Vì thế cho nên người đồng cốt là nguyên nhân giúp họ phát triển một loạt Uẩn (Skandhas) mới (xem trang 209), một cơ thể mới có khuynh hướng và đam mê còn tồi tệ hơn cả cơ thể mà họ vừa mất. Điều này ắt gây ra vô vàn điều gian tà cho Chơn ngã và khiến cho nó phải tái sinh theo một kiếp hiện tồn tồi tệ hơn nhiều so với trước kia.
Sự giao tiếp với một thực thể ở Devachan nghĩa là trên cõi trời cần được giải thích thêm một chút nữa. Khi nhà ngoại cảm hoặc người đồng cốt có bản chất thanh khiết hoặc cao cả thì Chơn ngã đã giải thoát của y có thể vươn lên tới cõi Devachan và tiếp xúc với thực thể nhập Devachan ở đó. Người ta thường có cảm tưởng là thực thể từ cõi Devachan đã giáng nhập xuống người đồng cốt, nhưng sự thật ngược hẳn lại. Chính Chơn ngã của người đồng cốt đã vươn lên tới mức của thực thể ở Devachan. Do tình huống đặc thù của tâm thức các thực thể nhập Devachan (mà chúng ta không thể xét tới trong quyển sách này) cho nên những thông điệp thu được từ đó không thể hoàn toàn đáng tin cậy: cùng lắm thì người đồng cốt hoặc nhà ngoại cảm cũng chỉ có thể biết, nhìn thấy và cảm thấy những điều mà thực thể đặc thù nhập Devachan biết, nhìn thấy và cảm thấy. Vì thế cho nên nếu ta sa đà vào việc tổng quát hóa thì có nhiều khả năng sai lầm bởi vì mỗi thực thể nhập Devachan đều sống trong bộ môn đặc thù của riêng mình thuộc cõi trời. Ngoài cái nguồn sai lầm này ra, khi tư tưởng, kiến thức và tình cảm của thực thể nhập Devachan tạo nên thực chất của vấn đề thì rất có thể là phàm ngã của chính người đồng cốt cùng với những tiên kiến của y sẽ chi phối cái dạng giao tiếp.
Một u hồn (shade) (xem trang 107) có thể thường xuất hiện và giao tiếp trong những buổi lên đồng; vì có dáng vẻ chính xác của thực thể đã quá cố, có trí nhớ, những thói đặc thù v.v. . . của thực thể ấy cho nên nó thường bị nhầm lẫn là chính thực thể ấy mặc dù bản thân nó không hề cố tình nhập vai. Nó quả thật là một “mớ vô hồn những phẩm chất tồi tệ nhất” của thực thể ấy.
Một ma hình (shell) (xem trang 171) cũng giống chính xác như thực thể đã quá cố mặc dù nó chẳng qua là cái xác chết trên cõi Trung giới của thực thể ấy sau khi mọi hạt tâm trí đã rời bỏ xác chết. Khi nhập vào trong phạm vi hào quang của người đồng cốt nó có thể nhất thời được linh hoạt lên thành ra một thứ nhái lại của thực thể chân thực.
Những “âm ma” (spooks) như vậy thường vô lương tâm, không có những sự thôi thúc tốt đẹp, có khuynh hướng tan rã và vì vậy chỉ phục vụ cho điều gian tà, cho dù ta coi chúng là kéo dài sinh lực của mình bằng cách hút sinh lực giống như ma cà rồng trong những buổi lên đồng hoặc làm ô uế người đồng cốt và người lên đồng (the medium and sitters) bằng những mối liên hệ trung giới thuộc loại hoàn toàn bất hảo.
Một ma hình được cấp thêm sinh lực (a vitalised shell) (xem trang 172) cũng có thể giao tiếp thông qua một người đồng cốt. Như ta đã thấy, nó bao gồm một xác chết trên cõi Trung giới được một tinh linh nhân tạo làm linh hoạt và nó luôn luôn có ác ý. Rõ rệt là nó tạo thành một nguồn nguy cơ rất lớn trong những buổi lên đồng của Thần linh học.
Những người tự tử, các u hồn và ma hình được cấp thêm sinh lực đều là những ma cà rồng thứ yếu, chúng rút rỉa sinh lực của những người mà chúng gây ảnh hưởng được. Vì thế cho nên cả người đồng cốt lẫn người lên đồng đều thường ốm yếu và kiệt sức sau một buổi lên đồng. Học viên huyền bí học được dạy cho cách tự bảo vệ mình tránh khỏi những toan tính bất hảo ấy vì nếu không có kiến thức ấy thì kẻ nào dấn thân vào con đường này đều khó lòng tránh khỏi việc ít nhiều phải cống nạp cho chúng.
Chính việc sử dụng u hồn và ma hình trong những buổi lên đồng khiến cho biết bao nhiêu lời giao tiếp trong Thần linh học khét tiếng là vô bổ về mặt trí thức. Cái bề ngoài trí thức của chúng té ra chỉ là sao chép lại; nét nổi bật là chẳng có gì mới mẻ, chẳng có dấu hiệu gì về một tư tưởng mới lạ và độc lập.
Các Tinh linh Thiên nhiên (Nature-Esprits). Ở trang 182 và sau đó, ta đã miêu tả vai trò của những tạo vật này rất thường biểu diễn trong những buổi lên đồng.
Nhiều hiện tượng lạ trong phòng lên đồng rõ ràng là có thể giải thích hợp lý hơn khi coi đó là những mánh khóe thuộc đủ loại lực dưới nhân loại hơn là hành vi của các “vong linh” mà trong khi còn nhập xác cũng chắc chắn là không thể điên rồ ngớ ngẩn như vậy.
Chơn ngã của người đồng cốt. Nếu người đồng cốt thanh khiết và phấn đấu hướng theo ánh sáng thì sự phấn đấu hướng thượng như vậy ắt được đáp ứng do bản chất cao thượng chiếu cố: ánh sáng từ trên cao tràn xuống soi sáng cho tâm thức hạ đẳng. Lúc bấy giờ hạ trí nhất thời hợp nhất với cha của mình là thượng trí và truyền đạt được tối đa tri thức của thượng trí mà mình có thể ghi khắc được. Như vậy một số giao tiếp thông qua người đồng cốt có thể bắt nguồn từ Chơn ngã của chính người lên đồng.
Lớp thực thể bị thu hút tới phòng lên đồng dĩ nhiên tùy thuộc rất nhiều vào loại đồng cốt. Những người đồng cốt cấp thấp tất nhiên là thu hút toàn những khách tham quan không đáng mong muốn mà sinh lực đang tàn tạ của chúng được củng cố trong phòng lên đồng. Đâu phải thế là đã hết: nếu trong những buổi lên đồng còn có những người nam hoặc nữ có trình độ phát triển tương đối thấp thì âm ma sẽ bị thu rút về người ấy và có thể bám theo người nam nữ ấy, vậy là lập nên một đường giao tiếp giữa thể Vía của kẻ còn sống và thể Vía đang hấp hối của người đã chết; thế là gây ra những kết quả thuộc loại thật đáng phàn nàn.
Một Cao đồ hoặc một Chơn sư thường giao tiếp với các đệ tử mà không dùng tới những phương pháp giao tiếp bình thường. Nếu người đồng cốt là đệ tử của Chơn sư thì thông điệp của Chơn sư có thể “đến với y” mà bị hiểu lầm là thông điệp của một “vong linh” phàm tục.
Một Đấng Ứng Hóa Thân (Nirmānakāya) là một người đã toàn bích, ngài đã bỏ lại xác phàm nhưng vẫn còn giữ các nguyên khí thấp khác xác phàm, ngài vẫn còn tiếp xúc với trần thế để trợ giúp cho cơ tiến hóa của loài người. Trong những dịp hiếm hoi, các Đấng Cao Cả này có thể và ắt giao tiếp được thông qua một đồng cốt, nhưng có điều là người ấy phải rất thanh khiết và có bản chất cao thượng (xem thêm trang 175).
Nếu một người có rất nhiều kinh nghiệm về thuật đồng cốt thì y ắt thấy khó mà tin được có biết bao nhiêu những người rất tầm thường trên cõi Trung giới lại cháy bỏng ham muốn đóng vai các bậc đại Đạo sư trên thế giới. Họ thường có ý định ngay thật, và quả thực nghĩ rằng giáo huấn mà mình đưa ra sẽ cứu nhân độ thế được. Vì đã nhận thức được sự vô giá trị của những sự vật thuần túy trần tục cho nên dĩ nhiên họ cảm thấy rằng nếu mình gây ấn tượng được lên nhân loại bằng những ý tưởng của chính mình thì trọn thế giới ắt ngay tức khắc trở thành một nơi chốn khác hẳn.
Sau khi đã o bế người đồng cốt khiến y tin rằng mình là tác nhân duy nhất truyền thụ giáo huấn siêu việt độc quyền này và sau khi đã khiêm tốn chối bỏ bất kỳ sự cao cả đặc biệt nào của chính mình, một trong những thực thể giao tiếp ấy thường được người đồng cốt tưởng tượng ít ra cũng là một vị tổng thiên thần hoặc thậm chí là một sự biểu lộ còn trực tiếp hơn nữa của Đấng thiêng liêng. Tuy nhiên tiếc thay, một thực thể như vậy thường quên bén đi mất rằng khi mình còn sống trên cõi trần cũng có những người khác đã giao tiếp tương tự như vậy qua đủ thứ đồng cốt mà mình có buồn lưu ý tới đâu. Y không ngộ ra được rằng những người khác cũng đang đắm chìm vào những sự việc trần tục cho nên đâu có chú ý gì tới y và ắt từ chối không để cho lời giao tiếp của y thúc đẩy mình.
Có khi những thực thể ấy lại tá danh là những nhân vật nổi bật chẳng hạn như George Washington, Julius Caesar hoặc Tổng thiên thần Michael với một động cơ thúc đẩy chẳng biết có đáng tha thứ hay chăng là giáo huấn mà mình đưa ra rất có thể sẽ được chấp nhận nhiều hơn nếu chúng xuất phát từ một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó như John Smith hoặc Thomas Brown.
Cũng có khi những thực thể ấy thấy thiên hạ đầy lòng sùng kính các Chơn sư bèn đóng vai chính các Chơn sư này để cho những ý tưởng mà mình muốn phổ biến dễ được chấp nhận hơn.
Cũng có những kẻ toan tính gây hại cho công việc của Chơn sư bằng cách khoác lấy hình tướng của ngài rồi gây ảnh hưởng lên đệ tử của ngài. Mặc dù họ có thể tạo ra một dáng vẻ thể chất hoàn toàn giống như thật nhưng họ hoàn toàn không thể bắt chước được Thể Nguyên Nhân của Chơn sư, vì thế cho nên người nào có thần nhãn của thể nguyên nhân không thể bị lừa gạt bởi những kẻ mạo nhận như vậy.
Trong một vài trường hợp thì các thành viên của chi bộ các huyền bí gia đã phát khởi nên phong trào Thần linh học (xem trang 191) đã tự mình đưa ra các giáo huấn có giá trị bàn về những đề tài rất thú vị thông qua một người đồng cốt. Nhưng điều này bao giờ cũng hạn chế trong những buổi lên đồng riêng tư của gia đình chứ không bao giờ trong những buổi trình diễn công cộng mà thiên hạ phải trả tiền.
Quyển Tiếng Nói Vô Thinh đã huấn thị một cách minh triết như sau: “Con đừng tìm Sư phụ trong những chốn hão huyền như thế”. Ta không nên mù quáng chấp nhận bất kỳ giáo huấn nào của một huấn sư tự xưng tự mọc trên cõi Trung giới; mọi sự giao tiếp và khuyến dụ xuất phát từ cõi này nên được tiếp nhận giống hệt như ta tiếp nhận lời khuyến dụ tương tự trên cõi hồng trần. Ta nên xem xét giáo huấn theo giá trị của nó sau khi đã dùng lương tri và lý trí khảo sát.
Một người cũng đâu có gì không thể sai lầm, bởi vì y ngẫu nhiên đã bỏ xác so với khi y còn sống trên cõi trần. Một người có thể sinh hoạt nhiều năm trên cõi Trung giới thế mà cũng chẳng biết gì nhiều hơn so với khi y lìa trần.
Vì vậy ta không nên quan trọng hóa những điều giao tiếp từ cõi Trung giới hoặc từ một cõi nào cao hơn nữa so với khi ta tiếp nhận một điều gợi ý trên cõi hồng trần.
Một “vong linh” đang biểu lộ thường chính xác là cái mà nó rao giảng, nhưng nó cũng thường không phải thuộc loại ấy. Đối với kẻ phàm phu lên đồng thì không có phương tiện nào để phân biệt được chân và giả, bởi vì những nguồn tài liệu của cõi Trung giới có thể sử dụng để lừa gạt người trên cõi trần tới mức thậm chí ta không thể tin nổi những điều dường như là bằng chứng thuyết phục nhất. Ta không hề lúc nào cũng chối bỏ rằng có những thực thể chân chính đã đưa ra những giao tiếp quan trọng trong các buổi lên đồng mà ta chỉ khẳng định rằng kẻ phàm phu ngồi đồng hầu như không thể chắc chắn được việc mình có bị lừa gạt hay chăng bằng nhiều cách khác nhau.
Từ những điều nêu trên, ta ắt thấy các nguồn thông tin giao tiếp với cõi Trung giới có thể được tiếp nhận một cách đa dạng biết bao. H. P. Blavatsky có dạy: “Các nguyên nhân của những hiện tượng lạ là đa dạng và ta cần phải là một bậc Cao đồ để thực sự khảo sát, nghiên cứu những gì xảy ra ngõ hầu có thể giải thích được điều gì thật sự là nền tảng trong mỗi trường hợp”.
Để bổ túc cho phát biểu nêu trên, ta có thể nói rằng điều mà kẻ phàm phu có thể làm được trên cõi Trung giới sau khi chết thì y cũng có thể làm được trong khi còn sống trên cõi trần: Ta có thể dễ dàng thu được sự giao tiếp qua tài liệu viết lách, trong lúc xuất thần hoặc bằng cách sử dụng những quyền năng đã được rèn luyện và phát triển của thể Vía nơi cả những người đang nhập thể lẫn những người đã thoát xác. Vì vậy dường như ta nên thận trọng hơn bằng cách phát triển quyền năng linh hồn của chính mình thay vì vô minh dấn thân vào những cuộc thí nghiệm nguy hiểm. Bằng cách này ta có thể thu thập được kiến thức một cách an toàn và gia tốc cho cơ tiến hóa. Con người phải học biết được rằng sự chết không hề thật sự khống chế được mình, y đã nắm chắc trong tay chìa khóa nhà tù của thể xác và y có thể học được cách sử dụng nó tùy ý.
Xét theo sự cân nhắc kỹ lưỡng, mọi bằng chứng khả hữu bênh vực lẫn chống lại Thần linh học, ta ắt thấy dường như là nếu Thần linh học được sử dụng một cách cẩn thận và kín miệng thì nó có thể được biện minh hoàn toàn nhằm mục đích phá tan thuyết duy vật. Một khi đã đạt được mục đích này thì việc sử dụng nó dường như quá đầy sự nguy hiểm đối với cả người sống lẫn người chết; cho nên nói chung, ta không nên khuyên thiên hạ sử dụng nó, mặc dù trong những trường hợp ngoại lệ người ta có thể thực hành Thần linh học một cách an toàn và đầy lợi ích.
THẦN LINH HỌC
(SPIRITUALISM)
(Trích Chương 22 quyển THỂ VÍA)
THE ASTRAL BODY AND OTHER ASTRAL PHENOMENA
Tác giả: A. E. POWELL Bản Dịch Chơn Như 2010
http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20thanlinhhoc.htm