảy ra trong đó, thường bạn chỉ có thể nhận biết một số chi tiết nhất định. Những chi tiết này sẽ được bổ sung thêm nhờ khả năng nhớ lại hoặc trí tưởng tượng của bạn, để cho ra một hình ảnh tổng quát về cái mà bạn đã nhìn được trong não bộ".
Mắt có vai trò như một ống kính
Trong hệ thống ghi chép và lưu giữ hình ảnh, mắt đóng vai trò như một ống kính video. Nó liên tục quét các hình ảnh để đưa và trung tâm xử lý của não bộ. Tại đây, hình ảnh sẽ được phân tích rất nhanh. Thông tin không quan trọng sẽ bị loại bỏ và chỉ có những chi tiết quan trọng nhất giúp con người ứng xử trong hoàn cảnh nhất định mới đọng lại trong não bộ.
"Nhờ có thể lựa chọn giữa những chi tiết quan trọng và không quan trọng nên con người mới tồn tại được", Triết gia Daniel Dennett đã khẳng định như vậy trong một cuốn sách có tiêu đề "Kiến giải về Ý thức". Theo đó, hình ảnh lưu trữ trong não bộ lâu ngày sẽ chiếm quá nhiều bộ nhớ nên nó chỉ ghi lại những gì đã thay đổi và giả định rằng, tất cả những thứ khác vẫn giữ nguyên như vậy.
Chuyện về một con vượn chạy qua...
Daniel Simons lại tiếp tục làm một thí nghiệm sau để chứng minh rằng, thực tế chúng ta luôn bỏ sót những chi tiết nhất định. Ông cho mời 40 người đàn ông tới xem một trận bóng rổ và yêu cầu họ đếm tất cả các đường chuyền của hai đội. Những người đàn ông đều tập trung hết sức vào các pha chuyền bóng. Đột nhiên xuất hiện một con vượn chạy đi chạy lại qua sân bóng đến 5 giây đồng hồ. Sau đó, Simons đã hỏi tất cả 40 người đàn ông này về con vượn và họ đều trả lời là không nhìn thấy gì cả.
“Thường thì người ta không bao giờ nhìn thấy rừng xanh giữa đám cây cối rậm rạp”, Simons nói. Điều đó đôi khi rất nguy hiểm. Các chuyên gia nghiên cứu giao thông cho biết, phần lớn các tai nạn ôtô đều có liên quan tới hiên tượng "mù thoáng qua". Trong thí nghiệm trên, những người đàn ông chúi mắt vào các quả bóng có thể so với người tài xế đang lái xe chạy trên đường và mải mê nghĩ về một chuyện gì đó, còn con vượn đóng vai người qua đường. Thế là xảy ra tai nạn!
Phần II: Ảo giác về nụ cười của Mona Lisa

Bí mật về hiện tượng ảo giác (phần II)


Mona Lisa, nỗi buồn lo ẩn dưới nụ cười.
Nụ cười của Mona Lisa cũng gây ảo giác. Càng nhìn lâu vào khuôn mặt nàng, bạn càng thấy đôi mắt ấy đang cười, rất kiêu sa và rất mãn nguyện. Nhưng chỉ cần nhìn xuống khoé miệng một chút, bạn sẽ thấy khuôn mặt người thiếu nữ nghiêm nghị kỳ lạ. Đột nhiên, bạn không hiểu nàng đang vui hay buồn, thanh thản hay lo lắng.
Trong phần trước chúng tôi đã đề cập tới hiện tượng “mù chớp nhoáng”, giải thích vì sao cặp mắt thường bỏ sót một số chi tiết nhất định khi ta quan sát một khung cảnh nào đó. Hoạ sĩ, triết gia, nhà khoa học thiên tài người Italia Leonardo DaVinci đã “vô tình” lợi dụng hiện tượng này để sáng tạo ra nụ cười bí hiểm có một không hai trên khoé miệng Mona Lisa.
Nhà khoa học thần kinh Margaret Livingstone (Mỹ) giải thích, khi chăm chú nhìn vào đôi mắt của Mona Lisa, bạn chỉ “khoanh” được một khu vực rất nhỏ bên lông mày và gò má. Vì vậy, bạn không nhìn thấy toàn bộ khuôn mặt và không gian đằng sau bức tranh. Khi đó, các nét mờ trên gò má Mona Lisa sẽ hiện lên khá rõ, khiến bạn có cảm giác khoé môi của người phụ nữ cũng được kéo nhếch lên và tô đậm hơn. Kết quả, bạn thấy người phụ nữ cười. Ngược lại, khi bạn nhìn vào miệng nàng thì hiệu ứng này cũng lập tức biến mất cùng với nụ cười ấy. Thì ra, nụ cười này vừa thật, vừa ảo. Người xem tranh Mona Lisa rất khó nhận thấy khi nào nàng cười thật và khi nào nàng cười ảo. Đây chính là bí mật lớn nhất về Mona Lisa, nó giải thích vì sao mấy trăm năm nay, người xem luôn có cảm xúc rất trái ngược khi đứng trước bức tranh này. Có điều, khi sử dụng “mẹo” này, Leonardo DaVinci có lẽ đã không vận dụng đến kiến thức khoa học mà dựa vào kinh nghiệm của một nghệ sĩ nhiều hơn.
“Mắt thần”
Bài nghiên cứu của Giáo sư Itzhak Fried, Đại học California (Mỹ) đăng trên tạp chí khoa học The Lancet năm 1992 khẳng định: "Để nhận biết hình ảnh, con người cần rất ít thực tế". Đây là một kết luận thật khó hiểu. Để tìm hiểu xem Fried nói gì, một lần nữa, chúng ta lại phải quay lại… Mona Lisa.
Fried cho mời 100 người đàn ông tới một cuộc thử nghiệm. Ông chia họ làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất được nhìn thấy bản sao của Mona Lisa treo trên tường, còn nhóm thứ hai tới một căn phòng trống trơn để nghe một người kể về bức tranh. Sau đó ông mời hai nhóm tới một căn phòng khác và đề nghị họ miêu tả lại bức tranh. Trong khi những người này miêu tả, Fried dùng một phương pháp đặc biệt để đo các hoạt động trong não bộ của họ. Kết quả thật kỳ lạ: Não bộ của những người này đều vận động các tế bào giống hệt nhau và “bức tranh” mà họ kể lại khá giống nhau: Chúng đều là sản phẩm của rất ít thực tế và rất nhiều tưởng tượng.
“Điều quan trọng không phải là chúng ta nhìn thấy bức tranh thật hay chỉ ngồi tưởng tượng. Mỗi người đều có một con mắt thần - bộ phận lưu giữ các hình ảnh tưởng tượng - giúp chúng ta có thể tổng hợp hình ảnh và trình bày một khung cảnh nhất định”, Fried nói.
Thực tế và ảo giác
Tại sao bạn luôn có cảm giác rằng bạn có một bức tranh đầy đủ và thực tế về cuộc hiện sinh này?. “Bởi vì rất hiếm khi bạn gặp được ai đó chỉ cho thấy điều ngược lại!”, các nhà nghiên cứu hành vi giải thích.
Não bộ của bạn luôn thu nạp và xử lý một số hình ảnh mà mắt bạn “quét” được từ thực tế, nhưng nó còn thu nhận một khối lượng lớn hơn nhiều các hình ảnh từ kho kinh nghiệm và trí tưởng tượng của bạn. Mặt khác, việc não bộ của bạn lựa chọn “thực tế” nào lại do trí tưởng tượng quyết định. Ví dụ, mắt bạn “quét” được toàn cảnh một cánh đồng gồm nhiều bươm bướm và chuột, nhưng nếu trí tưởng tượng của bạn chỉ “thích” bươm bướm thôi chẳng hạn, thì não bộ sẽ tự động xoá những con chuột ra khỏi bức tranh. Kết quả là bạn chỉ nhớ được một bức tranh toàn bươm bướm. Tóm lại, bức tranh tổng thể về thế giới của bạn phần nhiều là tưởng tượng chứ không phải thực tế. Nói cách khác, thế giới chỉ do ảo giác mà có.



Ảo giác "Hoa thủy tiên" của Salvador Dali.
Các nghiên cứu mới nhất về khoa học thần kinh cho biết, không ai có thể cùng một lúc nhìn thấy tất cả những chi tiết của một bức tranh. Mỗi vật thể, dưới con mắt của người khác sẽ có một hình thù khác hẳn. “Nhìn và lựa chọn hình ảnh là một quá trình sáng tạo, y hệt như vẽ một bức tranh vậy. Sản phẩm của nó chỉ vô tình trùng lặp với thế giới của những hiện tượng vật lý mà thôi”, các nhà khoa học giả thuyết.
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:50 am

Chuyện chọn áo nhầm màu trong siêu thị
Nếu giả thuyết trên được ủng hộ hoặc kiểm chứng thì đó sẽ là một tin mừng lớn với nhà vật lý thiên tài Isaac Newton. Cuối thế kỷ 17, Newton đã có ý tưởng cho rằng, mọi vật tự nó đều không có màu sắc nếu không có sự hiện hữu của ánh sáng. Tuy vậy, não bộ của chúng ta vẫn cố gán cho chúng một màu sắc nào đó.
Hai nhà sinh học thần kinh Dale Purves và Beau Lotto, Đại học Duke (Anh), cho biết: “Màu sắc là sản phẩm của cảm nhận chứ không phải thực tế”. Theo đó, con người có thể thu nạp hình ảnh dựa trên tưởng tượng và kinh nghiệm một cách khá chính xác. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng như vậy. Nhiều trường hợp, người mua hàng chọn một chiếc áo theo màu ưa thích trong siêu thị, nhưng khi về nhà mới phát hiện ra nó có màu khác hẳn. Nguyên nhân là khi ở cửa hàng, người đó đã chọn màu theo tưởng tượng và kinh nghiệm chứ không phải theo màu thực do mắt “quét” được.
Vấn đề nhân chứng
Nếu các hình ảnh lưu giữ trong não bộ không có liên hệ gì rõ ràng với thế giới hiện hữu, thì ai có thể khẳng định rằng, cái anh ta nhìn thấy là “thật sự đã xảy ra”, hay đó chỉ là “ảo giác”. Trong thí nghiệm ở phần thứ nhất, người phụ nữ đã nói chuyện mấy phút liền với khách khỏi đường mà không nhận ra anh ta đã bị tráo đổi. Vậy thì lời kể của nhân chứng trong một sự kiện chỉ diễn ra chớp nhoáng có thể tin được hay không? Hơn nữa, ở thời điểm xảy ra sự kiện, nhân chứng thường khá thờ ơ, thậm chí anh ta đang chú tâm vào một việc gì đó hoàn toàn khác. Thế thì, nhân chứng có khác gì những người đàn ông xem bóng rổ, không hề nhìn thấy con vượn đi qua.
Nhà khoa học Stephen Kosslyn, Đại học Haward, còn làm một thí nghiệm như sau: Ông mời 10 người xem bức ảnh của một người đàn ông. Sau đó, ông cho họ xem một bức ảnh khác cũng của người ấy với một số nét thay đổi về quần áo và kiểu tóc. Khi được mời kể lại về sự khác biệt giữa hai bức ảnh, 10 người này đã nói rất khác nhau, trong đó có nhiều chi tiết không hề có trong cả hai bức ảnh. Kosslyn kết luận: “Con người không thể phân biệt được đâu là thông tin khách quan (thực tế) và đâu là tưởng tượng. Bình thường, họ thu nhận hỗn hợp của cả hai”.
Một mình giữa cõi đời
Có lẽ còn lâu khoa học mới giải thích được mối liên hệ giữa nhận biết, thực tế và tưởng tượng. Tuy nhiên ngày càng có nhiều giả thuyết cho rằng: Thế giới thị giác đầy đủ của chúng ta được hình thành từ một số hình ảnh cụ thể, kết hợp với một số hình ảnh chìm sâu trong kho kinh nghiệm và…rất nhiều tưởng tượng.
Vì mỗi người đều có một trí tưởng tượng riêng, nên mỗi người đều cô độc trong một thế giới của những hình ảnh thị giác đơn lẻ. Tiến sĩ Richard Gregory, nhà tâm lý, tác giả của rất nhiều cuốn sách về tri thức của thị giác đã đưa ra một tổng kết bi quan như sau: “Thế giới thị giác mà bạn đang sống là ngôi nhà riêng của bạn. Thỉnh thoảng bạn lại nuôi ảo tưởng rằng, có thể chia sẻ nó với một người nào đó. Nhưng thực tế, chẳng ai có thể chia sẻ với bạn. Bạn chỉ có một mình mà thôi... Một mình giữa cõi đời này”.
Minh Hy (Theo Surfmed News)
Sự thật về hiện tượng người tự bốc hoả


Minh họa một vụ cháy tự phát. Từ trái sang: người ngồi trên ghế, bốc cháy và hoá than với đôi chân còn nguyên vẹn.
Vị khách đến gõ cửa nhà bà Reeser, một phụ nữ luống tuổi về hưu sống tại bang Florida, Mỹ. Mãi không thấy ai ra, bà gọi thêm người phá cửa. Trong nhà, trên chiếc ghế bành, chủ nhân đã cháy thành than, chỉ còn lại một bàn chân đi giày vải, xung quanh, đồ đạc hầu như vẫn nguyên vẹn…
Sự việc này xảy ra vào năm 1951. Bà Reeser chỉ là một trong nhiều trường hợp được lịch sử ghi nhận là nạn nhân của cái chết rất lạ: tự bốc hoả thành than. Vào năm 1660, dư luận Paris từng rộn lên với vụ cháy “tự nhiên” của một phụ nữ nghiện rượu nặng, chỉ còn lại vài đốt ngón tay và chiếc sọ.
Điều lạ là trong mọi vụ cháy, các nạn nhân đều để lại các dấu hiệu giống nhau: thân thể hoá than nhưng bao giờ cũng sót lại một bộ phận không cháy trụi, thường đó là cẳng chân hay bàn chân và lại còn nguyên vẹn đến kỳ lạ.
Người ta không hiểu lửa từ đâu ra, vì xung quanh nạn nhân, thường được tìm thấy trong tư thế ngồi trên ghế, lửa hầu như không gây hư hại. Chính vì vậy, các nhà quan sát thời đó không chút nghi ngờ, một mực cho rằng lửa nhất thiết phải khởi phát từ phủ tạng của nạn nhân. Khởi phát từ một lý do… không rõ và bất ngờ. Vì thế, tên gọi mà bấy lâu người ta vẫn gán cho hiện tượng bí ẩn trên là “Vụ cháy người tự phát”.
Ngọn đuốc cồn?
Một giả thuyết không khỏi khiến người ta nghĩ đến ngay, do nó được suy ra một cách tự nhiên từ những đặc trưng của các nạn nhân chính đều là những người nghiện rượu nặng, kinh niên. Nếu họ bốc cháy thì lý do có lẽ cũng rất đơn giản: nốc quá nhiều chất men, khiến rượu thấm vào cả cơ thể và chỉ cần một tia lửa là đủ làm họ bốc cháy.
Lập luận nghe có vẻ xuôi tai, nhưng kỳ thực quá vội vã, hấp tấp. Bác sĩ Mercier Guyon giải thích: Cứ lấy thử một tỷ suất khổng lồ là trong mỗi lít máu nạn nhân có đến 9 g rượu, tương đương một lượng rượu có thể gây tử vong nếu nó được uống cạn một hơi. Một lít máu cân nặng chừng 1000 g, vậy tỷ lệ rượu ở đây là 0,9%: gí lửa vào một chất lỏng có độ cồn yếu đến vậy cũng chẳng khác gì thử đốt cháy nước giải khát soda!
Và ngay cả khi toàn cơ thể người nghiện rượu có thấm chất men đến đâu đi nữa, nó cũng không thể bốc cháy. Từ 1850, nhà hoá học Đức Justus von Liebig đã chứng minh rằng không thể nào đốt cháy ra tro các mô của con người tẩm rượu pha loãng chỉ với một ngọn lửa đơn thuần.
Bốc lửa vì stress?
Lại có một giả thuyết được đưa ra như sau: con người lắm khi có thể đóng vai trò của những ắc-quy điện và thu sét. Những người có trí tưởng tượng hơn cả còn nói đến một dạng “tự sát tâm thần”: cơ thể bốc lửa dưới tác động của stress cao độ! Kỳ thực vấn đề không dễ dàng giải quyết như vậy.
Chẳng hạn Thomas Krompecher, bác sĩ pháp y ở Đại học Lausanne (Thuỵ Sĩ) đã phải trăn trở: “Cơ thể con người được tạo ra bởi gần 70% là nước. Điều đó khiến việc đốt cháy là cực kỳ khó khăn!”. Quả vậy, để đốt cháy một xác người cần một nhiệt độ rất lớn. Trong một lò đốt xác, để thiêu xác người thành tro phải đạt nhiệt độ 950 độ C, trong một tiếng rưỡi. Còn muốn đạt kết quả đó ở bên trong một ngôi nhà, phải dùng nhiên liệu như xăng. Và kết quả sẽ ra sao? Một ngọn lửa mạnh như vậy sẽ lan tỏa khắp ngôi nhà. Mà điều này lại không khớp với chuyện kể về các nạn nhân của chứng bốc hoả đáng sợ: các xác chết cháy thành than một phần, nhưng xung quanh rất ít bị ngọn lửa xâm hại.
Lời giải
Cuối cùng, các nhà khoa học cũng đưa ra được một đáp án hợp lý hơn cả. Đó là hiện tượng “hiệu ứng đèn cầy”, không có chút gì là siêu nhiên. Theo giả thuyết này, ngọn lửa được truyền lan sang thân thể của nạn nhân qua một nguồn bên ngoài, cứ thế thiêu cháy dần dần thân thể người đó như một ngọn sáp cháy vậy.
Đại thể, kịch bản bao giờ cũng như nhau: Bị một sự cố gì về tim hay ngã, một người tắt thở. Lửa, từ một vật trung gian là thuốc lá, tẩu hay một đèn cầy, cháy lan ra áo quần, rồi cháy đến da và lớp mỡ nằm ngay dưới da. Tiếp xúc với lửa, mỡ này tan ra nước, chảy ra bên ngoài thân thể, thấm vào các lần vải tiếp xúc với nạn nhân. Trong phần lớn các trường hợp thì đấy là quần áo đang bận trên người, đồ phủ ghế tựa trên đó nạn nhân đang ngồi. Đồ vải thấm ướt mỡ sẽ cháy từ từ trong nhiều giờ. Sự cháy này tạo ra và duy trì một ngọn lửa cháy đượm có nhiệt độ xấp xỉ 600 độ C, nó không làm hư hại được toàn gian phòng mà chỉ thiêu huỷ được xác chết trên đó nó được phát sinh ra.
Sự cháy chậm kéo dài có thể làm hư hại một số bộ phận của thân thể, nhưng vẫn không làm chúng cháy thành tro và để lại một số bộ phận hoàn toàn lành lặn. Mark Benecke, bác sĩ pháp y tại Đại học Cologne (Đức) giải thích: lửa chỉ thiêu huỷ các mô của cơ thể người chết nằm phía bên trên ngọn lửa. Hai bàn chân và cẳng chân thường còn nguyên vẹn là do chúng nằm bên dưới ngọn lửa.
Lửa thường bắt cháy từ hai đùi của một người ngồi, hầu hết là những người già hay đứng tuổi - lớp người dễ gặp tai biến về tim khiến họ phải ngồi lỳ một chỗ - hoặc những người đang cơn say rượu khi thảm cảnh xảy đến. Chính rượu tạo thuận lợi cho loại tai nạn đó. Trước hết, một ai đó khi say thì ít chú ý đến loại lửa mà họ đang cầm trong tay, sau nữa rượu góp phần làm hình thành mô béo, có nghĩa mỡ là chất đốt chính trong vụ cháy chậm này.
Rõ ràng, hiện tượng người cháy “tự nhiên” hay “tự phát” lâu nay chỉ là huyền thoại hoặc huyễn hoặc, được nuôi dưỡng bởi trào lưu văn học kinh dị thế kỷ 19 và đặc biệt trong các chuyện tranh vui của Mỹ sau này.
Kiến thức ngày nay (theo Science et Vie Junior, 5/2001)
Trích tư nguồn Langtieu.com
LÀM THẾ NÀO ÐỂ THẤY ÐƯỢC TIỀN KIẾP

Tiềm thức của mọi người là cái kho chứa mọi chuyện xãy ra trong quá khứ, sự suy nghĩ, cảm giác, và kinh nghiệm đã trãi qua trong cuộc đời, cùng sự tích lũy kiến thức. Mọi thứ đã học hỏi và trãi qua trong vô lượng kiếp điều được tích lũy tại bộ nhớ của vũ trụ, tiềm thức là một phần của bộ nhớ đó. (phần bộ nhớ của vũ trụ là một đề tài khác nằm trong phần nghiêng cứu khác). Muốn nhớ lại tiền kiếp bạn phải sẳn sàng chuẩn bị đủ điều kiện cần phải có. Ðiều kiện đó là : bạn phải thật sự muốn biết, bạn có khả năng biết tiền kiếp của bạn (xác định rằng bản thân có khả năng đó vì tiền kiếp của bạn thì bạn có quền biết nó), tin tưởng rằng khi đi sâu vào tiềm thức bạn nhớ lại được tiền kiếp của chính bạn.
Sự nhớ lại rất quan trọng vì nó sẽ giúp bạn trong kiếp hiện tại nầy. Khi bạn đến được cánh cửa tiềm thức, tiềm thức bắt đầu cho bạn nhớ lại bằng cách trả lời một số chuyện mà làm cho bạn phải phản ứng bằng sự cảm nhận để đo lường mức độ chịu đựng và phản ứng của bạn khi biết được những chuyện tương tự như vậy, và tiềm thức sẽ cho bạn biết với tình huốn như vậy trong tiền kiếp bạn hành động như thế nào và trong kiếp hiện tại nó ảnh hưởng đến cá tính bạn như thế nào, bạn đã học được cách đối phó chưa... Tiềm thức cần khẳng định bạn đã hiểu sự liên quan mọi hành động của tiền kiếp đều ảnh hưởng đến kiếp hiện tại (tâm đã vững, tiến hóa đã cao, đã đến lúc bắt đầu giải nghiệp). Tiềm thức sẽ giúp bạn thay đổi cuộc sống hiện tại, giúp bạn học hỏi cuộc đời, giúp bạn cân bằng nghiệp lực, và hướng dẫn linh hồn bạn tiến hóa cao hơn.
Mỗi lần tái sinh, linh hồn sẽ có một xác thân mới, một bộ não mới, sống một cuộc đời mới. Tiềm thức là bộ nhớ và kiến thức của linh hồn, nó sẽ ảnh hưởng đến mọi hành động và những chuyện sẽ xãy ra trong cuộc đời hiện tại. Xác thân và tiềm thức cũng giống như một máy computer. Xác thân là phần ngoài giống như khi mở computer lên, màng hình sẽ cho ta thấy mọi thứ xuất hiện trên màng hình (nhưng làm sao nó hiện lên được là do phần nào trong máy điều khiển ?), xác thân được xem như là phần Beta. Tiềm thức là phần chứa các dữ kiện và những bài programs dùng chạy computer để cho màng hình xuất hiện mọi thứ trên màng hình, tiềm thức được xem như là phần Alpha. Xác thân học hỏi, tiềm thức nhớ vào và phân tích những đữ liệu để cho ra phương án hành động. (nói ví dụ cho dễ hiểu).
Bộ não xác thân rất giới hạn, chỉ có thể suy nghĩ trong một giới hạn cục bộ theo những thông tin mà bộ não nhận được trong cuộc sống hiện tại, và còn bị chi phối bởi hoàn cảnh xã hội hiện đang sống. Beta (xác thân) chỉ hoạt động để học hỏi và phân tích trong một kiếp duy nhất. Sau khi học hỏi xong, tất cả nhũng dữ kiện đã học hỏi chuyển vào Alpha (tiềm thức).
Trong cuộc sống hiện tại Alpha cũng đã làm việc tích cực, phân tích, suy đoán, cho ra những mệnh lệnh thông qua bộ não. Nhưng đa số bộ não không đủ sức thông hiểu và thi hành đúng theo chỉ thị của tiềm thức, nên hành động có sai lạc. Tiềm thức rất bận rộn vì phải làm việc với một lượng thông tin và dữ liệu của hằng ngàn kiếp, nên nhũng mệnh lệnh đưa ra rất khó thực hiện, đó là lý do tại sao đôi lúc xác thân gây nghiệp khi thực thi sự giải nghiệp.
Khi thông tin từ Alpha đưa ra, vì dữ liệu quá lớn khiến cho bộ não không thể tiếp nhận nổi, cũng giống như computer ran out of memmories, nên bị cháy. Tiềm thức sẽ đưa thông tin báo động đỏ, xác thân bỏ qua sự lý luận đáng lẻ phải có, do đó đôi lúc xác thân quyết định một việc không suy nghĩ trước hoặc suy nghĩ chính chắn trước khi làm. Quyết định đó xãy ra trong chớp mắt, đôi lúc làm thay đổi cả cuộc đời.
Hiểu được phương pháp làm việc của tiềm thức và xác thân, là bắt đầu hành trình tiến vào tiềm thức để thấy tiền kiếp của mình. Vừa bước đến ngưỡng cửa tiềm thức là gặp ngay tầng cảm xúc. Cảm xúc đó là kết quả của tình cảm những hành động và những sự việc xãy ra trong tiền kiếp, chưa thể thấy được tình cảm thật và sự thật xãy ra trong tiền kiếp. Sở dĩ có tình trạng như vậy là để bảo vệ xác thân khỏi bị khủng hoảng tinh thần vì sợ xác thân khó chịu đựng nổi những sự việc xãy ra trong tiền kiếp. Sau khi đã quen với cảm xúc đó rồi thì tiềm thức bắt đầu cho thấy một số mảnh sự việc thật sự xãy ra và tình cảm trong hoàn cảnh đó trong tiền kiếp nhưng không liên tục, để xác thân quen dần. Ðầu tiên tiềm thức sẽ cho thấy những sự việc trong tiền kiếp có hoàn cảnh tương tự như kiếp hiện tại trước, để đo lướng mức độ phản ứng của xác thân, sau đó sẽ cho thấy nhiều hơn nữa, và từ từ sẽ thấy rõ dần và chi tiết từng sự việc trong tiền kiếp. Nhớ kỷ rằng tiềm thức sẽ cho thấy cảm xúc trước tiên, sau đó mới cho thấy toàn bộ về tiền kiếp.
Phải làm cho tâm định tĩnh để tiếp nhận những cảm xúc mà tiền kiếp thử thách, cứ cho những cảm xúc trôi qua một cách nhẹ nhàng, hãy tin những cảm xúc đó là sự thật (nó thật lắm đó, đừng vì sợ mà chối bỏ) thì tiềm thức sẽ nhận ra rằng xác thân đã đủ sức để tiếp nhận sự thật, và từ đó mọi việc sẽ ra liên tục, cuộc đời bạn thay đổi từ đó. Bạn biết chắc chắn có kiếp sau, nếp sống cũng thay đổi hẳn...
Làm thế nào để bắt đầu bước vào trạng thái yên tĩnh hầu tiếp xúc với tiềm thức đây?
Tìm một chỗ yên tĩnh, trên giường trên ghế hay chỗ nào cũng được, sao cho thân thể có thể thư giản nhẹ nhàng, hít thở sâu, nhẹ,ỳ và tứ tốn.

Tập trung vào hơi thở, nói thầm trong đầu “hít vào toàn thân thư giản, thở ra tâm tĩnh bình yên”. Hít thở sâu và tự nhiên theo cách trên một khoảng thời gian sau đó nói thầm trong đầu “hít vào đầy đủ năng lực và yên tĩnh, thở ra đầu óc trong sáng không tạp loạn”
Hít vào thư giản... thở ra yên tĩnh.
Hít vào mọi vật yên tĩnh... thở ra vắng lặng.
Hít vào thư giản thẩm thấu toàn thân...
Mọi tế bào đều thư giản...
Mọi dây thần kinh đều thư giản...
Toàn thân đang ở trong trạng thái thoải mái...
Thoải mái một cách tự nhiên...
Cảm nhận sự bình an thấm nhập vào cơ thể...
...................
Bắt đầu tưởng tượng một cầu vồng bảy màu ở phía trên, cầu vồng buổi sáng có ánh mặt trời chiếu xuyên qua.
Màu sắc linh động và thuần khiết...
kết hợp hài hòa...
Cầu vồng đẹp nhất chưa bao giờ thấy qua...
Ðang ở tại một nơi mà có thể với tới trời và đất...
Ði vào cầu vồng một cách dễ dàng...
Có thể hít thở màu sắc vào người...
Hòa nhập vào màu sắc tự nhiên...
Dễ dàng đi qua hết màu sắc cầu vồng...
Ðến tận cùng bầu trời...
Hòa nhập vào vũ trụ...
................
Thân thể nhẹ nhàng bay lên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu đỏ cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu đỏ...
Hít thở màu đỏ tươi sáng...
bạn biến thành màu đỏ tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu đỏ vũ trụ...
bạn cảm nhận được năng lượng vũ trụ...
bình yên và sung sướng...
................
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tấng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu cam cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu cam...
Hít thở màu cam tươi sáng...
bạn biến thành màu cam tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu cam vũ trụ...
bạn cảm nhận được sự tự do tự tại...
bình yên và sung sướng...
............
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu vàng cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu vàng...
Hít thở màu vàng tươi sáng...
bạn biến thành màu vàng tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu vàng vũ trụ...
bạn cảm nhận và hiểu được vũ trụ...
bình yên và sung sướng...
..............
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu xanh lá cây cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu xanh lá cây...
Hít thở màu xanh lá cây tươi sáng...
bạn biến thành màu xanh lá cây tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu xanh lá cây vũ trụ...
bạn cảm nhận được sức sống và sự phát triển vũ trụ...
bình yên và sung sướng...
...................
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu xanh nước biển cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu xanh nước biển...
Hít thở màu xanh nước biển tươi sáng...
bạn biến thành màu xanh nước biển tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu xanh nước biển vũ trụ...
bạn cảm nhận được mọi sự trong vũ trụ đều là nhất thể...
bình yên và sung sướng...
...................
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu xanh da trời cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu xanh da trời...
Hít thở màu xanh da trời tươi sáng...
bạn biến thành màu xanh da trời tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu xanh da trời vũ trụ...
bạn cảm nhận và hiểu mọi sự trong vũ trụ mà ngôn ngữ không thể diễn tả...
bình yên và sung sướng...
..................
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
Hòa nhập vào màu tím cầu vồng...
Vũ trụ toàn màu tím...
Hít thở màu tím tươi sáng...
bạn biến thành màu tím tươi sáng...
Bạn là toàn thể màu tím vũ trụ...
bạn và vũ trụ là một, bạn là trí nhớ vũ trụ...
bình yên và sung sướng...
.................
Phía trên là màu trắng lung linh huyền ảo. Màu trắng bình an ấm áp, sẽ bao bọc toàn thân bạn và bảo vệ bạn. Bạn an tâm, bình yên và sung sướng.
Thân thể nhẹ nhàng bay lên tầng trên một cách tự nhiên...
hòa vào màu trắng lung linh...
Toàn thể điều màu trắng...
Hít thở màu trắng lung linh...
Trong ngoài toàn thân đều màu trắng lung linh...
Bạn là màu trắng...
Tay bạn đang cầm chìa khóa vũ trụ...
Chìa khóa màu vàng rực rỡ...
Chìa khóa đi vào bộ nhớ tiền kiếp...
Thấy và cảm nhận rõ ràng từng chuổi sự việc liên quan đến kiếp hiện tại...
Màu trắng hiểu biết và bảo vệ bao bọc toàn thân...
Bạn nhớ lại tiền kiếp rất rõ ràng...
Bình yên và sung sướng...
.................
Bạn ngó xuống cầu vồng...
Ði vào cầu vồng hòa nhập vào màu tím...
Xuống tầng nữa, hòa nhập vào màu xanh da trời...
Xuống tầng nữa, hòa nhập vào màu xanh nước biển...
Xuống tầng nữa, hòa nhập vào màu xanh lá cây...
Xuống tầng nữa hòa nhập vào màu vàng...
Xuống tầng nữa hòa nhập vào màu cam...
Xuống tầng nữa hòa nhập vào màu đỏ...
Xuống tầng nữa, cầu vồng đang ở trên đầu bạn...
Ánh sáng mặt trời chang hòa chiếu tan mây mù, bầu trời trong sáng...
Ánh sáng rực rỡ ấm áp và bình yên, chiếu rọi lên bạn làm tăng sự nhớ lại tiền kiếp...
Bộ não bạn phát triển sự thông hiểu vũ trụ...
Bạn đã tìm ra kho tàng giá trị nhất cuộc đời...
Bạn hiện tại đang hiện diện trên mặt đất, và trở lại trạng thái bình thường với sự hiểu biết tuyệt vời về vũ trụ............................

Trước khi thực hành nên đọc bài thơ nầy ba lần:

Tôi biết và tôi mong muốn
Nhớ những cuộc đời tôi đã trãi qua
Dễ dàng như ngắm đóa hoa
Từng dòng cuộc sống chan hòa trong tôi
Sự nhớ lại làm tôi thay đổi
Hiểu được rằng đời nầy nối đời kia
Sẽ giúp tôi diệt trừ tội lỗi
Ðã đã tạo thành bởi sự vô minh.


Bạn thực hành một thời gian không lâu thì đã bắt đầu nhớ lại từ từ từng chi tiết một. Nhưng nhớ là những sự thấy ban đầu nhiều khi không đúng sự thật, vì tiềm thức cần xác định bạn đã đủ điều kiện để đi vào nó chưa.
Màu trắng nói trên không phải là màu trong veo mà phải là màu như sửa, thứ tự của màu sắc không được thay đổi và cũng không được dùng màu khác thế vào. Vì dùng màu khác thế vào sẽ không đúng pháp và sẽ không thể thấy được tiền kiếp của chính mình.
Khi đã dễ dàng đi vào tiền kiếp một số người sẽ có khả năng của tiền kiếp (khả năng nào đó mà không cần học hỏi) như ngôn ngữ, võ thuật, nhạc... Nhưng đừng tham lam cố gắng để có nhiều khả năng quá, bộ não sẽ không đủ sức chứa hết những kiến thức thì sẽ tự gây họa cho mình.
Khi đã biết được nguyên nhân tại sao trong đời nầy mình được cái nầy, bị cái kia, cùng sự liên quan với những người chung quanh, sự thương ghét sẽ thay đổi một cách mảnh liệt. Hãy để tâm an như bất động đối với tiền kiếp, mà hãy đối sử với những người chung quanh như bạn như chưa hề biết nguyên nhân của tiền kiếp. Nếu không thể kiềm chế tâm tình của chính mình thì ngưng luyện ngay lập tức trước khi cảm súc điều khiển trí óc của bạn.
_________________
ngao du đây đó
Theo trong các bài tham khảo trước , con người có hai phương pháp tái sinh :
- Một là được sanh ra từ bụng mẹ , hoặc qua phương pháp Phowa thông thường nhưng khi được sinh ra thì trí nhớ đa số đều bị mất .Cả đến phương pháp Cloning Nhân Bản Vô Sinh , thì tâm thần đều trong trắng .
- Hai là theo phương pháp chuyển di thần thức theo phương pháp Phowa Trọng Sinh đặc biệt , Di Hồn Đại Pháp hoặc phương pháp Tá Thi Hoàn Hồn , Kim Thiền Thoát Xác của Đạo Gia , thì có thể giử được toàn vẹn trí nhớ và tài năng của mình .

Về phương diện vật chất thì cơ thể con người có thể được tái sinh qua sự thụ thai và sự sanh đẻ của người mẹ , hoặc phương pháp cloning nhân bản vô sinh , nhưng còn sự tái sinh của linh hồn và thần thức thì cần phải thông qua phương pháp PhoWa trọng sinh , Di Hồn Đại Pháp của Mật Tông Tây Tạng hay Phương pháp Tá Thi Hoàn Hồn hay Kim Thiền Thoát xác của Đạo Gia .
Nhưng những phương pháp nầy , cần phải chiếm lấy một cơ thể của một người khác , công việc nầy không hợp thời và không hợp với luật pháp hiện đại , còn việc dàn xếp để được quyền sang nhượng cơ thể lại từ một người vì một lý do nào đó , trong khi cơ thể còn trẻ tốt mà linh hồn nầy vì lý do nào đó mà phải từ giả cỏi đời sớm , thì việc nầy khó dàn xếp và khó tìm .
Chỉ còn một cách , là con người có thể lấy từ tế bào của mình để cloning làm ra một người thứ hai giống hệt như mình , thuộc quyền sở hữu của mình với sự hợp pháp của luật pháp tương lai , thì con người có thể dùng các phương pháp tâm linh như trên mà Di hồn qua một cơ thể mới , như vậy mới đúng nghĩa trọn vẹn của sự tái sinh tâm thân hoàn toàn .
Còn trường hợp ngoại lệ của sự đồng bộ nảo bộ con người tái sinh với bức xạ tàn dư hoặc đồng bộ bắt được ký ức vũ trụ để có hiện tượng nhớ lại kiếp trước hoặc Thiên Tài thì quá hiếm và không đồng đều .
Trong việc tái sinh trọn vẹn của cả thân tâm con người thì sự tái sinh của ký ức và tài năng con người còn nằm trong vòng bí ẩn và nghiên cứu , nó thuộc lảnh vực năng lượng sinh thái của tâm năng , giống như lảnh vực điện tử , vi tính và sinh năng lượng học mà nhờ nghiên cứu và tập luyện những khả năng khai mở thần nhản , thuật xuất hồn , vía , khả năng điều khiển người khác từ xa , đọc tâm thuật ....những kỷ thuật của ma quỷ dùng để làm ra hiện tượng ma nhập và trục quỷ của các vị đắc đạo , cao nhân trong các tôn giáo .
Một việc quan trọng nữa là có thể tìm ra cách làm thay đổi những cấu trúc của DNA trong cơ thể cuả con người để có thể có những cậ́u trúc nảo bộ đặc biệt có thể bắt lấy những luồng sóng của ký ức vũ trụ , tiên thiên ký ảnh và vô thức , a lại da thức của con người , đồng thời cần tìm ra những con số và giải mả số của những tần số chính xác của những lảnh vực tồn trử thông tin của vũ trụ ; để từ đó con người khi tái sinh lại , có thể có lại ký ức và tài năng chuyên môn mà không cần học lại , như thế có thể phục vụ ngay cho quốc gia xả hội , thì sẻ tiết kiệm được ngân quỷ của quốc gia rất nhiều .
Trong khi chờ đợi các bạn đóng góp thêm về những kỷ thuật tái sinh tâm linh như sự trình bày trên , xin mời các bạn hảy ôn lại những thành tựu về kỷ thuật tái sinh vật chất về cơ thể qua kỷ thuật Cloning xuyên những loạt bài sưu tầm từ Việt Science , từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu để việc tìm ra kỷ thuật tái sinh tâm linh của chúng ta .
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 147
Join date : 03/09/2009

SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitimeTue Oct 05, 2010 5:51 am

Cloning là gì?
(SAO Y CHÁNH BẢN ĐỘNG VẬT)

Hầu như những gì khám phá mới thuộc về Khoa Học thì người Scottland đều đứng đầu, Hoa Kỳ là một nước giàu mạnh nhất thế giới nhưng vẫn phải... ôm sách hầu Thầy.

Còn nhớ cách đây không lâu, bên Scottland (Britain) khoa học gia làm được thụ tinh nhân tạo, đoạt quyền kiểm soát của Tạo Hóa, chuyện này làm Vatican giận run lên rất nhiều. Nhưng ngày nay hầu hết, kể cả nước Việt cũng làm được chuyện thụ tinh nhân tạo rồi. Ai ai cũng xem thường chuyện này như chuyện ăn cơm hàng ngày vậy.

Nay một lần nữa khoa học gia xứ Scottland lại làm thêm một cú ngoạn mục nữa làm thiên hạ lần này hoảng hồn thật sự rồi. Đó là chuyện Cloning (tạo thêm một động vật nữa mà không cần cấy tinh trùng vào trứng như trên). Sách báo in ra ca ngợi, rồi lo sợ chuyện này. Nhìn một quyển sách mới phát hành tại Âu Mỹ, in 2 hình của một cha... cà chớn dưới ghi một câu ngon lành như sau: “Nữa rồi, thằng đó nữa rồi!” (Oh! You again). Như vậy thiên hạ không ghét sao được?

Nhưng dân thông minh Trời cho như dân Scottland, dân giàu. Trời cho như dân Mỹ, dân hay bị xui hoài như dân Việt, tất cả cũng đều thua con của Trời hết, con của Trời đó là dân Tàu đấy. Họ biết chuyện này từ trăm năm nay rồi.

Nhớ lại ngày xưa, sách truyện rất ít, toàn là Truyện Tàu. Hang cùng ngõ hẽm, những nơi cho thuê truyện đều có đủ bộ truyện Tàu làm chuẩn. Không gì sướng hơn lúc đi học về, chờ cơm ăn, lên lầu nằm đọc một quyển truyện Tàu, bên ngoài mưa chiều chiều thường xuyên như tại Quận 4 Khánh Hội năm nào. Câu chuyện được ngắt một khúc như sau: “Tôn ngộ Không...
Thật sự Cloning không phải dễ gì, trở lại quá khứ gần đây. Ngày 24 tháng 2 năm 1997, khoa học gia tại viện Roslin Institute, Edinburgh, Scotland, tuyên bố cho thế giới họ đã clone được một động vật nuôi con bằng sữa (adult mammal) lần đầu tiên. Khoa học gia họ dùng nhân của một con cừu (nucleus of a mammary gland cell) cùng với một trứng cừu, trứng cừu này nhân được lấy ra (nucleus removed). Rồi họ ráp lại, sau đó dùng một luồng điện rất nhẹ kích thích trứng đó, điều kỳ diệu xảy ra là trứng đó bắt đầu sanh sôi nảy nở, tế bào được chia từ 2 ra 4 ra16 v.v... như vậy tạo thành một phôi thai (enbryo). Rồi phôi thai này được cấy vào tử cung một con cừu mẹ, cừu mẹ mang thai lớn lên, rồi sanh được một con cừu con bé nhỏ xinh xinh, thế giới biết tên con cừu con này: đó là Dolly. Nghĩa là họ không cần tinh trùng của con đực nữa. Như vậy từ rày về sau đàn ông đi chỗ khác chơi, hay lên thiên đàng hết đi như câu nói của nhà hiền triết Socrat nói “Nếu không có đàn bà thì đàn ông sẽ lên Thiên Đàng hết”, câu này rất thấm cho những tay bị vợ đòi ly dị ngày mai, nghe rất ớn xướng sống.

Vì nhân hay trứng cũng lấy từ con cừu mẹ, mà không cần tinh trùng của cừu cha. Nên tất cả những nhiễm sắc thể, hay những cá tính, đặc tính của cừu mẹ đều y như bản sao ráp vậy. Họ gọi như là bản Xeros Copy vậy. Có nghĩa từ đây con người sẽ cấy được một giống động vật có tính tình đúng 100 % như mẹ vậy. Như con ngựa Thiên Lý Mã của Quan Vân Trường vậy chạy ngàn dặm không biết mệt, hoặc là làm y thêm một thằng cha sao DÊ y như ông già nó vậy?

Trước khi khám phá này làm rung động loài người (man-mammal) các khoa học gia cho rằng nếu không có tinh trùng để cho trứng sinh sôi nảy nở thì là chuyện vô lý. Y như ngày xưa vậy, người ta khi khát nước, cơ thể cần nước thì phải uống nước là cái chắc. Nhưng khi có phương pháp truyền nước biển thì câu chuyện khát nước là phải uống rồi không đúng nữa. Nói thêm xa hơn, như nếu bạn thích nhạc Trịnh công Sơn, hay nhạc Beethoven, khi nghe thì âm thanh rụng động có tần số khác nhau của Trịnh hay của Beethoven vào não, rồi não truyền một luồng điện nhẹ xuống khắp châu thân thì tê mê biết mấy. Luồng điện đó ngày kia khoa học sẽ làm được, có nghĩa là chỉ cần một cục pin mà một cái máy phát điện nho nhỏ rồi úp vào tai. Nếu bạn muốn nghe nhạc Trịnh công Sơn hay nhạc Beethoven thì cứ việc chuyển tần số đến tần số bạn thích thì bạn sẽ tê mê như đang nghe Khánh Ly hát nhạc Trinh vậy. Còn nếu bạn không khéo... tay làm lấy, thì bạn đụng ngay tần số của vợ yêu quý đang la bạn, thì mọi việc đều hỏng hết, tỉnh ngủ ngay.

Cloning hiện nay họ dùng một trong 3 phương cách (techniques). Đó là: “blastomere separation, blastocyst division and twining or nuclear transplanation”. Trong mỗi phương cách, một phôi thai được xem như là “vitro fertilization (IVF) nơi nầy trứng được kết tinh với tinh trùng trên dĩa “disk” phòng thí nghiệm. Khi trứng được bắt đầu chia đôi, rồi thành 4 rồi khoa học gia mới dùng đến phương pháp cloning bằng một trong ba cách kể trên.

Với phương pháp Blastomere Separation, khi trứng bắt đầu chia ra từ 2 đến 4 thì họ tách rời lớp vỏ bọc ngoài trứng (gọi là zone pellucida), rồi họ đặt màng đó vào một dung dịch đặc biệt làm tách rời ra được tế bào. Mỗi tế bào lúc này rất quan trọng, được nuôi bằng một chất đặc biệt vì lúc này tế bào đang hoạt động không ngừng nghỉ, vì chính lúc này nó sẽ tạo ra một động vật. Rồi sau đó họ đem cấy vào tử cung một động vật mà đã cho trứng.

Với phương pháp Blastocyst Division, khi trứng bắt đầu chia đôi, thì khoa học xài liền, mỗi phần được đặt vào tử cung động vật. Mỗi phần sẽ tạo một động vật, như vậy chúng ta có 2 động vật giống nhau, như 2 anh em sanh đôi vậy.

Với phương pháp Nuclear Transplanation. Đây là một phương pháp vô cùng khó và vô cùng nguy hiểm. Họ rút cái nhân (nuclea) của một tế bào động vật cho trứng, nói tắt là một nhân của một tế bào bắp thịt chẳng hạn, trong khi đó trứng bắt đầu chia ra phần chót là 8 phần đều nhau. Họ dặt những nhân đó vào 8 phần đang chia nhau, tách 8 phần ra 8 dĩa khác nhau. Như vậy một dĩa có một tế bào và một nhân lạ cấy vào. Khoa học gia họ dùng một kích thích nhân tạo, như cho một luồng điện rất nhẹ chạm giật vào tế bào đó, nên nhớ khi tách rời 8 phần tế bào ra 8 dĩa khác nhau thì những tế bào đó sẽ chết ngắc, không phân chia nữa. Nay có một luồng điện nhẹ rung vào, thì lập tức kỳ diệu thay, tế bào đó sống lại rồi phân chia nữa ra làm 2, làm 4, làm 8... rồi thành một bào thai động vật.

Khoa học gia người Anh dùng nhiều phương pháp cloning khác nhau, tạo ra một con cừu Dolly là họ dùng phương pháp đặc biệt thêm, họ lấy nhân của một tế bào của mẹ cừu Dolly. Trước đó những nha khoa học thế giới cứ nằng nặc cho rằng tế bào gan sẽ sanh sôi nảy nở thành tế bào gan, tế bào bắp thịt sẽ thành tế bào bắp thịt. Nghĩa là tế bào nào cũng đều hướng về mục đích chót hết, nhưng Khoa học gia Scottist lại không tin như vậy. Họ đã thành công với cừu Dolly. Thế giới vô cùng thán phục chuyện lạ này.

Khoa học gia Scottist trước đó đã tạo một phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, lúc đó thế giới rất hồ nghi, nay phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (vitro fertilization / IVF). Đến năm 1978 thì có trên 20 ngàn bé ra đời theo phương pháp này, đến nay 2001 thì lên đến gần 100 ngàn em rồi.

Nhưng đến phương pháp cloning chú cừu Dolly từ A đến Z đều của người mẹ, thì thế giới bắt đầu lo sợ. Họ sợ có một nhà bác học điên khùng nào đó, sẽ tạo một giống người nửa thú để làm việc như nô lệ vậy, sức mạnh như con voi trong thân thể con người, đầu óc không có để mà... cự nự với chủ. Hình như điều này khoa học gia của Hitler đang thử làm. Dĩ nhiên một lần nữa Vatican lại lên tiếng gay gắt chống đối. Ngày nay tại Hoakỳ có một đạo luật ra đời nhằm ngăn cản khoa học gia đem phương pháp này cho người, Liên hiệp Quốc cũng như vậy.

Người khơi mào cho việc cloning hay thụ thai trong ống nghiệm phải kể công đầu là Thomas Hunt Morgan. Chính ông này gọi danh từ mới mà ta quen thuộc là Chromosome (Nhiễm thể) (1866-1945) ông ta cho rằng Gene (Di truyền học) là do nhiễm sắc thể tạo ra (chromosome) tạo ra. Loài người có 23 cặp nhiễm thể mà tạo ra di truyền tính (23 pairs of chromosomes), nhưng dòng họ này rất có công với khoa học và nhân loại. Con gái ông là Isabel Morgan là người tạo ra một chất ngừa tê liệt thành công cho khỉ, từ đó người khác nhờ phương pháp này mà áp dụng cho người.


Cho đến năm 1942 thì một khoa học gia người Thụy Sĩ, cư ngụ tại New York khám phá ra DNA (deoxyribonucleic acid). Từ năm khám phá cho đến năm 1998 thì cảnh sát Mỹ mới dùng phương pháp này tìm thủ phạm, nó còn rõ ràng hơn dấu tay nữa. Tòa chấp nhận phuong pháp DNA, biết bao nhiêu người nằm ấp hay sắp sửa lên ghế điện, nay nhờ phương pháp DNA mà thoát tội oan.
Khi con người tiến bước đến DNA thì nhiều nhà khoa học ráng tìm thêm còn có cái gì hơn nữa, hay hơn nữa ngoài DNA không? Cho đến năm 1951 thì James Watson (Mỹ) và Francis Crick (Anh) cùng nhau tìm ra chất chánh của DNA là những vòng xoắn trôn ốc kỳ diệu, họ gọi là Double Helix. Từ đây chân trời mới mở ra rất rộng cho các nhà khoa học kể cả luôn nhà hóa học. Từ những vòng xoắn kỳ diệu tượng trưng nhiều màu nhiều khúc quẹo, khoa học gia có thế lấy từng đoạn đó chất chánh của DNA mà làm ra những loại thuốc cho nhân loại trong tương lai.



Một câu chuyện đầu tiên trên thế giới dùng phương pháp DNA để kết tội một sát nhân. Chuyện đó như sau: Chiều cuối đông, November, 1983 cô gái 15 tuổi, Lynda Mann, cư ngụ tại Narborough, England rời nhà thăm một người bạn gái cùng lớp cách đó không xa. Cô đi và không về nữa. Cô bị hiếp rồi hung thủ cắt cổ cô tại một góc vắng nhà ga xe lửa. Cảnh sát tìm 3 năm không ra vụ án này. 3 năm sau 1986 cô gái 17 tuổi tên là Dawn Ashworth cũng bị trường hợp thê thảm như vậy. Lần này cảnh sát bắt được một anh đầu bếp trẻ 17 tuổi. Nhưng không chắc lắm vì còn nhiều điểm ngờ. Cảnh sát liền nhờ một giáo sư trẻ chuyên về di truyền học tại Đại học Leicester. Anh phân chất tinh trùng và chút máu của tên sát nhân để lại hiện trường, vị giáo sư trẻ này tuyên bố đây là một người gốc Phi Châu, cha là người Anh. Chuyện này làm cảnh sát hơi bỡ ngỡ... Và giáo sư trẻ Alec Jeffrrey thử máu của anh đầu bếp trẻ mà cảnh sát nằng nặc cho là kẻ thủ phạm. Giáo sư trẻ tuyên bố, anh đầu bếp này không phải là người giết 2 cô gái kia. Cảnh sát bí lối, sau cùng quan tòa cho phép cảnh sát bắt mọi người trong quận đó phải thử máu hết, nhưng có một anh chàng gốc Phi châu thì tìm cách tránh né, khai rằng đang bệnh cho máu để thử không tốt. Cảnh sát đâu dễ gì, bèn lôi tên này ra mà rút máu đem thử. Kết quả ngay chóc. Nhưng lúc đó tại Anh quốc chưa có đạo luật nào cho phép dùng DNA để làm bằng chứng buộc tội can phạm được, cảnh sát đâm ra kẹt... chẳng lẽ thả tên này? Họ bèn dùng một phương pháp mẹo: nhốt tên này vào xàlim khác, rồi cho cảnh sát giả dạng ở chung với nhau, cho uống rượu rồi cải lộn. Anh sát nhân mất bình tình khai hết rồi được thu băng rồi ra tòa anh đành phải Yes. Tên sát nhân đó là tên làm công cho một lò bánh mì gần đó, sát nhân tên là Colin Pichtfork, con một immigrant từ Ghana Phi châu đến.

Từ đó tên tuổi giáo sư trẻ Alec Jeffrey nổi tiếng, Alec Ferffrey được nữ hoàng phong tước là Sir, còn tên sát nhân được lên ghế điện. Cả hai đều nêu danh là người đầu tiên dùng phương pháp DNA vào phòng luận tội.

Trở về lại Cloning, năm vừa qua, tại Texas, Texas A & M University cũng tạo ra được một con Bò bằng cloning. Chú bò con màu kem vàng, được khoa học cho tên là Second Chance. Trong tuần lễ đầu tiên, chú bò này bệnh nặng gần chết, vì chứng bệnh sưng phổi, rồi sau đó bệnh tiêu chảy, bệnh ghẻ... làm các bác sĩ lo lắng gần điên vì chú bò này, ngày đêm chầu chực phòng bệnh của chú bò này. Lỡ nó qua đời thì tụi bạn bè đồng nghiệp bên Anh quốc sẽ cười... thúi đầu luôn.
Vậy vì sĩ diện nên bác sĩ, khoa học gia ngày đệm canh chừng nó rồi đồng thời cầu nguyện cho nó tai qua nạn khỏi vì nó được ra đời bằng một phương pháp nhân tạo của thế kỷ 21.
Rồi sau đó khoa học gia tạo được một con bò trắng mà bên Ấn Độ chúng ta thường thấy trên vách đền thờ có con bò này, một giống bò thiêng, có lưng gù, đôi mắt đẹp. Loại bò này tên là Noah, nó từ giống oxlike guar (bò thiêng Ấn Độ), nhưng được 2 tuần thì... đi đoong luôn.

Vậy vì sĩ diện nên bác sĩ, khoa học gia ngày đệm canh chừng nó rồi đồng thời cầu nguyện cho nó tai qua nạn khỏi vì nó được ra đời bằng một phương pháp nhân tạo của thế kỷ 21.
Rồi sau đó khoa học gia tạo được một con bò trắng mà bên Ấn Độ chúng ta thường thấy trên vách đền thờ có con bò này, một giống bò thiêng, có lưng gù, đôi mắt đẹp. Loại bò này tên là Noah, nó từ giống oxlike guar (bò thiêng Ấn Độ), nhưng được 2 tuần thì... đi đoong luôn.
Noah


Như vậy nghĩa là làm sao? Nghĩa là bên Anh quốc, người tạo giống đầu tiên chú cừu non tên Dolly đẹp dễ thương nhưng họ giấu biệt thế giới là nó bị bệnh hoạn liên miên nếu không có bác sĩ ngày đêm chầu chực thì nó cũng hui nhị tì luôn. Có nghĩa là dùng hệ thống phương pháp Cloning này thì không có lợi rồi chẳng lẽ nuôi con bò này cho đến khi khôn lớn để mà đem ra chợ bán thì giá tiền nó lên đến vài trăm ngàn đô một con? Bằng một cái nhà 4 phòng ngủ rồi? Nhưng cho dù vậy, tại Ý đại Lợi, và tại Mỹ, khoa học gia tên Panos Zavos (có nhà thương lớn chuyên lo về hiếm muộn, Lexington, Kentucky /USA) và Severino Antinori (cũng có nhà thương tại Rome/ Italy chuyên lo về bệnh hiếm muốn cho các phụ nữ mãn kinh nguyệt mà mong co con nuối cho đỡ buồn) Họ tuyên bố trong vòng 2 năm nữa họ sẽ thành công về Cloning cho giống người, các khoa học gia trên thế giới đều không hoài nghi chuyện này của họ. Nhưng tất cả đều đồng ý luôn là bào thai này sẽ thiếu rất nhiều điều kiện thông thường mà tạo hóa đã làm sẵn cho con người, có thể đứa bé sanh ra sẽ thiếu một cánh tay, hay bị bệnh nội thương trầm trọng như sưng phổi kinh niên, hay hư một phần não bộ nửa khùng nửa điên. Trong khi thế giới càng ngày càng không đủ ăn, tại Phi Châu biết bao nhiêu đứa bé sanh ra rất khỏe mạnh, mà bị đói triền miên khói lửa...

Khoa học gia chỉ nói được Cloning, nhưng chưa tiên đoán được bệnh hoạn gì của đứa bé mà được tạo từ cloning đó. Không ai nói được. Có ai dám bắt Bác sĩ cloning cho mình một đứa bé, rồi bắt Bác sĩ ký giấy nuôi trọn đời nếu đứa bé đó bị bệnh... khói lửa triền miên luôn?

Ở đây thiếu gì ông đạo dê, đâu cần tốn tiền gì nhiều cho ông đạo đó, chỉ cần ly đá chanh là xong rồi ông đạo đó sẽ lo từ A tới Z luôn mà.

Cũng có nhiều khoa học gia cho rằng phương pháp cloning thì xong rồi, nhưng họ cũng có lý khi họ cho rằng một tế bào da khi sanh sôi nảy nở cũng sẽ ra tế bào da mới, còn muốn ra loại khác thì các động lực nội tại trong tế bào da đó sẽ tắt (off) có nghĩa là da thì ra da, lông thì ra lông,... Rồi nếu lấy tế bào da (skin) đặt nó vào một trứng chưa thụ tinh, rồi cloning nó thì trứng nó sẽ phát ra nhiều mệnh lệnh rất bất ngờ, như cho ra một thằng bé chỉ toàn xương với da mà thôi, thịt thì không có, như một bộ xương cách trí biết đi mà thôi. Chuyện như vậy cũng rất có thể lắm.

Nhưng riêng bên Vatican, dĩ nhiên không riêng Đức Giáo Hoàng mà các nhà đạo dức cũng đều say NO hết...

Từ khi đứa bé ống nghiệm ra đời, mà ta gọi là “test tube baby” các bác sĩ cũng canh chừng đứa bé đó sát ván. Đó là từ năm 1978, nay cô gái đó 22 tuổi rồi, có chồng và có con. Họ đánh giá khả năng trí tuệ thì chỉ thường thường thôi, không gì xuất sắc lắm.

Gregor Johann Mendel

Mendel (1822-1884), ông tổ ngành di truyền học
Năm 1865 từ tu viện Brno ( của nước Áo thời đó) thầy tu Gregor Johann Mendel đã lần đầu tiên phát hiện ra những quy luật của hiện tượng di truyền. Ngày nay ông được công nhận là cha đẻ của ngành Di truyền học, nhưng những công trình của ông lúc bấy giờ giới khoa học không mấy chú ý lắm.
Sinh ngày 22-07-1822 tại Heisendorf, một làng nhỏ nước Moravie (Tiệp Khắc), trong một gia đình nông dân nghèo. Ông thừa hưởng được niềm say mê làm vườn của bố mẹ. Ngay từ nhỏ ông đã có hứng thú chăm sóc cây cối trong vườn và ông luôn là một học sinh giỏi. Cậu học trò đặc biệt giỏi này đã gây sự chú ý của một vị tu sĩ của làng và được ông này cho đi xa tiếp tục học. Mendel phải vừa làm việc vừa học vì tiền trợ cấp gia đình không đủ sống. Tốt nghiệp với tấm bằng xuất sắc ở bậc Trung học, Mendel được Nhà thờ chọn đi học về Triết học. Vì nhà quá nghèo nên năm 21 tuổi ông phải tạm bỏ học. Năm 1840 ông vào viện Triết học Olomouc để học hai năm dự bị lên đại học. Lúc bấy giờ Mendel phải nhờ nửa số tiền hồi môn của người chị gái đã trợ cấp cho Mendel tiếp tục đi học. Sau hai năm học, ông chán nản vì thiếu tài chánh nên cuối cùng ông nghe lời một trong các giáo sư của ông là nhờ cha Napp giới thiệu ông vào dòng tu để có thể tiếp tục học. Bốn năm sau ông trở thành Linh mục. Từ lúc vô dòng tu, ông hài lòng vì có đủ điều kiện để nghiên cứu về Khoa học Tự nhiên. Song song với việc học, ông đi dạy các trường trung học. Nhưng năm 1849 đạo luật bắt các giáo sư phải có ngạch đại học. Nhờ cha Napp giúp, Mendel được vào Ðại học Vienne năm 1851 để tiếp tục học. Ông được học các môn Toán, Lý, Hoá, Thực vật học và Động vật học. Năm 1853 ông tốt nghiệp Đại học và lại trở về tu viện ở quê nhà. Khi trở về Vienne, Mendel lập ra một vườn khảo cứu và bắt đầu những thí nghiệm về sự lai giống.
Năm 32 tuổi ông được cử làm giáo viên của Trường Cao đẳng thực hành ở Brunn (nay là Brno thuộc nước Cộng hoà Czech)
Từ năm 1856 đến năm 1863 ông âm thầm làm những thí nghiệm công phu trên đậu Hòa Lan. Năm 1865 ông trình bày các kết quả thực nghiệm của mình tại Hiệp hội khoa


Ông nghiên cứu về sự lai giống của đậu Hà lan

học tự nhiên Thành phố Brno và một năm sau các kết quả nghiên cứu này được công bố (Versuche uber Pflanzenhybriden) trên tập san của Hiệp hội và gởi cho những cơ quan khoa học trên thế giới nhưng không được ai chú ý đến cả. Thế giới khoa học lúc bấy giờ chưa sẵn sàng để công nhận điều quan trọng của những kết quả mà ông đã tìm ra.
Ông phát hiện thấy cây đậu bố mẹ có thể truyền lại cho con cái những nhân tố di truyền riêng rẽ và nhấn mạnh rằng các nhân tố di truyền (ngày nay gọi là Gen) duy trì được các tính chất cá biệt của chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các thực nghiệm của ông vừa mang tính chất thực nghiệm vừa mang tính chất chính xác toán học. Ông đã sử dụng 7 cặp tính trạng khi tiến hành lai tạo: Hoa tía- Hoa trắng, Hoa mọc nách- Hoa mọc ngọn, Hạt vàng- Hạt xanh, Hạt trơn- Hạt nhăn, Quả trơn-Quả nhăn, Quả xanh-Quả vàng, Cây cao- Cây thấp. Các thí nghiệm của ông hết sức phong phú và chính xác. Nhưng tiếc thay, thực nghiệm của Mendel đã bị chìm đi trong sự thờ ơ của tất cả mọi người. Chả ai chú ý đến các cây đậu Hoà Lan của Mendel và không nhận ra được sau các cây đậu được lai tạo một cách công phu này là một thiên tài mà sau này được cả nhân loại tôn vinh là Ông tổ của ngành Di truyền học. Ông vẫn miệt mài vừa dạy học, vừa truyền đạo và vừa tiếp tục làm thực nghiệm trong vườn của tu viện. Năm 1868 ông được phong chức Tổng Giám mục. Ông còn là người sáng lập ra Hôi nghiên cứu Thiên nhiên và Hội Khí tượng học của thành phố Brno. Năm 57 tuổi ông được cử làm Giám đốc Tu viện. Ngày 6-1-1884 ông qua đời sau một tai biến do viêm thận.
Mãi 6 năm sau ngày ông qua đời các nghiên cứu quý giá của ông mới được nhân loại biết tới thông qua các nghiên cứu độc lập nhưng cùng một lúc (1900) của 3 nhà khoa học ở 3 quốc gia khác nhau: H. M. de Vries (Hà Lan), E. K. Corens (Đức) và E. V. Tschermak (Tiệp Khắc cũ). Nhờ ba nhà khoa học công nhận công trình của nhà tu Mendel nên thuyết Mendel mới ra đời được. Và năm 1900 được coi là năm ra đời của Di truyền học.
Tại Pháp có nhà khoa học Cunio và Hòa Lan có Bateson đã đem những định luật của Mendel để áp dụng vào sự lai giống cho động vật (chuột) và thấy kết quả cũng giống như thực vật (đậu hòa lan)
Con Trừu
Dolly được sinh ra như thế nào?
Trên thực tế có nhiều loại nhân bản
Nhân bản không có khả năng sinh sản thí dụ như nhân bản những tế bào da thường dùng để chữa trị những người bị phỏng nặng và một loại nhân bản có khả năng sinh sản để tạo ra một sinh vật sống toàn diện: Ðây là loại nhân bản ta muốn biết đến. Việc này cần một kỹ thuật gọi là sự chuyển nhân

Trái với dự đoán của ta, kỹ thuật này không mới. Những nhân bản đầu tiên được thực hiện từ năm 1935 do nhà sinh vật học nazi Hans SPEMANN trên con cóc. Từ đó những nhà nghiên cứu tự hỏi có thể có một sự nhân bản để tạo ra một sinh vật toàn diện chăng?

Những nhà nghiên cứu Tô Cách Lan đánh tan mối nghi ngờ khi báo cho thế giới biết sự ra đời của con cừu ngày 23/02/1997: đó là Dolly
Dolly là một cừu cái sinh ra bằng kỹ thuật nhân từ một tế bào trưởng thành vô giới tính.

Kỳ công khoa học này được thực hiện ở nước Tô Cách Lan tại viện nghiên cứu Roslin bởi một ê kíp dẫn đầu bởi Dr Ian WILMUT. Dolly ra đời sau nhiều năm nghiên cứu, ít nhất là 277 thử nghiệm chuyển nhân tế bào để được 29 phôi (embryon), có nghĩa là 12% thành công.

Dolly có ba bà mẹ:
Mẹ cho gen tên là Finn Dorsett
Một tế bào bình thường (còn gọi là somatique), được trích từ tuyến vú của Finn Dorsett dùng để clone. Ðể tế bào quên cách phát triển theo kiểu tế bào tuyến vú, nó phải chịu sự xử lý in vitro dể cho trở thành vô tính, uyển chuyển, sẵn sàng truyền lại ADN cho noãn Mẹ cho noãn bào tên là Blackface
Một noãn bào không thụ tinh được trích ra từ Blackface. Noãn được rút hết nhân ra để không một gen của Blacface có thể làm ô nhiễm thí nghiệm này.
Noãn không nhân và tế bào được cho kết hợp được trình bày tỉ mỉ dưới đây .

Mẹ mang thai Dolly:

Sau khi để cho phôi phát triển vài ngày trong phòng thí nghiệm, PHÔI đưọc cấy vô tử cung cừu cái khác để mang thai cho đến ngày sinh ra DOLLY

Dolly giống y hệt Finn Dorsett từ hình dáng lẫn tính tình

Những giai đoạn cần thiết để tạo ra phôi


Ðây là một trong 20 noãn bào (ovocyte) lấy từ BLACKFACE đã được điều trị bằng hormone để có được số lượng noãn bào cao hơn bình thường. ADN của noãn bào gọi là Chromosome. Tế bào này được chận đứng lại lúc nó được 1 cực cầu (globule polaire) đầu tiên.
William Ritchie, chuyên viên viện Roslin lãnh nhiệm vụ cho công trình rất tinh tế. Dùng một dụng cụ tinh vi của ngành vi phẫu thuật. Ông hút chất nằm trong nhân noãn bào, tức là ADN. cùng lúc với cực cầu - gọi là sự lấy mất nhân của noãn (l'énucléation de l'ovocyte).
Ở giai đoạn này, muốn kiểm xem công trình trước có thực hiện tốt đẹp hay không , người ta đã đánh dấu ADN bằng chất huỳnh quang (flourchrome). Tiếp theo ta có thể thấy được ADN bằng tia cực tím (Ultra-violet) . Vậy là ta đã chuẩn bị noãn bào (rỗng vì đã rút ADN) để nhận một nhân mới bởi sự chuyển nhân. (transfert nucléaire)
Cùng lúc đó, ta lấy những tế bào của tuyến vú một con cừu trưởng thành (Fin Dorsett), dùng ADN của tế bào này để truyền giống (patrimoine génétique).
Những tế bào vú được bảo quản trong môi trường cấy đặc biệt: ngăn chận cho nó chậm phát triển đồng thời canh chừng không để cho nó bị một ứng suất (stress) quan trọng có thể làm nó chết.
Nhờ những dụng cụ vô cùng tinh vi, ta xử dụng những tế bào tuyến vú và những noãn không còn nhân (ovocyte énuclée) một cách cẩn thận để khỏi làm tổn thương ADN.
Dưới kính hiển vi, nhờ một micro-pipette (ống hút vô cùng nhỏ có đầu nhọn) ta cắt một cách tinh tế màng của noãn.
Bên phải của noãn bào là micro-pipette đang chứa một tế bào chủa tuyến vú, vô cùng nhỏ so với noãn bào.
Giai đoạn này ta vừa đưa vô noãn -bào- rỗng một tế bào tuyến vú còn nhân: tế bào nhỏ xíu nằm bên phải và phía trên (ngang hàng với micropipette).
Muốn đi đến giai đoạn tinh vi này ta đã phải thử ít nhất 277 lần. Phải cần mấy năm cố gắng mới được phôi Dolly.
Giai đoạn trước khi kết thúc: 2 tế bào, noãn bào đã lấy mất nhân và tế bào tuyến vú, màng của chúng được hợp nhất nhờ ảnh hưởng của điện trường, gọi là électrofusion. Lúc đó nhân của tế bào vú (nhỏ tí) được vô trong noãn bào to lớn vừa mới vừa đươc cho hoạt động trở lại.
Cuối cùng, phôi của con cừu cái Dolly nổi tiếng đã được tạo ra.
Ðây là lần đầu tiên trên thế giới người ta tạo được MỘT TẾ BÀO TỔNG NĂNG ( cellule totipotente) tức là có khả năng tạo ra một SINH VẬT TOÀN DIỆN
Ðây là kết quả của bao nhiêu năm làm việc:
Xin giới thiệu các bạn Dolly
Nó giống y hệt từ hình dáng đến tư cách của Finn Dorsett
Tháng 3 năm sau Dolly xinh xắn cân nặng 45 kg

Cuộc đời của Dolly
Thông tin này được Giáo sư Ian Wilmut, một thành viên của nhóm nghiên cứu cừu Dolly, thuộc viện Roslin (Scotland), đưa ra hôm qua. Ông cho biết tình trạng trên có thể đã phát sinh do các khiếm khuyết về gene trong quá trình nhân bản.
Ông Wilmut cũng kêu gọi thực hiện một chương trình nghiên cứu để xác minh ảnh hưởng của việc nhân bản lên sức khỏe động vật.
Phản ứng trước tin Dolly bị viêm khớp, các tổ chức chăm sóc động vật tuyên bố điều đó chỉ chứng tỏ rằng nhân bản là có hại, và kêu gọi các nhà khoa học chấm dứt thí nghiệm của mình.
Tuy nhiên, GS Wilmut khẳng định: “Không có cách nào để biết được đây là hậu quả của việc nhân bản hay chỉ là sự trùng hợp. Chúng ta không bao giờ có được lời giải cho nghi vấn này”.
Cho tới nay, nhiều công ty nhân bản đã thông báo rằng động vật mà họ tạo ra rất khỏe mạnh. Nhưng trên thực tế, chưa hề có đánh giá độc lập nào về sức khỏe dài hạn của những động vật thí nghiệm đó. (5/1/2002)
Dolly đã chết
Dolly, con vật có vú đầu tiên được nhân bản trên thế giới, đã đi vào giấc ngủ vĩnh hằng hôm qua, bằng một mũi tiêm gây chết không đau đớn (còn gọi là cái chết êm ả). Các bác sĩ thú y phát hiện thấy nó bị viêm phổi nặng, một căn bệnh thường gặp ở cừu già.
Tiến sĩ Harry Griffin, một nhà nghiên cứu của viện Roslin (Scotland), cho biết: “Cừu có thể sống tới 11 hoặc 12 năm, và bệnh viêm phổi là khá phổ biến ở những con cừu già, đặc biệt với những con nuôi nhốt. Chúng tôi đang mổ khám nghiệm tử thi của Dolly và sẽ sớm công bố kết quả”.
Dolly, được đặt theo tên của nữ ca sĩ Scotland Dolly Parton, chào đời ngày 5/7/1996 và ra mắt công chúng một năm sau đó. Con cừu cái này là sản phẩm của quá trình nhân bản vô tính: Người ta lấy nhân từ một tế bào tuyến vú của một con cừu cái trưởng thành, và cấy nó vào một tế bào trứng cừu khác.
Sự ra đời của cừu Dolly đã dấy lên những lời chỉ trích và lo ngại rằng, khoảng cách từ việc nhân bản cừu đến việc tạo bản sao người chỉ còn là một quãng ngắn. Tuy nhiên khi đó, Griffin đã bảo vệ sản phẩm của mình với tuyên bố rằng, nghiên cứu này có thể mở đường cho những hướng điều trị mới trên nhiều loại bệnh tật.
Về mặt sinh lý, Dolly vẫn là một con cừu cái bình thường, và nó đã hai lần sinh nở với một con cừu đực xứ Welsh có tên gọi là David, lứa đầu tiên đẻ một con vào tháng 4/1998 và lần hai 3 con vào năm 1999.
Tháng 1/2002, Dolly được phát hiện mắc chứng viêm khớp - một tình trạng thường thấy trên các động vật già. Căn bệnh này đã làm bùng nổ cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học về việc liệu có phải bộ gene của nó cũng “già” hơn 5 năm so với bình thường, và rằng tất cả các động vật nhân bản có bị lão hóa sớm như vậy hay không. Giáo sư Ian Wilmut, trưởng nhóm nghiên cứu, khi đó đã cho biết, bệnh viêm khớp chứng tỏ kỹ thuật nhân bản của họ chưa thực sự hiệu quả, và cần được tiếp tục nghiên cứu.
“Nếu cái chết sớm của Dolly có liên quan tới việc nhân bản, thì đây sẽ là bằng chứng bổ sung cho thấy sự nguy hiểm tiềm tàng trong việc tạo bản sao người, và sự thiếu trách nhiệm của những ai đang ra sức mở rộng loại hình nghiên cứu này trên người”, giáo sư Richard Gardner, Chủ tịch hiệp hội Hoàng gia Anh, tuyên bố.
Người ta dự định đưa Dolly về trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Scotland ở Edinburgh. (15/2/2003)
B.H. (theo Discovery, BBC)
Dolly được triển lãm
Con cừu nhân bản đầu tiên trên thế giới, vốn từng gây xôn xao dư luận thế giới khi ra đời vào năm 1997, đang được trưng bày tại Bảo tàng Hoàng gia Edinburgh, Scotland, sau khi đã được bảo quản và đóng khung.
Dolly đã chết vào tháng 2/2003 vì viêm phổi. Viện Roslin, nơi tạo ra con vật, đã trao tặng xác Dolly cho Bảo tàng quốc gia Scotland.
Đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau sau khi Dolly được nhân bản thành công từ tế bào đông lạnh lấy từ tuyến vú của con mẹ đã chết trước đó vài năm. "Cô nàng" được đặt theo tên của ca sĩ đồng quê Mỹ Dolly Parton.
Giám đốc bảo tàng Hoàng gia Gordon Rintoul phát biểu: "Dolly sẽ là một minh chứng về thành tựu khoa học đã đạt được tại Scotland. Hình ảnh của nó sẽ còn được ghi nhận trong nhiều thế kỷ".
Da của Dolly đã được ngâm vào dung dịch axit và thuộc để bảo quản, trước khi bọc ra ngoài một khung sợi thuỷ tinh, sau đó lắp thêm cặp mắt thuỷ tinh.
Đến tháng 7, Dolly sẽ được đưa tới Bảo tàng cuộc sống Scotland ở East Kilbride, rồi chuyển về trưng bày vĩnh viễn tại bảo tàng Edinburgh vào tháng 9. (10/4/2003)
Tetra, khỉ nhân bản
TETRA, khỉ nhân bản, có thể giúp cho sự nghiên cứu về bịnh của con người
Tetra là con khỉ nhỏ nâu (gốc miền Bắc Ấn độ) là động vật linh trưởng (người, khỉ, vượn) được nhân bản đầu tiên bằng cách dùng phương pháp tách những tế bào gốc của một phôi để làm ra nhiều con vật giống nhau.
Ðó là một kỹ thuật có thể sản xuất những sinh vật có tính di truyền giống nhau dùng trong việc nghiên cứu bệnh của người như bệnh tiểu đường và bệnh rung cơ Parkinson's.
Phương pháp này thường dùng cho gia súc. Một tinh trùng và một trứng được kết hợp tạo thành phôi cho phép phân cắt ra thành hai tế bào, rồi bốn, rồi tám.

Ở giai đọan phôi có 8 tế bào, nó có thể bị tách rời để tạo ra 4 phôi có hai tế bào giống y hệt nhau
Ðó là lần đầu tiên kỹ thuật đã thành công cho khỉ.
"Ðây chỉ là một sự sinh đôi nhân tạo", giáo sư Gerald Schatten, ở Trung tâm Nghiên cứu động vật linh trưởng địa phương Oregon tại Beaverton, US.

Kỹ thuật theo Dolly:

Trong trung tâm nghiên cứu Oregon người ta hy vọng rằng mỗi phôi được chia cắt sẽ phát triển đế giai đoạn mà chúng có thể được đưa vào bà mẹ thay thế mang cái thai bình thường. Nhưng không phải tất cả mọi phôi được tách ra đều sống. Chỉ có hai phôi được cấy trong bà mẹ thay thế và chỉ một được có thai bình thường. Tetra sinh ra sau 157 ngày.
Nhân bản và chuyển gen chuột
Nhân bản và chuyển Gene của loài gặm nhấm
Những phương pháp chuyển gene của loài chuột được phát triển tại viện Advanced Cell Technology (ACT) do những người phát minh, tiến sĩ Teruhiko Wakayama and Tony Perry.

Những chuột chứa gene trong đó có protéine chứa chất huỳnh quang đặt vô đó bởi một phương pháp mới lạ tên là chuyển gene lúc phân bào (métaphase). Ðây có nghĩa là chúng phát ra màu xanh lá cây dưới tác dụng của "ánh sáng đen" của tia cực tím.

Nhưng việc tạo ra chuột xanh lá cây chỉ là bước đầu tiên dùng để nhận dạng dễ dàng gene đánh dấu.

Cái quan trọng hơn là cách thức có thể dùng để đưa những gene vào để khảo cứu bệnh tật và chế tạo thuốc trị hiệu quả hơn. Tiến sĩ Teruhiko Wakayama và Tony Perry mở đầu cho phương thức nhân bản và chuyển gene sẽ giúp cho viện ACT hoàn thành việc này nhanh hơn
Tìm hiểu về Nghiên cứu tế bào mầm
Mới đây, cuộc tranh luận về tế bào mầm đã diễn ra rất hào hứng, gây cấn. Tham dự là cả các nhà khoa học lẫn tôn giáo và chính trị, kinh tế gia. Kết quả cuộc thảo luận chưa ngã ngũ và dân chúng nhiều người cũng không nắm vững những lý do đưa đến cuộc tranh cãi này. Xin cùng tìm hiểu thêm.


Tế bào mầm là gì?
Tế bào mầm là những tế bào bình thường, còn trong tình trạng trứng nước, có thể được nuôi dưỡng cho lớn để trở thành các loại mô bào trưởng thành khác.

Mầm là nguồn gốc từ đó nẩy sinh ra toàn bộ các thành phần của một sinh vật, từ thảo mộc tới động vật. Mầm của mọi bộ phận con người xuất phát từ một trứng nữ được tinh trùng thụ tinh, tạo ra một hợp tử có 46 nhiễm sắc thể mà một nửa di truyền từ người cha, nửa kia từ người mẹ.

Tế bào mầm có nguồn gốc từ nhiều loại tế bào, tùy theo từng giai đoạn của thai kỳ. Loại thứ nhất, tế bào mầm từ phôi thai, mạnh tuyệt đối với khả năng sinh ra mọi thứ tế bào khác. Loại thứ hai đa năng có thể sinh ra một số đông mô bào. Loại thứ ba đã trưởng thành, đã được phân loại và chỉ cho một thứ mô bào nhất định.

Thành ra, trong cơ thể con người, càng trưởng thành thì khả năng biến đổi của tế bào cũng giảm đi. Khoa học gần đây đang cố gắng thay đổi sự giới hạn này và họ đang gò nắn để một tế bào trưởng thành nào đó cũng có thể biến ra vài loại mô bào khác. Tế bào mầm trưởng thành cũng đã được tách ra từ tủy sống, da, máu, giác mạc mắt, não bộ. Một lợi điểm của tế bào mầm trưởng thành là khi tự cấy, không gây ra phản ứng từ bỏ.

Nhưng, với nhiều chuyên gia, tế bào mầm từ phôi thai vẫn tốt hơn. Các tế bào này, khi ở trong môi trường thích hợp và được điều khiển hướng dẫn, có thể phân trưởng thành cả trăm loại mô mới hoàn hảo hơn, lành mạnh hơn để phục hồi chức năng cho các cơ quan, bộ phận suy yếu: từ tim phổi, tế bào thần kinh não tủy tới xương, thịt, da, mắt, máu, cơ quan sinh dục...

Một nhóm khoa học gia khác đang nghiên cứu lấy tế bào mầm từ mô mỡ. Mô này thì có quá nhiều trên mỗi cơ thể cũng như sau các giải phẫu thẩm mỹ hút bỏ mỡ dư. Theo Marc Hedrick của Đại Học Y Khoa California- Los Angeles, mỡ có rất nhiều tế bào mầm có thể chuyển đổi thành tế bào máu, xương hoặc sụn. Các khoa học gia của đại học Duke ở Durham, North Carolina, cũng đồng ý kiến và cũng đang xúc tiến nghiên cứu tương tự.
Tế bào mầm còn lấy được từ tủy sống, máu, ở cuống nhau thai. Tất cả đều có khả năng phân sinh và tạo ra nhiều tế bào khác.


Sự thành hình của phôi thai

Phôi thai là kết quả của sự kết hợp giữa trứng người nữ và tinh trùng người nam. Theo luật Tạo Hóa, sự kết hợp này là do động tác giao hoan giữa hai người khác phái tính. Vào ngày thứ 15 của mỗi kinh kỳ, một trứng từ một trong hai buồng trứng người nữ được nhả ra, lạc lõng trong bụng và chịu nhiều long đong, nguy hiểm. Nếu không được thụ tinh thì trứng sẽ bị hủy hoại trong vòng 24 giờ đồng hồ. May mắn là có nhiều tế bào bảo trợ bao bọc, che chở và đưa trứng vào miệng ống dẫn trứng. Nơi đây, với môi trường ấm áp, ẩm ướt và ít ánh sáng, trứng được nuôi dưỡng và được đưa đẩy đi gặp tinh trùng.

Tinh trùng là những tế bào nhỏ nhất trong cơ thể, nhỏ đến nỗi phải có kính hiển vi với độ phóng đại lớn mới nhìn thấy. Sau khi có sự giao hợp, xuất tinh, tinh trùng di chuyển trên đoạn đường dài khoảng 12 phân, từ âm hộ lên ống dẫn trứng, trong một môi trường không thích hợp: tinh trùng cần môi trường kiềm để sinh tồn, thì âm hộ lại có nhiều acid. Khi tung vào môi trường này, tinh trùng nằm bất động một lúc để thích nghi, rồi như tiếp nhận được một sức mạnh kỳ lạ, vươn lên và bắt đầu lội ngược dòng, đi tìm trứng. Nhiều triệu tinh trùng thi đua, vượt qua bao trở ngại ở âm hộ, dạ con trước khi vào tới ống dẫn trứng. Cả triệu tinh trùng hy sinh, bỏ cuộc, còn ít ngàn tới được ống dẫn trứng cả hai bên, mà thường thì chỉ một bên có trứng nữ nằm chờ. Rất hãn hữu mới có trường hợp trong đó hai trứng được rụng để thụ tinh sinh đôi. Nhiều khi, vì một lý do chưa sáng tỏ, một trứng thụ tinh sẽ tạo ra hai hay nhiều hơn phôi thai để sanh nhiều hơn một con. Trong cửa mình, tinh trùng chỉ sống được vài giờ, nhưng khi đã vào tới ống dẫn trứng thì chúng tranh thủ, sống được cả hai ba ngày, chờ đợi. Rồi, do một tình cờ hay sắp đặt nào đó mà phần đầu một tinh trùng xâm nhập được vào một trứng, bỏ rơi cái đuôi đã giúp bơi đẩy nó đi tìm trứng. Khi đã vào trứng thì nó cố thủ không chịu buông tha.
Sau dăm ngày, trứng thụ tinh phải hơi trai tràn đầy sinh lực, bắt đầu tự phân rất nhanh. Trọng lượng trứng tăng lên gấp nhiều lần với khoảng 140 tế bào mà một số lớn trở thành cái nhau, một số khác là tế bào mầm: một phôi thai đã thành hình. Nếu mọi sự tiến hành thuận tiện, phôi thai sẽ bám và tự cấy vào dạ con để tăng trưởng và phân tách thành các bộ phận của cơ thể.


Khía cạnh đạo đức với thử nghiệm tế bào mầm của phôi thai

Các nhà tôn giáo, đạo đức có ý kiến khác nhau về phôi thai. Theo giáo lý đạo Thiên Chúa thì đời sống con người bắt đầu ngay sau khi thụ tinh, vì thế phôi bào, dù còn ở giai đoạn sớm nhất của sự tăng trưởng cũng đã là một cá nhân, với mọi quyền hạn, ưu tiên. Do đó, việc giết hại một phôi thai là điều mất đạo đức, như phá thai vậy, dù là dùng phôi bào cho mục đích tìm cách cứu chữa bệnh nhân, bệnh tật. Giáo Hoàng John Paul II đã trả lời “Không” đối với việc nghiên cứu tế bào mầm. Hội nghị các Giám mục Hoa Kỳ cũng chống đối. Nhiều người bảo thủ còn nhấn mạnh rằng, tiêu hủy một bào thai cho nghiên cứu khoa học hoặc trị bệnh là điều sai trái, độc ác. Nhưng một thăm dò ý kiến thì 65% dân chúng theo tôn giáo này lại ủng hộ việc nghiên cứu tế bào mầm. Họ nghĩ rằng việc sử dụng một sinh mạng trên nguyên tắc đã chết để cứu nhiều người còn sống, thì cũng tốt. Người chống phá thai tất nhiên chống nghiên cứu. Với những người này, lấy tế bào mầm từ phôi thai là giết một sinh mạng, vì khi phôi thai được đặt vào dạ con, nó có thể trở thành một thai nhi.

Còn Do Thái Giáo quan niệm đời sống bắt đầu ở giai đoạn trễ hơn, thường là khi thai nhi bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ, nên việc dùng tế bào mầm từ phôi thai để thử nghiệm là việc bình thường, không có gì mất đạo đức. Nhiều người cũng đồng ý rằng một cái trứng được thụ tinh thành phôi bào vẫn chưa là và chưa có một đời sống. Sự sống cần chuyển đổi từ giai đoạn phôi thai sang giai đoạn bào thai, cho nên dùng phôi thai để nghiên cứu không những hợp lý mà còn tuyệt hảo, đáng khâm phục vì ích lợi chung. Họ còn kết án những người chống đối là tàn nhẫn, không quan tâm gì đến sự đau khổ của bao nhiêu con bệnh nan y đang trông chờ, hy vọng phương thức trị liệu hữu hiệu.
Mục đích nghiên cứu tế bào mầm

Thảo luận về tế bào mầm phôi thai đã ngấm ngầm từ lâu. Tới năm 1998, khi sinh học gia James Thompson của Đại học Wisconsin cho hay đã tách rời được tế bào mầm từ bào thai con người và nuôi trong phòng thí nghiệm, thì tranh luận lên cao độ.

Các khoa học gia đều dùng tế bào mầm để nghiên cứu coi có thể làm nẩy sinh ra nhiều loại tế bào khác nhau của các bộ phận trong cơ thể. Và nếu thực hiện được điều đó thì tế bào mầm có thể được áp dụng trong trị bệnh, để thay thế cho tế bào đã bị hư hao vì bệnh tật cũng như ngăn ngừa sự hóa già.

Chẳng hạn trong bệnh Alzheimer, tế bào thần kinh bị tiêu hao mà không được thay thế. Nếu bây giờ ta có thể tạo sinh ra tế bào thần kinh thì tế bào này sẽ được dùng để thay thế các tế bào não đã chết và bệnh sa sút trí tuệ có thể chữa được. Hoặc trong bệnh tiểu đường, tế bào tụy tạng không tiết ra kích thích tố insulin, sẽ được thay thế bằng tế bào tụy tạng lành mạnh khác để sản xuất insulin. Các bác sĩ về máu, muốn có tế bào mầm để thay thế tủy sống trong việc chữa các bệnh thiếu hồng cầu, bệnh ung thư máu, phục hồi sự miễn nhiễm bị hư hao. Và nhiều thay thế khác nữa.
Về Đầu Trang Go down
https://tamlinhvahanhphuc.forumvi.com
Sponsored content





SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI    SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI  I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next
 Similar topics
-
» SỐNG CHẾT SỰ ĐẠI
» ĐẠI VIÊN MẢN VÀ ĐẠI THỦ ẤN
»  YÊN TỬ CƯ SỈ – ĐẠI SƯ TRẦN ĐẠI SỸ
» NHIẾP THẦN ĐẠI PHÁP -BẾ HUYỆT ĐẠI PHÁP -LÔI TÂM CHƯỞNG -NGŨ LÔI CHƯỞNG PHÁP- CHƯỞNG TRUNG PHÙ
» HƯƠNG VỊ CUỘC SỐNG

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ TÂM LINH - NGOẠI CẢM - HUYỀN BÍ HỌC - HUYỀN THUẬT . :: KỂ LẠI KINH NGHIỆM TÂM LINH CỦA MỌI HÀNH GIẢ TÂM LINH ...-
Chuyển đến