CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 Osho, Ông là ai?

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Osho, Ông là ai? Empty
Bài gửiTiêu đề: Osho, Ông là ai?   Osho, Ông là ai? I_icon_minitimeSat May 29, 2010 7:43 pm

Osho, Ông là ai?

OSHO
(Nguyễn Điệp Hoa ) Khoảng những năm 95 -98, những người quan tâm và tìm kiếm về tâm linh bắt đầu đưa cho nhau đọc những bản copy không rõ ai dịch, không rõ từ đâu, nhưng những lời lẽ trong cuốn sách đầy mê lực và có sức thức tỉnh lòng người vô cùng mạnh mẽ. Cái tên Osho được biết đến có lẽ từ đó, hay từ trước đó một chút nữa ở Việt Nam. Rất ít người khi đó biết được rằng con người vĩ đại và đầy phi thường chỉ mới qua đời năm 1990. Ông gần như sống cùng thời đại với chúng ta, tiếc rằng, chỉ gần đây, khi hàng chục cuốn sách của Osho được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì chúng ta cũng mới biết nhiều đến ông với những tư tưởng vĩ đại và đặc sắc.
Osho tên thật là Rajneesh Chandra, sinh năm 1931 tại một ngôi làng nhỏ ở miền trung Ấn Độ. Ông được coi là một trong những đại diện tư tưởng xuất sắc nhất mọi thời đại. Có những đánh giá nói rằng Đức Phật đã trở lại trái đất sau 25 thế kỷ qua ông, rằng ông là một kẻ “nổi loạn” và là kẻ “nguy hiểm nhất” chỉ sau Jesus. Nhân loại vừa yêu ông, vừa sợ ông. Ông giống như ánh hào quang làm hoảng sợ và chói mắt những kẻ nô dịch người khác bằng mọi tư tưởng và luận thuyết cứng nhắc, giáo điều, nhưng bản thân lại đầy ý thức nô lệ. Mục đích của các thông điệp của ông là nhằm đánh thức nhân loại đang trong cơn mê của những sự nhầm lẫn căn bản nhất về ý nghĩa của sự tồn tại của con người. Sự xuất hiện của Osho và tư tưởng của ông giống như một dự báo về một nhân loại mới, về một thời đại mới mà ở đó, tất yếu con người phải “trở về”, phải tìm thấy sự hợp nhất với hiện hữu, với chân lý. Osho dường như đã xuất hiện như một người thầy dẫn đường.
Osho có nét của một nhà truyền giáo, nhưng bản thân ông không theo một tôn giáo nào. Khi còn nhỏ, 7 năm đầu đời, ông sống với ông bà ngoại và không hề đến một trường lớp nào. Nhưng chính trong một môi trường “vô giáo dục” như thế – điều được ông coi là một phúc lành, một tư tưởng vĩ đại nhất đã chạm đến tâm hồn còn như một trang giấy mới trắng tinh của cậu bé Rajneesh Chandra: “Tôi đảnh lễ dưới chân những ai đã biết chính mình…” qua bà ngoại của cậu, một phụ nữ chân quê, thất học, nhưng đầy sáng suốt.
Toàn bộ tư tưởng của Osho đều được xoay quanh điều quan trọng nhất này: Biết chính mình. Ông nói: “Tính tâm linh, đối với tôi, đơn giản chỉ có nghĩa là phát hiện chính mình”.
Osho dành cả đời mình để chỉ làm một việc: Giúp mọi người, và về sau là giúp “những kẻ tìm kiếm” phát hiện chính mình. Đây cũng chính là hạt nhân trong tư tưởng của ông. “Biết chính mình”, hay biết “tôi là ai” là câu hỏi của bản thân mỗi người và họ phải tự đi con đường của mình để trả lời câu hỏi này. Câu hỏi đơn giản, nhưng quan trọng nhất này cũng là câu hỏi khó nhất bởi vì nó chạm tới bản thể của con người. Trả lời câu hỏi này đòi hỏi cả một hành trình dài đằng đẵng, nhiều kiếp, bởi vì đơn giản là qua quá nhiều triệu kiếp, con người đã đi sai đường. Thay vì đi vào trung tâm, nó ngày càng đi ra ngoại vi. Một trong những sai lầm lớn nhất của con người, theo Osho, là nhầm lẫn về thể xác và tâm trí. “Bạn không phải là tâm trí bạn, bạn cũng không phải thân thể bạn”, ông nói. Vì thế, ông hướng dẫn đầu tiên bạn phải học nhận ra cơ thể bạn không phải bạn, rồi sau đó, mới đến tâm trí. Thể xác và tâm trí sẽ mất đi, nhưng bạn thì vĩnh cửu. Vì vậy, cái vĩnh cửu này, hay cái bản thể, hay chân lý phải được tìm ra, hay nói

tìm lại chính mình
khác đi, ‘bạn phải trở về nhà”. Một khi trở về, bạn nhận ra mình là một phần của cái toàn thể, bạn là một với hiện hữu, bạn đã tìm thấy Thượng đế.
Triết học của Osho không phải là để nghiền ngẫm mà để thực hành. Để “trở về”, thiền định là phương tiện chính, là then chốt. Ông nói :” Thiền định không là gì khác ngoài sự rút lui của mọi loại rào chắn – những tư tưởng, cảm xúc, tình cảm – những cái tạo ra bức tường giữa bạn và hiện hữu. Cái khoảng khắc chúng rơi rụng đi, bạn đột nhiên tìm thấy chính mình hòa điệu với cái toàn bộ. Không chỉ hòa điệu, bạn thực sự là một với cái toàn bộ”. Osho đưa ra 112 phương pháp thiền, trong đó thiền động được coi là một phương pháp hết sức độc đáo. Nguyên lý của thiền động đơn giản là bạn phải tập trung vận động điên cuồng trong một thời gian ngắn để tống hết tất cả những rác rưởi dồn ứ trong bạn, những lo âu, phiền muộn, âm mưu, hằn thù, oán giận, căng thẳng …ra ngoài, rồi sau đó bạn mới có thể tĩnh lặng. Nơi chứa chấp tất cả những rác rưởi, tạo thành lớp lớp rào cản, như những đám mây dày đặc che kín bầu trời này, chính là tâm trí con người. Ở đây, bạn phải học để nhận ra tâm trí bạn chẳng phải cái gì khác mà chính là cái bản ngã, được làm nên bởi những rác rưởi, dục vọng, ham muốn của con người. Cả những cái gọi là “tri thức”, hãy tự hỏi xem, có cái gì từ bạn mà ra không, hay nó là từ ngoài đi vào? Nếu bạn có tri thức, bạn sẽ chỉ là học giả, nhưng bạn sẽ mãi mãi không là một người thông minh và trí tuệ, bởi vì sự sáng suốt, trí tuệ thật sự là cái đi từ bên trong ra. Chỉ khi nào những đám mây dày đặc của những cái không phải của bạn, không phải là bạn, tan đi thì mặt trời mới hé rạng, giọt nước đã hòa vào đại dương, bạn mới tìm thấy mình; hay chỉ khi bạn từ chối chính bạn, khi bạn biến đi, thì hiện hữu lao về phía bạn, đi vào bạn – theo diễn đạt của Osho. Khi đám mây tan đi, bạn mới thấy được sự thật. Một ví dụ để hiểu cái nhìn của ông: “Ông là ai?” – câu hỏi của một nhà báo. Trả lời: Nếu bạn không nhìn tôi với sự trống rỗng trong bạn thì câu trả lời của tôi cho bạn là vô ích. Nó sẽ chỉ là sự phản ánh chính bạn thôi. Bạn soi tôi để thấy chính bạn thôi, chứ không thấy tôi. Nếu tôi trống rỗng, bạn trống rỗng thì đó sẽ là hai tấm gương soi vào nhau và chúng ta sẽ thấy nhau.
Từ nguyên lý nhất thể xem con nguời là một phần của hiện hữu, Osho đã xem xét và thuyết giảng về những vấn đề căn bản liên quan tới tâm linh như sự sống, cái chết, sự bất tử, tự do, tình yêu, tình dục…và rất nhiều vấn đề xã hội khác, từ đó ông hướng dẫn dẫn các giá trị sống đích thực cho con người. Mặc dù tiếp thu rất nhiều giá trị tư tưởng, văn hóa và tôn giáo Ấn Độ, Osho không theo một tôn giáo nào. Ông không chia sẻ các quan niệm về sự tồn tại của Thượng đế, hay Đấng sáng tạo. Ông dùng các từ ngữ “Thượng đế”, “tôn giáo”…chỉ để tải các tư tưởng của chính ông. Một trong những điểm ông phê phán mạnh mẽ nhất ở các tôn giáo là con người thường bị xem như kẻ tội lỗi và vì thế phải được dẫn dắt để gột sạch tội lỗi trong kiếp sống này. Ông phê phán gay gắt việc nhiều tôn giáo coi cuộc sống trên trái đất chỉ là nơi chuẩn bị cho một thế giới khác sau cái chết. Tinh thần của Osho hoàn toàn ngược lại. Ông coi cuộc sống là một trải nghiệm quý giá, một cơ hội, một lễ hội, con người phải hân hoan, vui sống. Khi bạn hết lòng với giây phút hiện tại, quá khứ và tương lai không còn chỗ trong tâm trí bạn. Nó không có khả năng dựng rào cản trong tâm trí bạn nữa. Cuộc sống là ở đây, giây phút này. Những lớp học thiền định của Osho duy nhất là nơi học viên được vui chơi, nhảy múa, ca hát, tràn đầy âm nhạc, vũ điệu, hoan hỉ…trước khi đi vào tĩnh lặng. Tìm ra chính mình, con người cũng sẽ cảm nhận được Thượng đế trong bản thân mình, hay nói theo Osho, đó là tính tôn giáo, tính Thượng đế. Với Osho, không có Thượng đế, chỉ có tính Thượng đế, không có tôn giáo, chỉ có tính tôn giáo.
Một trong những vấn đề căn bản Osho bàn tới – đó là tự do. Tự do trong tư tưởng của ông về cơ bản là tự do thoát khỏi cái “tôi”. Cái “tôi” hay bản ngã chính là cái tạo ra xiềng xích. Một khi thoát khỏi cái “tôi”, con người mới thực sự có tự do, và nhờ đó tràn đầy tình yêu. Nên, xem xét tự do với Osho cũng đồng thời là xem xét tình yêu đích thực là gì. Theo Osho, tình yêu không phải là cái đến ở bên ngoài, không phải là cái ta đòi hỏi được và xin được. Tình yêu là kho báu, là suối nguồn từ bên trong của mỗi con người. Nhưng kho báu này bị che giâú bởi cái “tôi”, bởi bản ngã của con người. Khốn thay, chúng ta luôn nghĩ rằng chúng ta biết về tình yêu. Một khi nghĩ rằng mình biết rồi, ta không đi tìm nó nữa. Nên Osho dạy rằng trước tiên phải hiểu là ta chẳng biết gì về tình yêu cả. (Có ai trong chúng ta đủ ý dũng cảm để nói rằng tôi chẳng biết gì về tình yêu?) Chỉ những người đã vượt qua khỏi sự cần thiết phải đòi hỏi tình yêu mới bắt đầu đi trên con đường tình yêu đích thực – con đường cho đi tình yêu. “Tình yêu nghĩa là cho đi, nó không hề biết gì về đòi hỏi”, rằng ‘Tình yêu mà đòi hỏi thì không phải là tình yêu”, “Tình yêu chỉ tìm đến cánh cửa mà sự thèm muốn đã biến mất”. Tình yêu là âm nhạc nội tại con người của bạn, là sự nở hoa bên trong. Nhưng, sự nở hoa sẽ không thể diễn ra bởi cái “tôi”. Chừng nào trong mỗi con người còn tràn đầy tiếng ồn của cái “tôi” thì chừng đó tình yêu còn không thể hiển lộ. Ánh sáng và bóng tối không thể tồn tại cùng nhau. Theo cùng cách ấy, tình yêu và bản ngã không thể tồn tại cùng nhau. Vì bên trong ta không có tình yêu nên cái “tôi” vẫn liên tục vang lên. Nên kẻ nào có cái ngã toàn bộ, tình yêu sẽ chết hoàn toàn trong hắn. Bạn cũng có thể nói bản ngã cũng yêu, nhưng tình yêu xuất phát từ bản ngã là tình yêu giả tạo, nó sẽ sớm trở thành xiềng xích – bộ mặt thật của nó. Nó là mưu mẹo về sự sở hữu. Một lần nữa, Osho nhất quán với tư tưởng hạt nhân của ông về “trở thành chính mình” khi ông tuyên bố: “Chẳng ai có thể tìm kiếm được cái thiêng liêng siêu phàm bởi vì hắn không có khả năng như thế. Nhưng đến khi có người nào đó trở nên sẵn sàng biến mất, đã trở nên sẵn sàng chẳng là gì cả, sẵn sàng biến thành cái không, thế thì cái thiêng liêng, siêu phàm chắc chắn sẽ tìm đến hắn. Chỉ có cái thiêng liêng là có thể tìm kiếm con người, con người không bao giờ có thể tìm kiếm cái thiêng liêng ấy, bởi ngay khi tìm kiếm thì bản ngã đã có mặt…”. Chỉ “Cái ngày mà hắn không tồn tại, ngày đó cánh cửa che dấu tình yêu sẽ mở ra cho hắn”. Vậy thì cái bản ngã, cái “tôi” ấy là cái gì, nó ở đâu, và nó là ai. Theo Osho, “tên” (như Hùng, Hiền chẳng hạn) và “tôi” – đó chẳng qua là những tiện ích xã hội để phân biệt bạn với người khác, nó chỉ mang chức năng nhãn hiệu, là hai mặt của đồng tiền. Tên để thấy được từ bên ngoài, và tôi thấy được từ bên trong. Nhưng nhầm lẫn đã dẫn đến ảo tưởng về giá trị của tên và “tôi”. Bao lâu cái ảo tưởng này còn tồn tại thì không gian dành cho tình yêu vẫn không được mở ra. Như vậy, suy cho cùng, tình yêu cũng là một hình thức của ý thức về bản thể, về nhất thể, về bản tính vũ trụ, bản tính Thượng đế của con người. Tình yêu chỉ có toàn bộ khi con người phát hiện ra chính mình.
Một trong những quan niệm đặc sắc của Osho là về tình dục. Đó là lĩnh vực hầu hết mọi tôn giáo, mọi xã hội đều né tránh. Chính sự né tránh này đã dẫn đến sự ghìm nén tình dục và đây là nguồn gốc dẫn đến những nhận thức méo mó, sai lệch về nó. Vượt qua những sự méo mó này, Osho đã xem xét vấn đề tình dục một cách toàn diện, sâu sắc và mới mẻ. Theo ông, vì đây là nguồn sinh lực tự nhiên của con người nên nếu bị đè nén, như dòng sông, nó tất sẽ bị lệch dòng. Tình dục là nấc thang thấp nhất của quá trình tìm ra chính mình. Bạn có thể cảm nhận khoảng khắc phi ngã, phi thời gian, khi đạt tới đỉnh điểm của khoái cảm. Nếu bạn ý thức và quan sát được giây phút này, bạn sẽ thoát khỏi tình dục. Ba cấp độ của tình dục, theo Osho, là tình dục gắn với thể xác, tình dục gắn với tình yêu và tình dục gắn với thiền. Tình dục gắn với thể xác là khi con người bất hạnh và chạy trốn – nó tìm đến tình dục. Tình dục và tình yêu là mức độ cao hơn của sự hòa hợp hai tâm hồn. Ở đây, ngay cả trong hôn nhân, Osho quan niệm rằng nếu một người sử dụng người kia, ham muốn thân xác mà khôngcó tình yêu thì cũng chẳng khác gì mại dâm. Tình dục ở cấp độ ba là một cánh cửa dẫn tới thiền. Càng thỏa mãn bao nhiêu, con người ở cấp độ này càng sớm rời bỏ tình dục bấy nhiêu để đi đến một nấc thang cao hơn của hành trình tâm linh. Theo cách này, Osho dự đoán nhân loại sẽ phát triển đến giai đoạn con người “đủ” tình dục, nó sẽ từ bỏ và sẽ dẫn tới tình trạng độc thân. Nhân loại mới sẽ dần dần không ra đời theo quan hệ tình dục nam nữ nữa, mà theo một cách khác. Osho bị phê phán và chỉ trích dữ dội từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị, văn hóa…vì những luận điểm của ông về tình dục, nhưng thế kỷ 21 đang hé lộ rằng những dự đoán của ông đang thành hiện thực.
Tuy đưa ra rất nhiều thông điệp và lời chỉ dẫn, nhưng Osho thực ra không viết sách. Toàn bộ mấy trăm tác phẩm của ông là tập hợp của hàng nghìn các bài nói chuyện ở đã nói ở khắp nơi trên thế giới và tại Ấn Độ, trong đó mỗi câu ông nói, mỗi dòng được ghi lại, đều chứa đựng thông tin. Hùng biện, giản dị nhưng đầy cuốn hút và thông tin dày đặc – đó là phong cách Osho. Bạn phải suy nghĩ trên mỗi dòng, mỗi trang khi đọc ông. Lý do không viết gì của Osho là ông không muốn mọi người bám lấy, hay lụy vào những điều ông nói. Ông thuyết giảng, nhưng ông nói ông không có học thuyết nào, triết học nào, tôn giáo nào…Mỗi người là duy nhất và họ phải trải qua hành trình của chính mình. Cũng như Đức Phật, ông chỉ chỉ trăng thôi, mọi người phải hướng đến mặt trăng mà quên ngón tay chỉ trăng của ông.
Con đường truyền thông cho loại “tôn giáo không có tôn giáo” theo cách nói của ông là một con đường gập ghềnh. Ông từng học triết, trở thành giáo sư đại học, rồi trở thành một đạo sư lang thang. Ông đã đi từ chứng ngộ cá nhân đến truyền đạt cho những đám đông hàng chục nghìn người, rồi cuối cùng chỉ dừng lại ở những nhóm nhỏ của những người mà ông nhận ra họ đang thực sự tìm kiếm. Ông phản đối việc thành lập một tổ chức, một tôn giáo sau lưng ông. Ông từng được chào đón, nhưng cũng từng bị xua đuổi ở nhiều quốc gia, kể cả Ấn Độ, vì ông dám đặt những câu hỏi có sức công phá đến tận gốc rễ và lật đổ những tà thuyết có sức sống hàng nghìn năm, những truyền thống văn hóa hủ bại, những sự dối trá, những sự nhầm lẫn ghê gớm của loài người…Ông thách thức những nền tảng vững bền được bảo vệ vởi các thể chế cùng vô số các nhà tư tưởng và tâm linh qua hàng nghìn năm, và vì thế, nhiều kẻ muốn giết ông như người ta đã từng đóng đinh Jesus, đầu độc Socrate (nhà triết học Hi Lạp cổ đại)… Ngay cả với Đức Phật, ông cũng cương quyết từ chối “phải nằm nghiêng bên phải, tay kê đầu” –thiền trong khi ngủ đêm – và cầm bình bát khất thực. Cả cuộc đời của Osho là một hành trình liên tục thực hành và thay đổi cách làm, xuất phát từ một thời đại thay đổi nhanh chóng và con người đã đạt tới tiện nghi cao về vật chất, khoa học phát triển mạnh mẽ…nhưng nhân loại ngày càng bế tắc hơn trong lĩnh vực tinh thần.
Osho từ biệt cõi đời nhẹ nhàng, từ chối cấp cứu. Cái chết của ông được cho là do nguyên nhân bị đầu độc bằng thallium, một chất hủy hoại hệ miễn dịch, trong thời gian ông bị bắt vô cớ và bị chuyển qua 6 nhà tù liên tiếp chỉ trong vòng 12 ngày tại Mỹ.
Điều kỳ diệu là toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp đồ sộ của con người vĩ đại này giúp chúng ta không phải học hỏi về ông, mà là học hỏi về chính mình.
Osho là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi.

Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương Đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hoá cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học. Nhưng có lẽ điều này nằm trong ý đồ đích thực của một con người “nổi loạn” như ông.
Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại. Song song với những công trình luận giải vĩ đại đó thì tập thể quần chúng và đệ tử do ông hướng dẫn lại gây nên rất nhiều tai tiếng, thậm chí có kẻ trở thành tội phạm.
Sự thật về con người Osho nằm ở đâu? Thiết nghĩ khó có ai trả lời được và điều này có thể cũng lại nằm trong chủ đích của chính ông. Chính ông cũng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy). Tuy thế, một khi độc giả đã cầm quyển sách này trong tay, một lời dẫn nhập ngắn nhằm giới thiệu con người và quan niệm của Osho có lẽ sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước. Đó là mục đích của bài này.
Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ. Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất thể (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa “Thượng đế” và “phi Thượng đế”. Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên là “Thượng đế” đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.
Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là “nằm yên trong trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ”. Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.
Với nhận thức này, Osho hoàn toàn nằm trọn vẹn trong truyền thống của triết học Ấn Độ, nhất là trong Đại thừa Phật giáo. Nếu nhớ đến tư tưởng của Mã Minh trong Đại thừa khởi tín luận, hay Thiền ngữ “Tâm bình thường là đạo” của Nam Tuyền, hay các phép hành trì của Phật giáo Tây Tạng, hay tư tưởng của các vị đạo sư của thời hiện đại như Aurobindo hoặc Krishnamurti, ta dễ dàng thấy sự trùng hợp tuyệt đối về nhận thức luận giữa ông và các truyền thống đó. Chỉ có điều khác biệt là, Osho nói về các nhận thức này một cách hùng biện và mới mẻ. Nhất là với tính cách của một giáo sư triết học, trong các luận giải, ông phối hợp một cách tài tình những truyền thống của Phật giáo, Kỳ-na giáo (Jainism), Ấn Độ giáo, Lão giáo, Cơ-đốc giáo, Sufism (một truyền thống của Hồi giáo), và triết học cổ của Hy Lạp. Thế nhưng, cũng như mọi nhà đạo học khác, ông không quên chỉ rõ, không một nền triết học nào có thể diễn bày được chân lý, có thể thay thế được sự chứng thực cá nhân.
Do đó sự trải nghiệm, sự chứng thực của trạng thái giác ngộ là cốt tuỷ của mọi sự. Ông tự nhận mình đã đạt trạng thái này năm 21 tuổi. Phương pháp khả dĩ đưa đến giác ngộ là phép thiền định. Nhưng thiền định là gì và hành trì thiền định như thế nào? Theo Osho thiền định là một trạng thái “nằm ngoài tâm”. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Quan niệm này về thiền của Osho không hề khác với các phát biểu xưa nay của các vị Thiền sư của miền Đông Á, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhưng cách hành trì thiền định do Osho đề ra thì khác hẳn.
Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây rất khó áp dụng phép toạ thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rũ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra, ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và cử hành tế lễ. Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của Không tính (state of emptiness) và đạt giác ngộ. Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là “không” thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông một con người giác ngộ sẽ là “phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất”.
Đó là những nét cơ bản về quan niệm của Osho về phép hành thiền. Thật ra thì phương pháp chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng không phải là một điều gì mới lạ. Trong truyền thống Ấn Độ, người ta vẫn còn nhắc đến 84 vị Đại Thành tựu giả (Mahasiddha), các vị được xem là sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 đến thứ 12 sau công nguyên [1] . Đó là các vị hành giả lòng còn chất chứa đầy các loại dục vọng khác nhau, nhưng nhờ biết cách quán chiếu chúng, biết chúng chẳng qua đều là những dạng của Không tính mà đạt được thành tựu. Đọc tiểu sử các vị đó, ta sẽ thấy đó toàn là những người mang đầy thói hư tật xấu, thậm chí có kẻ là người chuyên đánh bạc hay ăn trộm, nhất là có rất nhiều vị đam mê tình dục. Thế nhưng, nhờ một cách hành trì thiền định, trong đó họ quán tưởng “đối tượng đam mê” và “người đam mê” đều chỉ là những dạng của “Không”, họ đạt giác ngộ ngay trong đời này. Các vị đó là những người tiên phong của một truyền thống được mệnh danh là Kim cương thừa. Trong thời đại gần đây hơn, các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương “chuyển hoá” năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestalt Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng.
Dĩ nhiên phương pháp của Osho có một tầm cỡ hoàn toàn khác so với phép chữa bệnh tâm lý nói trên, vì ở đây nó có tính chất tôn giáo cao độ. Còn so với các truyền thống xưa thì điều kỳ lạ là ông dám đem ra áp dụng cho quảng đại quần chúng. Ở đây ta dễ dàng đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.
Osho vốn là một con người “nổi loạn”, luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60, ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng “đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng” và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự huỷ vì người ta không thể chuyển hoá tình dục nếu không nếm trải nó “một cách đích thực và đầy ý thức”. Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là “đích thực và đầy ý thức” như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi ông là “đạo sư tình dục” (sex-guru) và gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục”.
Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì thế mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.
Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hoá chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hoá, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hoá năng lực của tình dục. Đó là một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn “chuyển hoá” thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể toả hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.
Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim cương thừa trong thế kỷ 20 tại phương Tây, nhưng có lẽ ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim cương thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng. Nếu Osho nghe những lời này, hẳn ông sẽ nói “tất cả là thượng căn” vì ông quan niệm ai cũng là Thượng đế cả, không có gì là không thiêng liêng.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên về câu trả lời của một người được mệnh danh là “nổi loạn” như ông, nhưng những gì ông hứng chịu trong cuối đời do chính đệ tử của ông gây ra cho thấy nhiều học trò của ông xem ra không hề “thiêng liêng” gì cả. Phần lớn môn đệ của ông tìm đến vì tò mò, không ít người phản bội ông, làm giàu trên lòng tin ngây thơ của người khác. Trong quá khứ người ta cũng chỉ biết vỏn vẹn có 84 vị Thành tựu giả trong số hàng triệu người tu học tại Ấn Độ thì tại sao ngày nay lại có thể khác. Hơn thế nữa, con người của thời đại này lại càng vô cùng khó khăn hơn nữa khi muốn chuyển hoá một năng lực gắn liền với thân vật chất để thăng hoa, tiến gần với cái thiêng liêng. Thời đại này là kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật, những người tưởng như muốn tìm đến cái thiêng liêng thực chất cũng là môn đệ của chủ nghĩa duy vật tâm linh (spiritual materialism) như Chogyam Trungpa đã nói. Thời nào cũng thế, con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, chỉ tìm những gì họ khao khát. Vì thế khi ông đã lỡ nổi danh là một “sex-guru”, ta có thể đoán biết thành phần và mục đích của những người hướng về ông. Quả thực sau khi ông mất, không có ai đủ sức trình bày một bài thuyết giảng cho xứng đáng là người đã từng theo học với ông.
Ông mất đi trong sự tan rã của phong trào theo học giáo phái Osho, nhưng có lẽ một con người như ông không có gì để tiếc nuối vì như ông nói, ông “chỉ là một đám mây”, đến chơi với trần thế trong một thời gian ngắn ngủi. Thế nhưng, hơn 15 năm sau ngày ông mất, người ta vẫn tìm đọc Osho vì trong sách báo của ông để lại, quả thực có một điều gì có giá trị nội tại, quả thật đây là những lời nói của một con người phi thường. Nhưng mặt khác, người ta cũng thấy phương pháp thiền định của ông không phải dành cho tất cả mọi người. Nếu xét Kim cương thừa và những vị tu sĩ cao cấp đã tu luyện theo phép này, người ta phát hiện lại một câu nói giản đơn của một người hẳn đã biết mức độ chọn lọc đối với người hành giả có thể theo học phép tu này. “Chỉ những ai đã xả bỏ tâm phân biệt, những ai mà đối với họ một đĩa thực phẩm sang trọng và một đĩa phân là như nhau, thì kẻ đó mới được theo học Kim cương thừa”. Đó là lời của Đạt-lai Lạt-ma thứ V (1617-1682). Các đệ tử của Osho không hề là những người như thế. Một số đến với ông vì tính cách nổi loạn như ông nhưng một cái khác thì họ không có, một số khác vì tò mò, vì thất bại, vì ưu phiền cá nhân. Dĩ nhiên, nếu thảng có ai trong số đó đã đạt giác ngộ như ông thì điều đó chúng ta không bao giờ biết.
Chỉ Osho mới biết mình thành công hay thất bại, nhưng ông lại không màng đến nó. Ông chỉ thấy phải nói phải làm những cái đáng nói đáng làm. Nếu đọc cuốn sách này, ta sẽ biết tính khí của ông và đoán có thể tất cả đều nằm trong chủ đích của ông. Có thể ông đã thấy rõ đời mình phải làm ầm ĩ lên như một người điên thì mọi người mới chịu chú ý nghe những gì mình nói, nếu không tất cả sẽ chìm trong quên lãng trong một thế giới quá nhiều thông tin. Và tác phẩm đang nằm trong tay bạn đọc có lẽ đang chứng minh điều đó.
[1]Xem Keith Dowman, Master of Mahamudra, Songs and histories of Eightyfour buddhist Siddhas, NY 1985.
Đỗ Tư Nghĩa sưu tầm & biên dịch, NXB Trẻ.
http://www.camxahoc.vn/?p=2659
Về Đầu Trang Go down
 
Osho, Ông là ai?
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: HUYỀN BÍ HỌC VÀ TÔN GIÁO :: CÁC TRƯỜNG PHÁI HUYỀN BÍ HỌC VÀ CÁC TÔN GIÁO :: HUYÊN BÍ HỌC ẤN ĐỘ-
Chuyển đến