CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 Các bộ sách Dịch Cân Kinh

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Các bộ sách Dịch Cân Kinh  Empty
Bài gửiTiêu đề: Các bộ sách Dịch Cân Kinh    Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 5:13 am


Các bộ sách Dịch Cân Kinh

Có rất nhiều sách Dịch Cân Kinh khác nhau. Tôi sẽ cố sưu tầm và đưa lên cho các bạn tham khảo.


Dịch Cân Kinh thực hành

Soạn giả Trần Tâm Viễn

Dịch Cân Kinh là gì?

1. Vài hàng về Soạn Giả
2. Thay lời tựa
3. Dịch Cân Kinh là gì?
4. Những truyền thuyết về Bồ Ðề Ðạt Ma
5. Những điểm cần phải để ý khi tập Dịch Cân Kinh

Ðạt Ma
Dịch Cân Kinh

6. Thế 1 - Vi Ðà Hiến Chử (1)
7. Thế 2 - Vi Ðà Hiến Chử (2)
8. Thế 3 - Vi Ðà Hiến Chử (3)
9. Thế 4 - Trích Tinh Hoán Ðẩu
10. Thế 5 - Ðảo Duệ Ngưu Vĩ
11. Thế 6 - Xuất Trảo Lượng Sí
12. Thế 7 - Bạt Mã Ðao
13. Thế 8 - Tam Bàn Lạc Ðịa
14. Thế 9 - Thanh Long Thám Chảo
15. Thế 10 - Ngạ Hổ Phác Thực
16. Thế 11 - Ðả Cung
17. Thế 12 - Ðiệu Vĩ (Lắc đuôi)

Thiếu Lâm
Dịch Cân Kinh

18. Thế thứ 1
19. Thế thứ 2
20. Thế thứ 3
21. Thế thứ 4
22. Thế thứ 5
23. Thế thứ 6
24. Thế thứ 7
25. Thế thứ 8
26. Thế thứ 9
27. Thế thứ 10
28. Thế thứ 11
29. Thế thứ 12

Phương pháp Xoa bóp
Hồi Xuân Cơ Thể

30. Phương pháp tự xoa bóp hồi xuân cho cơ thể
31. Xoa tay
32. Xoa bóp bộ đầu
33. Vuốt mặt
34. Cách tập mắt
35. Xoa huyệt Thái Dương
36. Cách tập của mũi
37. Cách tập cho bộ phận tai
38. Cách tập của răng
39. Khua lưỡi
40. Tiếp nước cam lồ
41. Gõ trống trời
42. Vuốt cổ
43. Xoa huyệt Hợp Cốc
44. Xoa huyệt Nội Quan
45. Xoa bụng
46. Xoa lưng
47. Co thắt hậu môn
48. Hòa Ðới Mạch
49. Xoa đầu gối
50. Bạch Hạc chuyển tất
51. Xoa huyệt Ủy Trung
52. Xoa bóp huyệt Túc Tam Lý
53. Xoa gan bàn chân
54. Hít thở để điều hòa khí huyết


Phương pháp thâu hít
Tinh Hoa của Trời Ðất

55. Thâu hít ánh mặt trời
56. Thâu hít ánh trăng
57. Trao đổi với cây cối
58. Thâu nạp khí muôn hoa
59. Hườn tinh bổ não

Toa thuốc Tăng lực cho việc
luyện Dịch Cân Kinh

60. Ðại lực hoàn
61. Rượu bổ Anh Ðào
Vài hàng về Soạn giả Trần Tâm Viễn


Soạn giả Trần Tâm Viễn sinh năm 1943, trong một gia đình người Hoa theo Phật Giáo, sống tại Việt Nam lâu năm.
Hiện cư ngụ tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn (San Francisco), ông đã tự bỏ công sưu tầm nghiên cứu về Dịch Cân Kinh nhiều năm.

Cách đây khoảng 21 năm, ông đã lâm trọng bệnh, mặc dầu đã nhiều lần chạy thầy thuốc vẫn không thuyên giảm. May mắn thay, ông gặp được vị lão võ sư ra tay cứu giúp và truyền cho bí quyết Dịch Cân Kinh của Trung Quốc, nhờ thế bệnh tình được hồi phục và nay đã trở nên cường tráng.

Bắt đầu từ đó, ông chú tâm học hỏi nghiên cứu về môn Dịch Cân Kinh mầu nhiệm này.

Hiện ông mỗi ngày vẫn nghiên cứu thêm về Dịch Cân Kinh và phát tâm viết ra cuốn "Dịch Cân Kinh thực hành" này với niềm hoan hỷ mong đem sự lợi ích đến cho mọi người.

xin mạn phép trích đăng một số bài có lợi ích cho sự rèn luyện sức khỏe,
hầu phổ biến "Dịch cân kinh" đến đại chúng như hoài bão của Soạn giả.
Quý bạn có thể liên lạc với nhà xuất bản Mõ Làng
( 774 Geary Street, San Francisco, CA 94109 - Tel . 415-673-6836 )
để có trọn bộ "Dịch Cân Kinh thực hành" của soạn giả Trần Tâm Viễn


Thay lời tựa



Theo truyền thuyết, vào hồi đầu thế kỷ thứ sáu, có một vị cao tăng người Ân, là Ðạt Ma thiền sư qua hoằng dương Phật pháp tại đất Trung Hoa, sau đó làm chủ trì tại chùa Thiếu Lâm tự, trên núi Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam.

Sau khi viên tịch, các dệ tử đã tìm thấy ở trong "Thiếu thất động" ở sau khuôn viên chùa Thiếu Lâm nơi ngài từng ngồi "Diện Bích" 9 năm, có 3 cuốn di thư: "Dịch cốt kinh", "Tẩy tủy kinh" và "Dịch cân kinh".

"Dịch Cốt Kinh" và "Tẩy Tủy Kinh" đã bị thất lạc, duy còn lại cuốn "Dịch Cân Kinh" vẫn được mọi người ưa thích và lưu truyền cho tới ngày nay. Qua đó đủ thấy cái giá trị thực tiễn của nó.

Ngày nay, những bài "Dịch Cân Kinh" được phổ biến trong quần chúng dân gian có tới trên 20 bài biến thể khác nhau, thí dụ như bài: "Dịch cân kinh họ Hùng", "Dịch cân kinh họ Hoàng", "Dịch cân kinh họ Ngũ", hay "Nhị thập bát thức Dịch cân kinh"..., trong cuốn sách này, sẽ giới thiệu cùng bạn đọc hai bài "Dịch cân kinh" cổ xưa nhất đó là: "Ðạt Ma Dịch Cân Kinh" và "Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh.

Tuy hai bài này có phong cách khác nhau, nhưng lối tập đều rất cổ điển chất phác, giá trị thực dụng rất lớn.

Ðặc điểm của "Dịch cân kinh" là rất đơn giản, dễ tập, thích hợp cho mọi lứa tuổi già trẻ gái trai.

Thực tế đã chứng minh, thường xuyên luyện tập theo phương pháp "Dịch cân kinh" sức khỏe sẽ được tăng cường, phòng và trị được bệnh tật, hồi xuân và đẩy lùi sự già nua của cơ thể và đi đến trường sanh tồn thọ.

Ngoài Dịch cân kinh, chúng tôi còn biên soạn thêm mấy phương pháp luyện tập khác, nếu bạn đọc thấy phù hợp, có thể tùy cơ áp dụng vào chương trình luyện tập hằng ngày của mình, đó là:

Phương pháp tự xoa bóp để hồi xuân cho cơ thể.
Phương pháp thâu hít khí tinh của trời đất.
Phương pháp luyện bàn tay xuyên chuối và phương pháp luyện chưởng phong (*)
Cuốn sách nhỏ này sẽ hướng dẫn tường tận từng cách tập cụ thể và có nhiều hình vẽ để giúp bạn tự học dễ dàng.

(*)Phương pháp này không trích đăng, xin cáo lỗi cùng các bạn ..





Dịch Cân Kinh là gì?


Tương truyền, trong thời gian ở chùa Thiếu lâm, Bồ Ðề Ðạt Ma đã quan sát và thấy đa số đệ tử trong chùa đều mắc chứng xanh xao ốm yếu. Sau khi điều tra, người đã hiểu được nguên nhân vì họ tuy tinh tấn tu thiền, nhưng hầu như không vận động cơ thể. "Tĩnh" quá dư, mà "Ðộng" bất túc, đã là cội nguồn của căn bệnh của họ.
Nhằm mục đích cải thiện tình trạng sức khỏe cho các đệ tử, Người đã nghiên cứu và soạn ra phương pháp "Dịch cân kinh" và cho các đệ tử theo pháp đó mà luyện tập mỗi ngày, dần dần thiền bệnh kể trên mới được đẩy lùi.

"Dịch cân kinh" đã trở thành một bí truyền của võ phái Thiếu Lâm. Chỉ những đệ tử đích truyền mới được tập mà thôi. Nhưng, về sau chùa Thiếu Lâm đã trải qua nhiều cơn biến động, bởi nạn binh đao và hỏa hoạn, do triều đình gây ra, một số nhà sư có võ công cao đã thoát được vòng vây và sống lưu lạc trong dân gian. Trong thời gian sống ẩn náu như vậy, đôi khi họ gặp được những thanh niên ưu tú và có thiện căn, đã thu nhận làm đệ tử tục gia và truyền dạy võ công cho họ, bởi vậy mà võ thuật nói chung và "Dịch cân kinh" của Thiếu Lâm nói riêng mới được lưu truyền vào trong dân gian.

"Dịch" là thay đổi, "Cân" là gân cốt và "Kinh" là phương pháp. "Dịch Cân Kinh" là phương pháp đào luyện gân cốt và ý chí đặng chuyển yếu thành mạnh.

"Dịch Cân Kinh" còn là phương pháp tập kết hợp giữa "Ðộng" và "Tĩnh", giữa "Cương" và "Nhu", giữa "Thần" và "Khí" và giữa "Khí" và "Lực". Cổ nhân cho rằng một con nước thường xuyên khơi thông trôi chảy sẽ được trong và sạch, đó là nguồn nước sống. Nếu bị tắc nghẽn, ứ đọng sẽ bị dơ và thối là con nước chết. Chúng ta thường xuyên tập luyện "Dịch Cân Kinh" trong một thời gian dài, khí huyết sẽ sung mãn và lưu thông vận hành khắp châu thân, cơ thể sẽ cường tráng, sẽ đẩy lui được những bệnh tật kinh niên tái phát và đi đến trường sanh tồn thọ.

"Dịch Cân Kinh" là một phương pháp tốt, quý hơn những "linh đơn thần dược".
Những truyền thuyết về Bồ Ðề Ðạt Ma


Ðạt Ma thiền sư (? - 536), nguyên quán Thiên Trúc, Ân Ðộ, là con thứ ba của Hương Chí Quốc Vương (Bà La Môn), thuộc dòng họ Xát Ðế Lợi. Tuy con nhà quyền quý, cao sang, nhưng người không hề ham muốn lối sống phù phiếm xa hoa, nên bỏ nhà đi tu, theo một vị cao tăng bên Phật giáo là Bát Nhã Ða La tôn giả.
Trên 2500 năm về trước, Ðức Thích ca đã sáng lập ra Phật Giáo, và Người là vị giáo chủ đầu tiên. Sau khi nhập diệt, đệ tử của ngài là Ca Diếp lên nối ngôi vị. Sau đó dòng truyền thừa của Phật giáo lần lượt qua tay các tổ A-Nan, Thương Na Hòa Tu, Ưu-Ba-Cấp-Ða, Ðề Ða-Ca, Di-Gia-Ca... khi truyền tới tổ Bát Nhã Ða La là đời thứ 27 và Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ thứ 28.

Phật giáo Ân Ðộ ở thời kỳ Bát Nhã Ða La tôn giả làm chủ trì, không mấy phát triển, bởi vì căn tánh người Ân bấy giờ chưa được thành thục. Cho nên Bát Nhã Ða La tôn giả đã phái Ðạt Ma qua Ðông thổ để truyền pháp. Vì Phật Giáo bên đó đi sai phương hướng, hơn nữa Ngài cũng nhận định rằng căn tánh người Trung Hoa lúc ấy đã tới độ chín mùi.

Kể từ hồi thế kỷ thứ nhất, vào thời Ðông Hán, đời vua Minh đế niên hiệu Vĩnh Bình, Phật Giáo Ân Ðộ đã bắt đầu du nhập vào đất Trung Hoa, nhưng phần lớn chỉ giới hạn trong hàng vua chúa quan lại và dừng ở mức độ dịch thuật kinh sách Phạn ngữ sang Hán tự mà thôi, hơn nữa ở thời kỳ đầu Phật Giáo chỉ được coi là thứ tôn giáo ngoại lai, chứ chưa được đưa lên hàng quốc giáo.

Sau này Ðạt Ma chuyển qua đất Trung Hoa để hoằng dương đạo Phật, cho nên Ðạt Ma đã trở thành vị thủy tổ của Phật Giáo Trung Quốc nói riêng và cho cả vùng Ðông Nam A nói chung. Người ta còn tôn Ðạt Ma là "Thiền tông đệ nhất tổ".

Vào thời kỳ Nam Bắc triều phân tranh, ý thức và tư tưởng của Lão Trang tử phát triển rộng khắp. Vào hồi Nam triều đời vua Lương Võ đế niên hiệu Phổ đạo, Ðạt Ma đã ngồi thuyền tới Trung Hoa và cập bến Quảng Châu, nên thành Quảng Châu còn được gọi là "Tây lai sơ địa" dể đánh dấu việc đặt chân lên bờ của Ðạt Ma tổ sư khi ngài mới từ bên Tây Vực qua.

Dân Quảng Ðông lúc hồi đó thấy Ðạt Ma người đen như củ súng, lại râu tóc bờm xờm nên đã gọi ngài là "Ma la xát" và ngày nay người Quảng vẫn dùng câu đó để chỉ người Ân Ðộ.

Sau đó Ðạt Ma tới Kim Lăng. Lương vũ Ðế Tiêu Khản đã thân hành tiếp đãi người, tuy rằng Tiêu Khản là vị vua rất ngoan đạo và có nhiều cống hiến to lớn đóng góp cho Phật giáo bấy giờ, song vì quá nặng về phần gíáo lý theo kinh sách, cho nên Ðạt Ma cảm thấy cơ duyên không hạp nên ngài đã bỏ đi. Ðịnh lên phía Bắc, nhưng lúc bấy giờ nước sông Trường Giang đang lên to, lại không có thuyền nên ngài đã ngắt một nhánh cỏ lau đặt xuống mặt nước và đặt chân lên, cứ thế rẽ sóng vượt con nước qua bờ ngạn bên kia như thể đi trên đất bằng. Những thường dân Trung Hoa đứng hai bên bờ sông lúc bấy giờ trông thấy cảnh tượng kỳ lạ như vậy cho là Bồ Tát đã giáng thế. Ðó là sự tích Ðạt Ma đạp nhánh cỏ lau, vượt sóng qua sông.

Sau khi vượt sông Trường Giang, Ðạt Ma đã đi lên miền núi Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, ở nơi ấy có ngôi chùa Thiếu Lâm. Thiếu Lâm tự được kiến tạo vào năm 496. Bạt Ðà là một vị cao tăng từ Thiên Trúc qua, rất được ông vua bấy giờ là Hiếu Văn Ðế trọng đãi, đã khai sáng ra ngôi chùa này, và người đã truyền dạy pháp môn tu tự giải thoát tiểu thừa tại nơi đây. Ba mươi năm đó. Ba mươi năm đó, Bồ Ðề Ðạt Ma cũng lên tới đây, song người chỉ truyền dạy môn thiền mà thôi. Thiền Tông chủ trương "Bất lập văn tự, dĩ tâm truyền tâm" và "Trực chỉ nhâm tâm, kiến tánh thành Phật". Sau đó người đã vào "diện bích" trong động Thiếu Thất ở ngọn Ngũ Nhũ Phong liền trong 9 năm và người đã thành tựu sự truyền thừa của môn thiền tại nơi đây. Cho nên Thiếu Lâm tự còn được mệnh danh là "Ðình tổ của thiền tông" và Thiếu Thất động được gọi là "Ðạt Ma động" và được xếp hạng vào hạng văn hiến lịch sử.

Trong những năm tháng xoay mặt vào vách đá ngồi thiền định, loài chim đã bay đến làm ổ trên mình mà ngài không hề hay biết. Qua đó đủ thấy thiền công thâm hậu của Người. Người thời bấy giờ gọi Ðạt Ma là "Bích quán la môn". Ngày nay bên Trung Hoa có pháp môn thiền rất nổi tiếng gọi là "Ðạt Ma diện bích công" được đông đảo người ưa thích và hâm mộ. Ðạt Ma đã từng thâu tóm pháp này trong mấy câu như sau:

Ngoại chỉ chư duyên,
Nội tâm vô suyễn,
Tâm như tường bích,
Khả dĩ nhập đạo.

Nghĩa rằng: ngoài bặt các duyên, trong không vọng niệm, tâm như tường đá, sẽ vào được đạo.

Ngoài ra Người cũng hằng dạy cho các đệ tử phải luôn giữ theo 4 hạnh là: báo oán hạnh, tùy duyên hạnh, xướng pháp hạnh và vô sở cầu jạnh, cốt dùng để đối trị và giữ lòng bình thản trước mọi chướng duyên có thể diễn ra trong quá trình tu tập thiền định. Bởi thế, người đời cũng cho rằng: "Bích quán tứ hạnh, Vi Ðạt Ma chi đạo".

Trong thời gian Ðạt Ma ở núi Tung Sơn, Ngài đã thu nhận được một đệ tử là pháp sư Thần Quang, sau cho cải pháp danh là Huệ Khả. Câu chuyện được truyền tụng như sau:

Diêm Vương sai quỷ vô thường đi tìm pháp sư Thần Quang, Thần Qung biết là thọ hạn của mình đã tới, vội đi tìm Ðạt Ma để xin học pháp liễu sanh tử. Khi đó Ngài đang sửa soạn ngồi thiền, sau khi nghe hết ý định của Thần Quang Ngài chỉ quay đầu lại nhìn một cái đoạn mặc nhiên đi vào cuộc thiền định. Thần Quang vì thành tâm cầu pháp đã kính cẩn quỳ gối bên Người để chờ đợi. Vào một ngày mùa đông tuyết lạnh 9 năm sau đó, Ðạt Ma đã xuất định, khi nhìn thấy Thần Quang vẫn còn quỳ gối kế bên, người rất cảm động và ưng thuận cho làm đệ tử. Sau này Huệ Khả đã được Ðạt Ma truyền cho pháp y và 4 cuốn kinh Lăng gia để nối tiếp dòng truyền thừa của Thiền Môn.

Sau ngày viên tịch, các đệ tử đã đưa di hài của Ðạt Ma về an táng ở dưới chân núi Hùng Nhĩ Sơn, ở tỉnh Hà Nam. Sau đó , Bửu Tháp tàng trữ linh cốt Ðạt Ma cũng được xây cất lên ở nơi đó. Lại có một truyền thuyết nói rằng, sau khi đã thị tịch 3 năm, có người vẫn thấy Ðạt Ma đang ung dung đi trên đường. Lúc ấy Người bước đi chân không, một bên tay cầm cây thiền trượng, còn bên tay kia đang cầm lơ lửng một chiếc giầy. Hỏi rằng: -Người đi đâu đó? - thì trả lời rằng đi về Tây Thiên. Chuyện Ðạt Ma còn sống làm mọi người kinh ngạc và không tin, họ đã cùng nhau khai quật mồ Ðạt Ma và duy chỉ tìm thấy có một chiếc giầy mà thôi! Ðó là chuyện Ðạt Ma mang chiếc giầy trở về Tây Thiên.

Sau Ðạt ma. Huệ Khả trở thành nhị tổ, rồi lần lượt tới Tăng Xán làm tam tổ, Ðạo Tín là tứ tổ và Hoàng Nhẫn làm ngũ tổ của Thiền Tông.

Trong thời kỳ Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, Thiền tông phân chia thành hai phái Bắc và Nam, phái Bắc thiền chủ trương tu tiệm ngộ tiểu thừa, vị đại biểu là Thần Tú pháp sư. Phái Nam thiền do Huệ Năng làm chủ trì, tu theo pháp đốn ngộ đại thừa. Câu chuyện được kể lại như sau: số là ngũ tổ bảo chúng đệ tử làm bài thi bằng thơ văn, để qua đó Người lựa tuyển kẻ nối dõi y bát, Thần Tú pháp sư là đại đệ tử của Người đã làm bài kệ như sau:

Thân thị bồ đề thụ,
Tâm như minh kính đài,
Thì thì cần phất thức,
Mạc sứ nhạ trần ai.

Ý nói rằng: Thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, luôn luôn chăm lau chùi, chớ để nhuốm trần ai.

Huệ Năng (638 - 713), tục họ Lư, người Tân châu, Quảng Ðông, nhà nghèo, làm nghề bán củi để nuôi mẹ, lúc đó mới xuất gia không bao lâu, làm công việc tạp dịch như xay giã gạo trong chùa, địa vị rất thấp kém lại dốt chữ, nhưng là bậc có huệ căn lớn, đã từng ứng khẩu đọc ra một bài thơ và nhờ tay kẻ khác ghi chép lại như sau:

Bồ đề bổn vô thụ,
Minh kính diệc phi đài,
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?

Nghĩa rằng: Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, đâu chỗ nhuốm trần ai? (phần dịch nghĩa của bài kệ này xin được mạn phép sao ra từ cuốn "Thiền đạo tu tập" do Chang chen Chi tiên sinh dịch.)

Hai bài kệ trên đều rất xuất sắc tuyệt vời, nhưng cũng nổi bật rõ nét đường hướng tâm pháp khác biệt nhau rõ ràng, và ngộ tính của Huệ Năng có phần cao hơn, cho nên đức ngũ tổ đã mật truyền cà sa do Ðạt Ma để lại cho Huệ Năng và ra chỉ thị phải bỏ về phương nam để tránh khỏi bị phe phái của Thần Tú ám hại. Sau này phái thiền bắc truyền của Thần Tú dần dần bị suy thoái, thiền tông nam truyền của pháp sư Huệ Năng ngày một phát triển, và được coi là dòng thiền tông chính thống.

Vào cuối đời Ðường, thiền đốn ngộ đại thừa lại phân chia ra thành 5 tông khác nhau như sau: Quy nhưỡng tông, Lâm tế tông, Tào động tông, Vân môn tông và Pháp nhãn tông. Sự kiện này xảy ra đã được tổ Ðạt Ma lường biết trước từ lâu và được người nêu lên trong mấy câu kệ để lại cho hậui thế như sau:

Ngô bản lai thử thổ.
Truyền pháp cứu mê tình,
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.

Trong khu vực lăng mộ của Ðạt Ma, có tấm bia đá lớn, trên ghi những lời của Lương Võ đế Tiêu Khản đã ca tụng Ðạt Ma và những công đức của Người. Truyện kể, khi xưa, vì làm Người phật ý bỏ đi, vua Tiêu Khản rất hối hận, đã cho kẻ hạ thần đuổi theo, để thỉnh Người về, nhưng đã muộn vì Người đã quá giang sang tới nước Ngụy. Sau khi Ðạt Ma viên tịch, Lương Võ Ðế cho xây lên tấm bia thạch nói trên để kỷ niệm Người.

Ngày nay, trên chùa Thiếu Lâm, trong ngôi "Thiên Phật Ðiện" có đặt thờ một phiến đá rầt quý và linh thiêng, đó là tấm "Diện bích ành thạch", đá cao ngoài thước tây, trên mặt đá có những đường chấm phá tự nhiên như bức tranh thủy mặc, miêu tả đầy đủ hình dong tướng mạo của Ðạt Ma. Theo truyền thuyết, trong suốt quá trình 9 năm trường ngồi ngó vách nhập định, hình hài Ðạt Ma đã được phóng xạ và ghi tạc lên phiến đá. Nghe nói, nếu ai có duyên may mắn, được kề cận bên tấm đá linh thiêng này để ngồi thiền, sẽ dễ dàng nhập được vào cuộc định, tựa như đã tiếp nhận được sự gia trì của Ðạt Ma Thiền Sư vậy.

Ngày nay hàng năm nhằm ngày mồng 5 tháng 10 âm lịch là ngày kỷ niệm Bồ Ðề Ðạt Ma giáng sanh.
Những điểm cần phải để ý khi tập Dịch Cân Kinh


Nên chọn tập vào nơi yên tĩnh, không khí trong sạch.


Khi mới ăn no và lúc đói bụng không nên tập.


Không nên nhịn đại tiểu tiện trong khi tập.


Người có bệnh tâm thần không được tập.


Khi nóng giận, lúc lo buồn tinh thần bất an cũng không nên tập.


Trong khi tập đột xuất có người gọi, hoặc có tiếng điện thoại reo, cũng không nên trả lời ngay, phải biết chế ngự bản thân không để xảy ra chuyện hoang mang hồi hộp.


Phải tuần tự tiệm tiến, mới đầu tập ít, tập nhẹ, sau khi đã tập thuần thục và sức khỏe tăng lên rồi mới tập nhiều, tập nặng.


Khi tập nên tập trung tinh thần, vì vừa suy nghĩ lung tung vừa tập sẽ không mang lại kết quả gì.


Nên kiên trì chịu khó luyện tập mỗi ngày sẽ có nhiều kết quả bất ngờ.


Người có bệnh cấp tính như đau tim, huyết áp cao, xuất huyết dạ dầy... không nên tập.


Không đứng tập ở vào nơi có gió lùa.


Sau khi mới tập xong, không nên uống và tắm hay rửa bằng nước lạnh.

------------------------------


Thế 1 - Vi Ðà Hiến Chử (1)



Tư thế:

Ðứng thẳng người, hai chân dang rộng bằng tầm vai, hai tay đặt trước ngực, như đang ôm một quả cầu (xem hình 1).

Cách tập:

Thở tự nhiên nhẹ nhàng, toàn thân buông lỏng. Khẽ ngậm miệng, răng kề răng, chót lưỡi hơi cong lên đáp vào chỗ giữa răng và nướu hàm trên. Nét mặt tươi, trụ tâm vào Ðan điền.

Ðứng bhư vậy từ 5 đến 10 phút.

Lưu ý:

Trong khi tập, nếu kết hợp thêm đứng tấn, thì hiệu quả càng cao. Mức độ đứng tấn cao hay thấp nên tùy thuộc tình trạng sức khỏe của bạn mà lựa chọn.

Vi Ðà Hiến Chử ta tạm hiểu là Vi Ðà Bồ Tát hiến dâng lễ vật lên đấng Thế Tôn.
Thế 2 - Vi Ðà Hiến Chử (2)



Tư thế:

Tiếp theo thế trên, hai tay dang rộng qua hai bên, đặt ở độ cao bằng tầm vai, lòng bàn tay xoay về phía trên (xem hình 2).

Cách tập:

Như ở tư thế 1, thời gian ngắn hơn, tập từ 2 đến 5 phút và trụ tâm vào hai lòng bàn tay.

Lưu ý:

Nên dùng cách tự kỷ ám thị bằng hai câu tâm niệm như sau:

Toàn thân thà lỏng

Tinh thần yên tĩnh

Nhẩm đọc 3 lần trong đầu để giúp việc nhập tịnh được tốt.

Khi tập nên kết hợp thêm sự hơi nhóm mười đầu ngón chân lên và giữ như vậy suốt quá trình tập và khi tập nên để tâm vào hai bàn tay và mười đầu ngón chân thì hiệu quả càng tốt


----------------------------------


Thế 3 - Vi Ðà Hiến Chử (3)



Tư thế:

Tiếp theo thế ở trên, hai tay đưa cao lên trên đỉnh đầu thành hình chữ "U" hai bàn tay xoay ngửa lên phía trên (xem hình 3)

Cách tập:

Hai tay cố vươn lên cao, trong khi hai gót chân được nhấc cao lên để hổ trợ và bấm những ngón chân xuống đất đặng giữ cho cơ thể được thăng bằng, và ngẩng mặt lên nhìn đôi tay, kéo dài động tác này trong vòng 1/2 phút..

Lưu ý:

Phương pháp thở trong khi tập của thế này như sau:

Hít bằng mũi gom khí vô đầy ngực, nghĩa là suốt quá trình 1/2 phút đồng hồ trong tư thế vươn tay ngẩng mặt và nhấc gót, các bạn chỉ thực hiện một động tác hít hơi mà thôi, các bạn tính thời gian bằng cách đếm nhẩm từ 1 đến 30, vị chi là 30 giây đồng hồ.



Khi đếm đến số 30 đoạn thở hơi bằng miệng, đồng thời xoay mặt trở xuống nhìn thẳng phía trước như cũ hạ tay và gót chân xuống để chuẩn bị cho thế tập tiếp theo. Người mới tập chưa điều phục được hơi thở chỉ nên tập thế này trong thời gian 15 giây.
Trích Tinh Hoán Ðẩu



Tư thế:

Tiếp theo cách tập trên, ở tư thế này ta đưa tay trái quàng về phía sau lưng, đặt lòng tay úp xuống phía dưới, bán thân trên hơi xoay về hướng bên trái, tay mặt đưa lên cao, lòng bàn tay ngửa lên trời. Ðầu xoay lên đưa măt nhìn vào bàn tay mặt (xem hình 4a).

Cách tập:

Từ từ hít khí đưa vô lồng ngực trong khi dùng lực đẩy bàn tay trái xuống phía dưới và đẩy bàn tay mặt lên trên cao. Ngước mắt nhìn bàn tay mặt, động tác này kéo dài 30 giây.

Sau khi giữ như trên hội đủ 30 giây ta thở hơi ra bằng mồm và tập lại một lần nữa nhưng với động tác ngược lại, cụ thể là tay mặt quàng về phía sau lưng, tay trái đưa lên cao, bán thân trên quay về phía mặt và mắt thì nhìn lên bàn tay trái (xem hình 4b).

Cũng với thời gian 1/2 phút, sau đó thở ra bằng miệng và hạ tay xoay người lại như bình thường để tập tiếp sang thế sau. Ta tạm hiểu "trích tinh hoán đẩu" nghĩa là dời sao đổi ngôi.

-----------------------------------

Ðảo Duệ Ngưu Vĩ



Thế này cũng có hai cách tập, ta tạm gọi là cách tập bên hữu và cách tập bên tả. Ta phải tập cả hai cách. Sau đây là tư thế và cách tập bên hữu:

Tư thế:

Chân phải bước lên phía trước một bước thành tẩu mã tấn, tay mặt co lại nơi cùi chỏ, đưa lên trước mặt và bàn tay nắm lại đặt ngang tầm mắt. Tay trái đưa ra phía sau, bàn tay cũng được nắm lại (xem hình 5a).

Cách tập:

Hít hơi từ từ đưa khí vô đầy ngực, trong khi gồng sức xiết chặt hai tay như đang tóm đuôi con trâu để kéo ngược nó trở lại vậy. Kéo dài động tác này hội đủ 30 lần đếm thì nhả sức và thở hơi ra bằng miệng. Sau đó làm lại bằng cách tập bên tả cũng với thời gian 30 giây (xem hình 5b).

Lưu ý:

Khi tập ta phải kết hợp sự tăng giảm lực và sự hít thở cho đồng bộ. Cụ thể là khi từ từ hít hơi thì ta đồng thời từ từ tăng lực gồng cánh tay lên và khi xả hơi thì ta từ từ nhả sức nơi cánh tay ra. Làm được như vậy, tinh khí thần dễ dàng hợp nhất với nhau.
Xuất Trảo Lượng Sí



Tư thế:

Tiếp theo thế trên, co chân trái về đứng ngang hàng với chân bên mặt và cách xa nhau bằng chiều rộng của vai, hai nắm tay thu về đặt ở hai bên cạnh sườn.

Cách tập:

Hít hơi từ từ, hai tay xòe ra, vận lực đẩy lên phía trước. Khi tới ngang tầm vai thì dừng một chút, đoạn thở hơi bằng miệng và thu hai tay về hai bên sườn như trước. Ðộng tác này làm 7 lần (xem hình 6).

Lưu ý:

Xuất trảo lượng sí có nghĩa là con đại bàng xòe cánh đưa móng vuốt về phía trước. Khi tập, lúc từ từ hít hơi nên kết hợp làm động tác bấm những ngón chân xuống đất hơi co hậu môn lên, ngậm miệng, co lưỡi, răng kề răng và khi xả hơi thì nhả các ngón chân lỏng ra, hậu môn không co lên nữa, cũng như toàn thân phải được thả lỏng.


------------------------

Bạt Mã Ðao



Thế này có tên gọi là rút mã tấu, có hai cách tập cho bên hữu và bên tả. Phải tập cả hai bên.

Cách tập bên hữu

Tư thế:

Tay mặt đưa lên vòng qua phía sau, ôm vào đầu, các ngón tay phủ lên tai bên trái, tay trái đặt ở phía sau lưng, xòe tay ngửa lên trên (như hình 7a).

Cách tập:

Dùng mũi hít từ từ và sâu, tay mặt dùng sức kéo bộ đầu xoay về phía sau, trong khi cổ ra sức chống lại để giữ cho bộ đầu xoay về hướng trước, trong khi đó tay trái dùng sức đưa lên cao. Giữ động tác có các lực đối kháng nhau như trên trong suốt thời gian 30 giây rồi xả hơi, nhả sức và thả lỏng toàn thân để rồi tiếp tục sang cách tập bên trái (xem hình 7b).


-----------------------------------------

Tam Bàn Lạc Ðịa



Tư thế:

Hai chân đứng dang rộng hơn so với các thế trước, đầu gối hơi quỳ xuống, hai bàn tay xòe ra úp xuống phía dưới và đặt ở vị trí mé ngoài và cao hơn đầu gối (xem hình .

Cách thở:

Thở tự nhiên, ngậm miệng, cắn răng, co lưỡi, co hậu môn và bấm mười ngón chân xuống đất đưa sức vào hai bàn tay đang xòe ra như tóm lấy mặt đất. Trừng mắt ngó về phía trước, kéo dào 39 giây đồng hồ, sau đó tập tiếp 3 lần động tác sau: hít hơi vô ngực, lật ngửa bàn tay đưa lên trên như đang nâng vật nặng lên vậy. Kết hợp với hai chân từ từ đứng thẳng lên, khi đưa tay lên tới ngang tầm vai đoạn xả hơi, lật tay đẩy xuống đất, như đẩy hai cái cọc cây thụt xuống đất vậy. Kết hợp cùng hai chân từ từ hạ xuống trở về tư thế như trong hình số 8.

"Tam Bàn Lạc Ðịa" có nghĩa là thượng bàn, trung bàn và hạ bàn của thân thể đều hạ thấp xuống phía dưới.

SƯU TẦM NET
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Các bộ sách Dịch Cân Kinh  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Các bộ sách Dịch Cân Kinh    Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 5:14 am


ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH


Mật Nghiêm

Năm 917 (sau Công nguyên) Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn - Hà Nam - Trung Quốc. Xây dựng chùa Thiếu Lâm. Có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo nay đem một tín ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng cũ nhân dân đỡ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu Lâm vừa học lý thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày nay).

Nhiều người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được. Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" để chuyển biến thể lực của các đệ tử từ yếu thành khỏe.

Cách tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được bệnh. Yếu thì không chứng nọ cũng tật kia, khỏe là đã hết bệnh.

Ngày nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được rất nhiều bệnh, ngay cả bệnh ung thư cũng khỏi. Và bây giờ người ta lại áp dụng lý thuyết "khí huyết" của Đông y để chứng minh.

Tình trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với "khí huyết" của họ. Về "huyết" thì rất rõ ràng và dễ hiểu vì ta nhìn thấy được.

Nhưng trong Đông y: cái gọi là "huyết" thì chúng ta không thể tách rời và hạn chế từng mặt. Nếu như máu loãng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào... để mà nghiên cứu. Họ dùng cách nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và quá rình tuần hoàn của huyết mà xem xét.

Lý luận Đông y có triết lý vững vàng. Nó mang tính chất khái quát rất cao, khi nó nêu vấn đề "khí huyết" thì tất nhiên không cô lập, như lấy một giọt máu không sức sống hoặc một bầu máu tách rời cơ thể, mà là cần phân tích đến trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối quan hệ khác.

Vì "khí" cũng vậy, hào khí (là khí của người hào hiệp) không hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi là người ranh xem khí. Sắc là do thiên vị "khí" (prana) có trong khí trời, vị không rải ra khắp cơ thể được nên mới sinh bệnh.

Cho nên các "khí" của Đông y không bác bỏ cái khí trong không khí mà nó mang lại một nội dung có tính khái quát rộng lớn hơn.
• Ta thở không khí vào phổi, ăn vào bụng, ruột hấp thu chất dinh dưỡng, các chất ấy và không khí được đưa đến các tế bào của toàn thân, để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn từ các tế bào trên cơ thể, thu hồi về để bài tiết ra ngoài.
• Tuần hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máy, thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh hoạt sức khỏe của con người đương nhiên đảm bảo.
Cho nên trong lý thuyết "khí huyết" không thể đơn độc chỉ có "huyết mà không có "khí" và ngược lại chỉ có "khí" mà không có "huyết".
• Trong Đông y cho rằng máu thuần chủ yếu trong cơ thể con người là "Âm-Dương" mà cũng là "khí huyết" (Âm là khí và Dương là máu).
Luyện "Dịch Cân Kinh" làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên nó có tác dụng chữa bệnh tốt.

Áp dụng "Dịch Cân Kinh" để chữa ung thư. Người xưa dùng "Dương tâm đan" kết hợp với luyện "Dịch Cân Kinh" để chữa khỏi hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời gian điều trị, chứ nó không có tác dụng chữa bệnh, nói như người xưa là "Mạch máu chia đi"

Trong một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau, sau một bữa ăn lạ, có người đau bụng đi kiết, đi tả, nhưng cũng có người chẳng bị làm sao. Đây là "Mạch máu chia đi" nên nó giúp cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện tập "Dịch Cân Kinh" là chính. Nay ta phân tích bệnh ung thư là gì? Người xưa quan niệm ung nhọt chia ra hai loại: "Âm thư và Dương thư" và có câu:

"Dương thư dễ lành, Âm thư khó trị"

Dương thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi vỡ, có máu mủ, và ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư là cái nhọt mọc bên trong cơ thể, không có đầu, không vỡ, chỉ to dần rồi lan tràn, có khi rắn như đá gọi là thạch thư. Nguyên nhân đều do kết tụ của khí huyết làm trở tắc kinh lạc mà các phế vật cần thải, không thải được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan, các chất làm khô... do không đủ nhiệt năng, nên công năng của máy giảm sút không thể thải được các chất không cần thiết cho cơ thể ra ngoài.

Luyện "Dịch Cân Kinh" tay vẫy đúng pháp, miệng dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ. Các sự chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ, nên mới khỏi bệnh.

Vẫy tay theo "Dịch Cân Kinh" cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột và dạ dày tiếp được thêm khí nên cũng gây nên tác dụng hưng phấn, và khi chức năng của máu tăng lên thì giúp cho việc "tống cựu nghinh tân" được tốt, "khí huyết" thăng bằng, là đã khỏi bệnh.

Theo số liệu thống kê: Cụ Quốc Chu 70 tuổi, phát hiện u ác ở não và ở phổi, được phổ biến "Dịch Cân Kinh" và luyện ngày một buổi, mỗi tối 2.160 lần. Sau 5 tháng thì hết và khỏi bệnh.

Ông Trương Công Phát, 46 tuổi, phát hiện ung thư máu, tập ngày 3 buổi, mỗi buổi vẫy tay 1.800 lần (có dùng thuốc Dương tâm đan...), sau 3 tháng đã đi làm. Đã ba năm vẫn khỏe mạnh.

Cụ Từ Mạc Đính, 80 tuổi, bị ung thư phổi kiêm bán thân bất toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, kiểm tra lại thì khối ung thư phổi cũng biến luôn.

Nguyên nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi, ngay cả thuốc "Dương tâm đan" cũng không phải là thuốc đặc hiệu chữ ung thư, mà là giúp tim hoạt động tốt hơn, để thải chất độc trong cơ thể của bệnh nhân nhanh hơn mà thôi.

Nhưng về nguyên nhân ung thư thì thuyết "khí huyết" của Đông y đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của con người là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh phức tạp. Giữa cái sống và cái chết, giữa ốm đau và mạnh khỏe, giữa già sớm và trẻ dài. Nhưng kết quả của cuộc đấu tranh là do nhân tố nói tại quyết định, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài.

Nên xem cơ thể con người là một chính thể vận động.

Trong vận động này có lục phủ, ngũ tạng đều dựa vào nhau (tức là tương sinh), ức chế lẫn nhau (tức là tương khắc), nhưng "khí huyết" có tác dụng đến tất cả lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do "khí huyết" không chu đáo mà sinh ra. Đông y đã xác định rằng cuộc đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được.

Đương nhiên bệnh tật do sự trì trệ "khí huyết" mà ra, nó lại làm hao tổn thêm "khí huyết". Việc tập luyện làm cho khí huyết thay đổi để tự chữa bệnh là thế.

Từ đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh, đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập "Đạt Ma Dịch Cân Kinh". Bởi phương pháp này thay đổi và tăng cường "khí huyết", vì thế nó trị được "trĩ nội", "trĩ ngoại". Ông Hồ Thức Nguyên bị trĩ nội và đau đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Trước đây mỗi lần ông ngồi xổm là đom bị lòi ra. Chỉ sau một tháng luyện tập là đom hết lòi, mà bệnh đau bụng cũng mất.

Tập "Dịch Cân Kinh" thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung.

Và chữa khá nhiều bệnh như:
• Suy nhược thần kinh.
• Huyết áp cao.
• Bệnh tim các loại.
• Bệnh thân.
• Bán thân bất toại.
• Trúng gió, méo mồm, lệch mắt.
• Hen suyễn.
• Thậm chí dứt bệnh ác hiểm là bệnh ung thư cũng khỏi
Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do "khí huyết" (Âm-Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả.




PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP


"ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH"
Trước tiên nói về tư tưởng



Phải có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.

Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.

Tư thế: "Trên không dưới có, trên ba dưới bảy".

Trên phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, lỗ đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt như đứng trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể của các yêu cầu khi luyện "Đạt Ma Dịch Cân Kinh".

Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím, môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.

Khi vẫy tay cẩn nhớ "lên không xuống có", nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.

"Trên ba dưới bảy" là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất tốt.

Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.




Các bước tập cụ thể như sau



1. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
2. Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
3. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.
4. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi căng thẳng.
5. Hai mắt chọn một điểm đàng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, lỗ đít thót và nhẩm đếm.
6. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lấy gân, hậu môn co lên không lòi.
7. Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.
8. Phải có quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì "dục tốc bất đạt", nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy khó có kết quả.
Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực tàm tổn thương các ngón chân (nên sau buổi tập vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bênh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn.

Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến "trên nhẹ dưới nặng" là sai và hỏng.

Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng... đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.

Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với "trên nhẹ dưới nặng". Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ "thiên khinh địa trọng".

Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện "Dịch Cân Kinh" có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện là có kết quả sớm.

Bệnh mắt: Luyện "Dịch Cân Kinh" có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).

Trong nội kinh có nói "mắt nhờ huyết mà nhìn được", khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.




Những phản ứng





Khi tập "Dịch Cân Kinh" có thể có những phản ứng, đều là hiện tượng thải bệnh không đáng ngại. Xin liệt kể ra đây 34 phản ứng thông thường (còn những phản ứng khác không kể hết được):
1.
1. Đau buốt.
2. Tê dại.
3. Lạnh.
4. Nóng.
5. Đầy hơi.
6. Sưng.
7. Ngứa.
8. Ứa nước miếng.
9. Ra mồ hôi.
10. Có cảm giác như kiến bò, kiến cắn.
11. Giật gân, giật thịt.
12. Đau xương, có tiếng kêu lục cục.
13. Có cảm giác máu chảy dồn dập.
14. Lông, tóc dựng đứng.
15. Âm nang to lên.
16. Lưng đau.
17. Máy mắt, mí mắt giật.
18. Đầu nặng.
19. Hơi thở ra nhiều, thở dốc.
20. Hảo.
21. Tăng tiện.
22. Gót chân nhức nhối như măng mủ.
23. Huyết áp biến đổi.
24. Cụm trắng ở lưỡi biến đổi.
25. Da cứng và da dầy rụng đi (chai chân, mụn cóc
26. Sắc mặt biến đổi.
27. Đau mỏi toàn thân.
28. Nôn mửa, ho.
29. Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen.
30. Tiểu tiện nhiều.
31. Trên đỉnh đầu mọc mụn.
32. Bệnh từ trong da thịt tiết ra.
33. Ngứa từng chỗ hay toàn thân.
34. Chảy máu cam.
Các phản ứng trên là do trọc khí trong người bị bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ chất ứ đọng, tức tử bệnh tật.


Có phản ứng sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.

Luyện "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:

Nội trung tố: tức là nâng cao can khí lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.

Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập "Dịch Cân Kinh". Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dằn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.

Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây hoạt động mạnh hơn mức bình thường:
• Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
• Lao cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
• Dũng Tuyền: hai huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi luyện "Dịch Cân Kinh" năm huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.

Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu.

Nghĩa là không trì trệ, lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.





Một số điểm cần chú ý

1.
2.
1. Số lần vẫy tay không nên ít: từ 600 lên dần tới 1.800 (30 phút) mới là toại nguyện cho việc điều điều trị. Bệnh nhân nặng, có thể ngồi mà vẫy tay, tuy ngồi nhưng phải nhớ thót đít và bấm 10 đầu ngón chân.
2. Số buổi tập:
3. * Buổi sáng thanh lâm tập mạnh.
4. * Buổi chiều trước khi ăn tập vừa.
5. * Buổi tối trước khi ngủ tập nhẹ.
6. Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu? Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1.800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy tới 3.000-6.000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp.
7. Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm, chứ không nên nhanh, bình thường vẫy chậm thì 1.800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa chừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là lục động của khí. Khi mới vẫy rộng vòng và chậm một chút. Khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng.
8. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh, mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích, luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông.
9. Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ? Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao khác biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc biệt của nó là dùng ý mà không dùng sức. Nhưng nếu vẫy nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi.
10. Vẫy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính vẫn là chuyển động bắp vai.
11. Bệnh phong thấp thì nên dùng mức "nặng" một chút. Bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ.
12. Nói tóm lại: phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng, phân tích những triệu chứng. Sau khi tập, nghe sự nhận xét của mọi người xung quanh, thấy sự chuyển biến của mình, nhanh nhẹn hơn, tươi tỉnh hơn hay là kém khi trước, rồi tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn luôn tổng kết, trên nguyên tắc là tập thế nào cho người thấy thoải mái và dễ chịu hơn là đúng, là tốt nhất.
13. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là bả (loại bỏ các chất cặn bã có hại trong người, tức là bệnh tật). Lý luận này cũng đang được nghiên cứu.
14. Mức độ vẫy tay: Chỉ vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, không vẫy về phía trước, mà do phản xạ của cánh tay cho là 3 phần.
15. Có cần đếm không? Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho óc được bình tĩnh, tim được trầm tĩnh, có tác dụng làm cho bộ não được thăng bằng và nghỉ ngơi (và không được nghỉ ngơi lung tung). Chính khí được bồi dưỡng.
16. Hoàn cảnh vẫy tay: Không có gì là đặc biệt về hoàn cảnh, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời dĩ nhiên nơi nào có dưỡng khí trong sạch và yên tĩnh vẫn tốt hơn.
17. Trước và sau khi tập: Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái được yên tĩnh, để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn "khí công", đến khi tập cũng nên bình tĩnh mà vò 10 đầu ngón chân, 10 đầu ngón tay. Những người không đủ bình tĩnh, cần chú ý tới điều này.
18. Tập "Dịch Cân Kinh" thế nào cho đúng? Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhàng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước miếng ứa ra, đại tiện nhuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đấy là tập đúng. Rất ít khi tập sai, tỉ lệ không tới 1%.
19. Sau khi tập đại đa số đều thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau, nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không.
20. Lúc bắt đầu tập nên chú ý đến điểm nào?
21.
1. Nửa thân trên buông lỏng thượng - hư.
2. Nửa thân dưới giữ chắc - hạ thực.
22. Tay ra phía trước không dùng lực (nhẹ).
23. Vẫy tay ra phía sau có dùng sức (nặng).
24. Tập đếm số tay vẫy ngày một tăng, ngày 3 buổi tập, kiên quyết "tự chữa bệnh cho mình".

25. Trạng thái tinh thần lúc tập: có liên quan gì đến hiệu quả không?
26. * Hết lòng tin tưởng.
27. * Kiên quyết tới cùng.
28. * Tập đủ số nhất định, tập thường xuyên. Có thể hiệu quả rất lớn.
29. Nếu khi tập, khi nghỉ không đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc. Còn bị động dư luận ngoài. Thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập. Hỏi làm gì có kết quả tốt.

30. Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc, những trường hợp ấy cũng hạn hữu, như trên đã nói, không tới một phần trăm.
31. Khi tập có phải kiêng gió, kiêng lạnh không? Tránh gió lùa, mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió.
Tóm lại có mấy điều cần lưu tâm:
1. Khi tập luôn luôn bấm mấy ngón chân, thót lỗ đít, để giữ tư thế "thượng hư – hạ thực".
2. Vẫy tay từ ít tới nhiều phải đạt tới 1.800 cái trở lên mới có hiệu quả.
3. Có phản ứng đừng ngại mà ngừng tập, vì đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ, qua phản ứng, sẽ tăng số lần vẫy tay lên.
4. Kiên trì, quyết tâm luyện tập, tin tưởng "các bệnh tật sẽ khỏi".
5. Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống. Chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể dời núi (nghĩa bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến chốn, thì bệnh nguy nan như trái núi cũng phải dời khỏi người).
6. Có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậm là ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh.
Ghi chú thêm:
• Khi anh Phạm Viết Hồng Lâm tới báo cáo là anh đã khỏi ung thư và cảm ơn tôi. Tôi hỏi: Anh xin chữa cô-ban có ba 3 tháng, anh ăn gạo lức muối vừng, anh tập "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" thì biết anh khỏi bệnh nhờ phương pháp nào?
• Thưa Bác, cháu có suy nghĩ!
• Nếu bệnh ung thư khỏi vì phương pháp hiện đại thì ông Viên sĩ Mỹ đã khỏi, ông không phải ăn theo thực dưỡng của Giáo sư Nhật OSAWA, nhưng cũng phải mất 15 tháng ông Viên sĩ Mỹ kia mới khỏi.
• Khi Bác phổ biến, cháu tập "Đạt Ma Dịch Cân Kinh" và cho cháu thuốc, chỉ trong 100 ngày luyện tập, cháu ăn ngon, ngủ tốt, sinh lực cháu bừng lên, cháu càng tin tưởng và kiên trì tập ngày 3 buổi, chỉ trong 3 tháng là bệnh ung thư của cháu được xóa sạch.
• Thế thì chính Bác phải cảm ơn cháu, vì trong tài liệu có viết và dẫn chứng các cá nhân bị ung thư đã tự chữa khỏi. Dù sao cũng chỉ là tài liệu, nay cháu đã minh chứng thì tài liệu này đáng tin và nên khuyên mọi người tập, không những khỏi ung thư mà các bệnh khác cũng khỏi.

SƯU TẦM TRÊN NET

Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Các bộ sách Dịch Cân Kinh  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Các bộ sách Dịch Cân Kinh    Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 5:15 am


Dịch cân kinh & tôi – Thích phước Điện

Một môn công phu tu luyện có một kết quả cực cao thường đi đôi với những nguy hiểm vượt bực không kém. Nếu thành công : "nội công được hàm dưỡng để thân tâm siêu phàm nhập thánh", nếu thất bại : "bị tẩu hỏa nhập ma, thân bại danh liệt". Hai trạng thái đó chỉ cách nhau một đường tơ kẻ tóc. Nguyên nhân :

- Không thầy hướng dẫn.
- Người luyện công thiếu kinh nghiệm.
- Chưa qua thời kỳ nội công căn bản.
- Chưa nắm vững tâm pháp.
- Không nghiên cứu kỹ các hệ thống kinh mạch mà luồng khí vận sẽ chạy qua.
- Chưa đả thông các huyệt mạch tự nó bế tắt từ thuở sơ sinh của kiếp người.
- Chưa vận được khí và điều khiển âm dương nhị khí.

Chỉ thiếu một điều kiện trong các điều kiện không thể thiếu đó cũng khó luyện công được. Hơn nữa các sách lưu truyền chỉ trình bày một cách tổng quát về chiêu thức mà không giải thích tường tận các bí quyết uyên thâm, do đó, dù nắm được sách cũng chỉ nắm chơi, nếu luyện, khó thành công cũng như dễ lạc công, tẩu hỏa, loạn khí… đem đến nguy hiểm cho người luyện không ít.

Tôi không nhớ rõ vào khoảng năm tháng nào nhưng chắc chắn lúc đó tôi đang viết những bài đầu tiên về môn phái Thiếu Lâm cho những số đầu tiên của nguyệt san Võ Thuật.

Phong trào võ lâm phục hưng làm tâm hồn tôi thao thức và võ công của tôi bừng sống, nhiều huynh đệ thương mến, khuyến khích tôi nên đóng góp cho võ lâm một vài viên gạch, nhưng đóng góp bằng cách nào ? Tôi lưỡng lự rất lâu để cuối cùng chọn cách gởi gắm tâm hồn và sự hiểu biết nhỏ hẹp của mình vào tờ báo. Ngoài những giờ viết bài và ôn lại võ thuật, tôi bắt đầu nghiên cứu kỹ về Dịch cân kinh, một môn tu luyện nội công thượng thừa của Thiếu Lâm tự ; để rồi từ đó : rủi, may, và bao thăng trầm quanh cuộc đời võ nghiệp của tôi bắt đầu, ảnh hưởng luôn đến nếp sống của tôi ở các phương diện khác, như một xáo trộn toàn diện... làm tôi điêu đứng ê chề, để khi viết tài này, tôi đã xa khởi điểm trên hai năm. Đến nay, thâm tâm tôi tạm yên ổn, để tôi thành kính cống hiến cho những ai có duyên nghiệp trên bước đường tu luyện Dịch cân kinh vài chi tiết nhỏ bé của riêng tôi, bồi đắp thêm cho rừng võ lâm một vài hoa lá.

Tôi thương thân tôi một thuở nào vì tu luyện võ công mà phải khổ sở, nên thương mến tất cả những ai sẽ đi trên con đường này, thao thức vì các bạn sẽ và đang tu luyện như thao thức vì chính mình "đồng thanh tương ứng" trong xóm hoạn nạn và cùng một lý tưởng.

Thuở đó, tôi đã viết cho võ thuật khoảng ba bài giới thiệu tổng quát về môn phái Thiếu Lâm, bài kế, tôi định đưa Dịch cân kinh ra mắt độc giả của Võ Thuật, cũng may, tôi chưa viết, nếu không, giờ này tôi ân hận biết dường nào.

Đầu tiên, tôi đem 8 bản Dịch cân kinh mà tôi sưu tầm được ra so sánh, tuyển chọn. Ba bản Dịch cân không phải của Thiếu Lâm phái được tôi để riêng ra, đó là các bản :

- Dịch cân bật kinh bát đoạn cẩm của tiên gia.
- Dịch cân kinh nhị thập bát thức của Thiên Hư đạo trưởng (thuộc Côn Lôn phái).
- Dịch cân trước lục của Nhiếp ngột Truật Đế thuộc một dị phái giáp giới Tây Tạng.
Ba bản này tôi chỉ đọc sơ để cho biết rồi đem cất. Tôi đem 5 bản còn lại được gắn nhãn hiệu của Thiếu Lâm ra phân chất.
Ba bản kế đó được loại ra một lần nữa vì chiêu thế nhiều ít không đồng theo đương truyền (24 đoạn) nên khó tin cậy. Hai bản còn lại giống nhau khoảng một chín một mười, hai bản này được lưu truyền ở hai nơi khác nhau và hai nhân vật cũng ở hai thế hệ xa nhau gần hai trăm năm, đó là hai bản :
1) Dịch cân kinh của Tử y hầu (Anh Lạc Hà ở báo Võ Thuật đã có dịch ra Việt ngữ với nhan đề là Dịch cân Tổ truyền - trong khi chính bản được in chung với Ngũ hình quyền - 8 lần tái bản ở Ma cao và Hồng Kông, 3 lần đổi tựa sách : Nội công Thiếu Lâm tự - Ngũ hình quyền - Nội công Tâm Pháp Thiếu Lâm tự).
2) Dịch cân kinh của Vân không Đại Sư, sách in theo lối mộc bản, cuốn sách có hàng chữ : Trọng đông giáp thìn niên - đời Vua Thánh Tổ, niên hiệu Khang Hy (khoảng năm 1784 theo dương lịch).
Cả hai bản này đều có 24 đoạn, các đường khí vận tuy hơi chênh lệch nhau chút đỉnh vì có vài huyệt được kê khai thừa thiếu không đồng nhưng hệ thống kinh mạch đồng nhất nên không sao, nhưng tôi cũng phân vân đến mấy hôm liền.

Bản nào mới là chính bản của Thiếu Lâm hay đúng hơn, của Đạt ma Thiền Sư. Không có vấn đề Tổ sư cho lưu hành hai bản khác nhau, cũng không có vấn đề Dịch cân kinh loại giả mạo vì Dịch cân là danh từ chung, ai cũng có quyền để tựa cho tác phẩm của mình cả (như ba quyển dịch cân mà tôi đề cập ở đoạn đầu và còn vô số các bản Dịch cân khác mà tôi chưa gặp như bản do Trần Tuấn Kiệt dịch thuật chẳng hạn...)

Cuối cùng tôi quyết định dồn hai quyển làm một, hay đúng hơn hai quyển vốn là một, chỉ bổ túc vài thiếu kém của nhau thôi, như vậy tôi có một pho Dịch cân hoàn toàn đầy đủ. (Tôi xin thông tri một điều : hiện có nhiều pho quyền phổ, bí kíp, luyện công được in bằng loại chữ cổ trên giấy súc, như một pho sách xưa, được tung ra thị trường và bán từng quyển một, giá cả tương đương với một món đồ cổ giá trị, đó là sách xưa giả mạo. Còn sách xưa chính tông thì sao ? cũng khó tin cậy vì hội võ thuật Trung Quốc đã từng cảnh cáo : phải coi chừng, sách càng xưa càng không bảo đảm vì sự thiên vị và sự hiểu biết hạn cuộc của người ra sách, không như ngày nay, được hội kiểm duyệt và được nhiều danh sư phối hợp ấn chứng trước khi xuất bản…). Bởi vậy khi nắm pho Dịch cân kinh bằng loại giấy hoa tiên sản xuất tại Giang Nam với giòng chữ xa xưa, lòng tuy nao nức cảm động, tôi vẫn hồi hộp hoài nghi, đến khi phối hợp với pho lưu truyền của Tử y Hầu (được kiểm duyệt và khích lệ bởi hội võ thuật Trung Quốc) tôi mới yên tâm tin tưởng.

Tôi về một tịnh thất nhỏ bên bờ sông Đồng Nai ở Biên Hòa để rãnh giờ tu luyện.
Thức thứ nhất mà cũng là thức quan trọng nhất được tôi đặc biệt lưu ý, dành nhiều thì giờ thực hiện.
Nửa tháng đầu tôi siêng năng luyện tập, kết quả vô cùng khả quan. Trong người tôi đã có một luồng hơi nóng thường trực luân chuyển, tôi mừng rỡ, cho là nội công đã khai phát (?). Tôi không hiểu sao thời kỳ đó tôi ngớ ngẩn khờ dại đến thế, có lẽ sự lạc quan và ảnh hưởng tiểu thuyết làm tôi quên mất thực tế. Đến ngày thứ 18, trong người tôi nóng quá, mắt đỏ và hay đổ ghèn, đầu nhức, tôi hy vọng đó là do bệnh chứ không phải do sự tập luyện bị sơ sót, tuy nhiên đó là một sự biện luận để tự đánh lừa mình trong một ý niệm hoài vọng cao xa, thực tâm tôi đã hơi lo : chắc có sao đây trong vấn đề tu luyện. Tôi đọc lại tất cả các pho Dịch cân kinh mà tôi hiện có, nhưng với trình độ của tôi hoàn toàn mù tịt, không khám phá một cái gì mới lạ cả. Tôi nghỉ tập hai ngày để lắng nghe sự phản ứng tự bản thân (Tôi không dám bỏ tập quá 3 ngày vì với thời gian này tất cả các cách luyện công của người xưa dù ở phái nào đều cấm kỵ, nếu phạm phải tập lại từ đầu, điều này trong pho "huyền nghĩa" Dịch cân kinh của sư phó đại sư cho thí dụ rằng : như gà ấp trứng chưa nở thành con, nếu bỏ quá hạn, trứng hư, phải đợi lứa khác; như nước chưa sôi, bỏ dở, nước trở lạnh như bình thường; như người lội ngược giòng suối chảy mạnh, không cẩn thận, hỏng chân, nước sẽ cuốn về vùng dưới, phải bắt đầu từ đầu, chứ không phải tiếp tục chỗ bỏ dở...

Sau hai ngày bỏ dở, nhiệt lượng trong người vẫn không giảm. Tôi luyện tiếp thì sức nóng lại tăng. Tôi liều mạng luyện đều đều không chịu bỏ. Có ngày quá nóng tôi phải nằm dưới bến sông Đồng Nai trước mặt, thân mình ngâm được nước, đầu gối trên một hòn đá ngủ say sưa. Đến đêm thứ 25 kể từ lúc tu luyện, tôi bị xuất tinh dầm dề, tôi mê đi, đúng hơn là được ngủ yên. Sáng hôm sau thức dậy, sức nóng không còn nữa nhưng thể xác mệt mỏi rã rời, tôi lại bỏ tập hai ngày, rồi tập lại, sức nóng lại gia tăng nhưng độ năm ngày sau tôi lại bị xuất tinh, sáng mai hết nóng, người lại yếu… Kinh nghiệm này làm tôi hoảng sợ bỏ tập hẳn. Nhưng dù không tập thì sức nóng vẫn tăng đều, khoảng một tuần thì lại bị xuất tinh, tinh ra cho kỳ hết mới thôi, và hôm sau lại bớt nóng… Chu kỳ này đến với tôi từ đó, người tôi ốm yếu xanh xao rõ rệt, các bạn tôi đều kinh ngạc cho sự biến đổi của tôi. Tôi không muốn gặp ai hết, đóng cổng chữa bệnh, nơi tu dưỡng trở thành nơi dưỡng đường. Tâm hồn tôi cáu kỉnh bất thường, sự ham muốn tình dục ở đâu ầm ầm kéo đến làm tôi khổ sở, tôi xa lánh tất cả các người quen thuộc, tìm các danh y để trị bệnh, các đông y thì bảo là tôi bị thận suy, hỏa vượng, thủy khô, có vị bảo là gan héo, có vị bảo mật sưng, thần loạn, tôi uống đủ thứ thuốc, mùi thuốc nam thuốc bắc xông lên không ngớt trong am tịnh tu của tôi. Không gặp đúng thầy đúng thuốc nên bệnh tôi không giảm chút nào, tôi cũng biết bịnh do võ công kiến tạo, chỉ có những người am tường võ công mới chữa nổi, nên giả từ Đông y tôi tìm đến Tây y. Bác sĩ Tài giới thiệu tôi vào bệnh viện Đồn Đất, ở đây tôi được thử đủ thứ : thử nước tiểu, thử phân, nước bọt, đo nhiệt độ, đo áp suất máu. Ngành Tây y với một lối khám bệnh toàn diện, kỹ lưỡng cũng không đoán nổi bệnh của tôi, kết luận họ bảo : lục phủ ngũ tạng của tôi hoàn hảo, tôi chỉ bị nóng, trong máu có nhiều thán khí, số lượng hồng huyết cầu sút giảm quá nhiều, thận hơi teo lại, trong hai tháng tôi được vào mười chai nước biển, tiêm đủ loại thuốc bổ, thuốc mát... nhưng đâu vẫn còn đấy, chu kỳ nóng đến cao độ, tôi xuất tinh rồi tiếp tục nóng trở lại vẫn đến với tôi hàng tuần. Giả từ Biên Hòa, tôi về Phú Thọ, Gia Định, bến Hàm tử rồi đi Đà Lạt, Banmêthuột, Pleiku... Tôi không đi chơi mà đi để tìm danh sư trị bệnh. Tôi biết bệnh của tôi chỉ có người rành về tu luyện, phải giỏi nội công, khí công hoặc có thừa kinh nghiệm võ công may ra mới cứu tôi ra khỏi đoạn trường Dịch cân kinh này mà thôi.

Năm tháng dần qua, tôi đi mãi trong giòng đời qua muôn xứ, tôi hay gởi thư cho các người quen ở hải ngoại như Hồng Kông, Nhật, Pháp, Anh, Mỹ để nhờ tìm hộ những pho võ công tu luyện và đặc biệt về Dịch cân kinh hầu tìm một giải pháp chữa trị. Tôi ốm yếu quá, mặt mày vàng vỏ xanh xao, tôi sụt đến 12 kg, người tôi đôi khi đi không vững. Tôi chán cho chính tôi. Những bức thư gởi đi vẫn bặt vô âm tín, chẳng thấy hồi âm. Sau ba tháng chờ đợi mỏi mòn làm tôi bi quan đến cùng cực. Cho đến năm sau, những yêu cầu của tôi lần lượt được đáp ứng, những ân nhân xa gần gởi về cho tôi nhiều tài liệu đáng giá không ngờ.
Anh Hoàng Cầm ở Nhật gởi cho tôi bản Dịch cân kinh do Điền thứ Lang sao lục và cuốn sách thuốc trị các bệnh do huyết mạch, khí công tàn phá.
Chị Tôn nữ thị Mỹ Linh ở Anh chép cho tôi bản "huyền nghĩa Dịch cân kinh" nguyên tác của Sư Phó Đại Sư. Pho này trình bày những diệu lý, cách tu luyện Dịch cân kinh và những thắc mắc khi bị lệch lạc trong việc luyện công. (Bộ sách này có lẽ do liên minh Anh Pháp chiếm đoạt trong chiến cuộc đánh phá vườn Viên Minh tại Bắc Kinh năm 1859, nhiều sách cổ trong thư viện ở hoàng cung Thanh Triều bị chiếm vào dịp này).
Tôi cũngkhông quên ơn chú Lê Tâm Anh ở Macao đã gởi cho cuốn "Khí công y dược trị liệu toàn thư". Tôi lành bệnh do phối hợp nhiều phương pháp ở các pho sách này, tôi xin chân thành ghi lên đây những sự tri ân của riêng tôi (hiện chúng tôi đang dịch thuật để phổ biến các tài liệu quí giá này một ngày gần đây).
Nguyên thức thứ nhất trong tiền bộ Dịch cân kinh gọi là Hỗn nguyên nhứt khí (một danh từ hoàn toàn của tiên gia. Theo pho "huyền nghĩa dịch cân kinh" của Sư phó thì toàn bộ 24 đoạn không có đoạn nào được đặt tên cả, có chăng chỉ là lời giải thích các công dụng của từng chiêu thức do các đại sư đời sau bổ túc thêm để kẻ hậu học được rộng phần kiến thức thôi. Cũng theo Sư phó thì việc đặt tên cho các chiêu thức sẽ làm cho người tu luyện bị kẹt vào danh từ, tâm ý sẽ có ấn tượng theo ý riêng của danh từ được đặt ra làm mất sự vô tâm theo tinh thần tu luyện cao siêu của Dịch cân kinh) - Thức đầu tiên trong tiền bộ này được sử dụng khí theo hệ thống huyệt đạo nhai nhiệt, huyệt mở đường là huyệt khí hải ở vùng Đan điền, đường khí này bò theo xương sống bắt đầu từ huyệt vỹ tử (nhiều người lầm là huyệt hội âm) theo xương sống lên hai vai rồi tỏa xuống hai tay, luồng khí đến đây được quần một vòng theo tư thế bật hai bàn tay và rút lên, điểm quan trọng được cấm kỵ thứ nhất là hai tay không được rút cao quá khởi điểm (huyệt khí hải) nếu rút cao hơn sẽ bị loạn khí và lúc đó đầu khí ở khí hải, đuôi khí ở cườm tay, sự giao động được vận dụng đến tối đa, như một bình thông nhau, càng chênh lệch khí càng bị tràn ra ngoài sanh bệnh khi trả khí về, luồng khí không chạy theo lối cũ mà cùng trở lại xương sống trên cổ qua đỉnh đầu (huyệt thiên tinh, hoặc còn gọi là huyệt bá hội, hay nê hoàn cung) xong vòng ra trước và xả ra đằng mũi. Điểm cấm kỵ thứ hai là khi khí chạy qua huyệt linh đài phải từ tốn điều hòa, vì huyệt này là yếu huyệt để tập trung hay phân tán khí lực, nếu huyệt này bị tổn thương sẽ gây khó khăn trong việc tu luyện khí công, nội công, vô cùng.

Ngoài thức thứ nhất, mỗi thức khác trong 24 thức đều có một hệ thống khí vận và cấm kỵ riêng biệt, hết 24 thức là giáp cả một châu thân trong nội thể (cũng theo Sư phó Đại sư thì pho Tẩy Tủy là tổng luận về huyệt pháp sanh biến, sanh trụ và sanh khắc của điện lực âm dương trong con người, pho Dịch cân kinh là phương pháp kiến thiết hệ thống đối trị và hóa giải. Nói đến Tẩy Tủy thì phải nói đến Dịch cân kinh, tuy nhiên có thể thiếu Tẩy tủy chứ không thể thiếu Dịnh cân kinh, vì Dịch cân kinh mới là then chốt trong vấn đề tu luyện, nói như vậy không phải Tẩy tủy kinh không quan trọng thật sự. Tẩy Tủy quan trọng ở một phương diện khác : những liên hệ của thời gian, vị trí và con người khi thực hiện sự tu luyện, ngoài ra Tẩy tủy cũng còn dạy phương pháp di chuyển huyệt đạo hoặc khai thêm huyệt đạo hoặc đóng kín các huyệt đạo không cần thiết v.v...)

Riêng vấn đề bệnh tật của tôi là do tôi luyện sai, điều cấm kỵ là không nên rút tay lên quá eo lưng hoặc ngang eo lưng theo các sách đương thời chỉ dạy, một lời dạy quá mơ hồ tổng quát, đúng ra phải phân lượng huyệt đạo rành mạch mới phải. Tôi vấp phải cấm luật này nên hỏa nhiệt tràn ra ngoài hệ thống riêng biệt của nó, sinh ra bịnh nhiệt hỏa sinh biến. Để chữa trị, tôi phải sử dụng thức cuối cùng của hậu bộ dịch cân kinh, thức nầy có công dụng làm tản tinh lực trong người ra khắp toàn thân, tinh không tụ lại thì không tràn ra ngoài (xuất tinh) mỗi khi bị hỏa nhiệt nấu lỏng và kích thích. Tôi lại phải luyện lại thức thứ nhất thật đúng để kéo các luồng khí đang tán loạn khắp nơi trở về hệ thống cũ. Ngoài ra tôi lại phải ngồi điều khí sổ tức quán theo thiền gia. Trong gần 3 tháng chữa trị, bệnh tôi hoàn toàn bình phục. Lần này tôi lại tu luyện Dịch cân kinh mà không phải lo sợ vì đầy đủ các tài liệu cần thiết.

Lúc này tôi đang ở Đà Lạt, nhiều bạn thân ở xa về thăm, chúc mừng tôi, lâu lâu gởi cho tôi một cuốn Nguyệt San Võ thuật, tôi xúc động đọc say sưa như lính tiền đồn đọc báo...

Thích phước Điện
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

Các bộ sách Dịch Cân Kinh  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Các bộ sách Dịch Cân Kinh    Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitimeSun Apr 22, 2012 5:17 am


Dịch cân Kinh (Trần Đại Sỹ)

MỤC LỤC
Phần thứ nhất: Dẫn nhập
1. Nguồn gốc
2. Nội dung
Phần thứ nhì: Chuẩn bị
1. Điều kiện để luyện
2. Trường hợp không nên luyện Dịch Cân Kinh
3. Tư thức dự bị lúc mới luyện
4. Hiệu năng
5. Chủ trị
6. Thu công
Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
Phần thứ tư: Tổng kết
Phụ lục: Tài liệu Dịch Cân kinh ngụy tạo.

[align=center] [/align]

Thưa Quý Đồng-nghiệp,
Hôm nay chúng ta họp nhau đây, để thảo luận một đề tài vừa có tính chất Y-học, vừa có tính chất Võ-học, Thể-thao rất cổ của Trung-Quốc. Tại các Đại-học Y-khoa Á-châu Thái-bình dương, việc đưa vấn đề như thế này vào giảng dạy, là một sự bình thường từ đầu thế kỷ thứ 20. Nhưng tại châu Âu chúng ta thì thực là hiếm hoi. Hơn nữa đề tài, mà chúng ta bàn luận đây, sẽ gây ra rất nhiều tranh luận. Đó là:
DỊCH CÂN KINH
Dịch Cân kinh là tiếng gọi tắt của Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bộ sách này đầy những huyền thoại, đầy những ngụy tạo, đầy những mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây ra phản ứng nguy hại cho cơ thể, dĩ chí chết người.
Vì vậy sau buổi hội thảo hôm nay, tôi xin Quý-vị hãy vì Y-đạo, chịu khó giảng dạy cho người xung quanh, cho thân chủ, để sự thực được soi sáng.
Thưa Quý-vị,
Tôi là người Pháp gốc Việt, sống ở Pháp nhiều hơn ở Việt-Nam. Tuy nhiên lúc nào tôi cũng tưởng nhớ đến cố quốc xa xôi vạn dặm. Tôi hy vọng bản tiếng Việt của tôi, sẽ được chuyển về Việt-Nam như một bông hồng dâng cho bà mẹ hiền tóc mầu sương đang ngồi trông tin con.
Phần thứ nhất: Dẫn nhập
1. NGUỒN GỐC
Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu-Lâm bên Trung-Quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền-công vào Trung-Quốc, và làm cho quảng bá.
Ghi chú:
Trung-Quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu-Lâm.
1. Hà-Nam đăng phong Tung-Sơn Trung-Châu Thiếu-Lâm tự,
2. Hà Bắc Bàn-Sơn Thiếu-Lâm tự,
3. Phúc-Kiến Tuyền-Châu Nam Thiếu-Lâm tự,
Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-Lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-Hiến xuất bản xã Bắc-Kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:
"Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-Lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời Thanh Khang-Hy (1662-1723), Ung-Chính (1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang-Tự (1875-1909), chính Phúc-Sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-Sơn Thiếu-Lâm tự, người ta mạo ra tập Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".
Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các Đạo-gia Trung-Quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, chút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai.
Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chính xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma của chùa Thiếu-Lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực.
Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân kinh trên, họ bịa ra nhiều bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung-thư gan, lao, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-Hải, Giang-Tô, Hồ-Nam, Phúc-Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-Lâm ở Hương-Cảng, Đài-Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975.
Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên Hoa-Kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các Bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-Luật-Tân, và cộng tác với Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành Bác sĩ. (Tài liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác nhận sau.
Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu:
- Lão khoa (Geratology)
- Thần kinh, (Psychiatrics)
- Não khoa, (Neurology)
- Niệu khoa (Urology)
- Phong thấp (Rhumatology)
- Phế khoa (Pneumology)
- v.v...
Đến Đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985 tại Trung-Quốc, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:
1. Dịch Cân kinh,
2. Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe).
3. Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú).
4. Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm).
5. 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
6. Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh).
7. Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu).
Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:
- Dễ luyện,
- Luyện mau kết quả,
- Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả.
- Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm.
Tuy vậy nếu bàn về kết qủa luyện thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24 thức luyện của Trần Hy Di. Vì luyện Thiền-công, Khí-công từ nhỏ, nên trong thời gian học tại Đại-học Y-khoa Thượng-hải, tôi theo dõi những buổi giảng Khí-công rất kỹ. Sau khi rời Thượng-Hải, trở về Paris, tôi luyện Dịch Cân kinh liên tiếp 5 năm. Rồi giảng dạy. Trong lúc giảng, tôi đã gặp những khúc mắc khó khăn về sư phạm, không phân giải được, đành chịu, không biết bàn với ai. Phải chờ đến 1987, tôi sang Úc, ở tại nhà bào đệ là Trần Huy Quyền vấn đề mới được soi sáng.
Trong gia đình sáu anh em tôi, thì Quyền là người thông minh nhất. Bất cứ vấn đề gì rắc rối, bí hiểm đến đâu, Quyền chỉ suy nghĩ khoảng nửa giờ là kiến giải sáng suốt. Tôi là thầy thuốc thiếu kinh nghiệm dạy võ thuật, lại nữa tôi chỉ dạy Khí-công cho những sinh viên đã tốt nghiệp Đại-học Y-khoa, nên không có cái nhìn tổng quát. Còn Quyền thì dạy đệ tử nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn nhất có khi tới 80, lại có đủ trình độ kiến thức. Vì vậy Quyền nhiều kinh nghiệm sư phạm hơn tôi. Tôi đem Dịch Cân kinh ra bàn với Quyền. Vì Quyền đã học võ từ năm 11 tuổi, dạy võ 22 năm (năm đó Quyền 42 tuổi), rất nhiều kinh nghiệm. Trong một tháng, anh em đã trao đổi, bao nhiêu khúc mắc đều giải được hết. Năm sau (1988) tôi trở lại Úc, chúng tôi ra soạn thành tài liệu.
Nay nhân Đại hội Y-khoa Châu-Âu của ARMA, do yêu cầu của anh em, một lần nữa tôi sửa đổi, thêm kinh nghiệm, đem ra giảng dạy. Tôi tin rằng anh chị em sẽ hội lĩnh được hết. Trước là luyện cho thể kiện, tâm an, thần tĩnh. Sau là dạy cho thân chủ, giúp họ trị bệnh.
2. NỘI DUNG
Bản Dịch Cân kinh mà các Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết. Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ bản để độc giả tham chước. Về tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo bản của các Đại-học Y khoa Trung-Quốc.
Cũng như tất cả thư tịch Trung-Quốc, trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết này bị nạn tam sao thất bản. Khi san định, phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các Đại-học đã vứt bớt đi hầu hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi. Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học Y-khoa Thượng-Hải và tham chước bản của các Đại-học Thành-Đô, Giang-Tô, Bắc-Kinh, Vân-Nam.
Mỗi thức gồm có:
- Động tác và tư thế, để chỉ thế đứng khởi đầu, rồi các động tác biến hóa, thở hít.
- Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát của kết quả đạt được nếu luyện đúng.
- Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát nghĩa hơn là chữ Chỉ-định.
- Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết, để đọc giả có thể luyện một mình. Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ, Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
Phần thứ nhì: Chuẩn bị
1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ LUYỆN
- Từ sáu tuổi trở lên.
- Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20 đến 30 độ C).
- Ăn vừa đủ no, không đói quá, không no quá, không say rượu.
- Y phục rộng.
- Giải khai đại tiểu tiện trước khi luyện.
- Luyện từng thức theo thứ tự.
- Không nhất thiết phải luyện đủ 12 thức một lúc.
- Khi mới luyện, luyện từng thức một. Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang
thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức đầu rồi luyện thức thứ ba.
- Mỗi ngày luyện một hay hai lần.
- Trong toàn bộ tôi dùng chữ :
- Thổ nạp để chỉ thở hít hay hô hấp.
- Thổ (hô) để chỉ thở ra.
Còn gọi là thổ cố nạp tân (thở khí cũ ra, nạp khí mới vào).
- Nạp (hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài ngắn tùy ý, không bắt buộc.
- Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng dẫn khí theo hướng nhất định.
2. TRƯỜNG HỢP KHÔNG NÊN LUYỆN
- Đang bị cảm, cúm, sốt.
- Bị thương các vết thương chưa đóng sẹo.
- Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ nữ đang cho con bú luyện rất tốt).
- Ăn no quá hay đói quá.
- Sau khi làm việc quá mệt.
3. TƯ THÚC DỰ BỊ LÚC MỚI LUYỆN
Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên.
- Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai,
- Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng,
- Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ,
- Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình, cảnh,
- Tiến hành toàn thân buông lỏng: Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng, bụng, đùi, chân...
Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý, không suy nghĩ.
- Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh.
- Hơi thở bình thường. Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc khởi đầu cho nhiều thức. Tất cả các thức Dịch Cân kinh đều
là Lập thức (thức đứng). Không có Ngọa thức (thức nằm) và Tọa thức (thức ngồi).
4. HIỆU NĂNG
- Điều thông khí huyết,
- Tăng vệ khí,
- Ích tủy thiêm tinh,
- Kiên cân, ích cốt.
- Gia tăng chân-nguyên khí,
- Minh tâm, định thần,
- Giữ tuổi trẻ lâu dài.
- Gia tăng nội lực.
5. CHỦ TRỊ
- Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y, Châm-cứu, Trung-dược v.v.
- Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh:
Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí, khí hãm.
Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư, bần huyết.
Trị tất cả các chứng phong thấp.
Trị tất cả các bệnh về thần kinh.
Trị tất cả các bệnh tâm, phế.
6. THU CÔNG
Kính thưa Quý-vị
Kinh nghiệm giảng huấn Khí-công mà chúng tôi thu được :
- Dù tuổi trẻ, dù cao niên,
- Dù tư chất cực thông minh hay bình thường,
- Dù người mới tự luyện,
- Dù những vị Bác-sĩ thâm cứu Trung-y, dù các vị lương y,
- Dù các võ sư, hay huấn luyện viên võ thuật.
Sau khi tập ngoại công, luyện nội công, luyện khí công xong, thì chân khí nảy sinh. Chân khí nảy sinh, cần quy liễm lại, thì mới không bị chạy hỗn loạn. Vì vậy Quý-vị cần hướng dẫn cho thân chủ thu công. Đây là kinh nghiệm đặc biệt của chúng tôi, sau nhiều năm giảng dạy y học, võ học, thiền công và khí công. Phương pháp thu công, chúng tôi chép vào cuối tập tài liệu này.
Phần thứ ba: 12 Thức Dịch Cân kinh
Thức thứ nhất:
Cung thủ đương hung (Chắp tay ngang ngực).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Tý tiền bình cử (hai tay đưa ngang về trước), hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay từ từ úp vào nhau, rồi đưa lên tới vị trí ngang ngực. (H1).
1.2. Cung thủ hoàn bao (vòng tay khép lại): cùi chỏ từ từ co lại, cho đến khi hai cánh tay ép nhẹ vào thân. Hai bàn tay hướng thượng. Hai vai hạ xuống, xả khí trong lồng ngực. Xương sống buông lỏng. Khí trầm đơn điền. Lưỡi đưa sẽ chạm lên nóc vọng (palais). Giữ tư thức từ 10 phút đến một giờ, mắt như nhìn vào cõi hư vô, hoặc nhìn vào một vật thể thức xa. Cứ như vậy trong khoảng một thời gian nhất định, tâm trung cảm thấy thông sướng. Đó là cách thượng hư hạ thực.(H2).
2. HIỆU NĂNG
Trừ ưu, giải phiền,
Giao thông tâm thận.
3. CHỦ TRỊ
Mất trí nhớ, tim đập thất thường.
Dễ cáu giận,
Nóng nảy, thiếu kiên nhẫn,
Trong lòng lo sợ vô cớ,
Thận chủ thủy, tâm chủ hỏa. Khi tâm thận bất giao, tức thủy không chế được hỏa, sẽ sinh mất ngủ, mất trí nhớ. Thức
này có thể điều hòa tâm thận.

[align=center]
[/align]

4. NGUYÊN BẢN

[align=center] [/align]
Thức thứ nhì:
Lưỡng kiên hoành đản (Hai vai đánh ngang).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ

1.1. Án chưởng hành khí ( án tay, khí lưu thông), tiếp theo thức thứ nhất, hai bàn tay từ hợp rời nhau, úp xuống tới bụng, rồi đưa ra sau lưng (H3), đồng thời ý-khí theo bàn tay trầm đơn điền.

1.2. Lưỡng tý hoành đản ( hai tay ngang vai), hai tay từ từ đưa lên ngang vai, hai bàn tay hướng lên trời, mắt khép lại, dùng ý dẫn khí phân ra hai vai, bàn tay. Mắt từ từ mở ra. Lưỡi từ nóc vọng hạ xuống. Ý khí trên đầu, hông, đùi buông lỏng. Giữ tư thức càng lâu càng tốt.(H4)
2. HIỆU NĂNG

Tráng yêu, kiên thận (làm cho lưng mạnh lên, giữ thận chắc chắn.)
Xả hung lý khí ( làm cho lồng ngực mở ra, giữ khí điều hòa).

3. CHỦ TRỊ

Trị chứng yếu thắt lưng,
Bảo vệ thận,
Trị chứng uất kết lồng ngực (thần kinh),
Giữ toàn thể xương sống khi bị yếu (sau khi bệnh, tuổi già).
[align=center]
[/align]

4. NGUYÊN BẢN

[align=center] [/align]
Thức thứ ba:
Chưởng thác thiên môn (Hai tay mở lên trời).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Cử tý triển mục (nâng tay, phóng mắt) : đưa tay, mở mắt, tiếp theo thức thứ 2, hai tay đưa thẳng lên trời, hai lòng bàn tay đối nhau. Đồng thời ngửa mặt nhìn trời (H5). Giữ tư thức dài, ngắn tùy hoàn cảnh. Như nhìn trời lâu mỏi mắt, thì hai mắt khép nhỏ lại dùng ý dẫn khí, tưởng như dẫn thiên khí vào não, theo xương sống (Đốc-mạch) tới ngang thắt lưng (huyệt Mệnh-môn) rồi tỏa nạp sang thận .
1.2. Chưởng thác Thiên-môn (chưởng xuyên cửa trời) : chưởng thác thiên môn: Tiếp theo, ngửa hai bàn tay lên trời, các ngón hai bàn tay đối nhau. Lưỡi từ từ nâng lên. Mặt nhìn trời, hướng vào chân trời xa xa (H6). Luyện càng lâu càng tốt. Khi mắt mỏi, thì từ khép nhỏ lại, tưởng tượng nhìn thấy đôi mắt trời.

1.3. Phủ chưởng quán khí (úp chưởng thu khí) : tiếp theo thức trên, hai chưởng quay ngược hướng hạ. Hai cùi chỏ vòng như vòng cung. Đầu, cổ thẳng, mắt nhìn về trước, lưỡi hạ xuống (H7). Khi trở chưởng, ý niệm tưởng tượng thu được thiên khí, chuyển thẳng xuống ngang lưng; rồi lại thu thiên khí vào bàn tay nhập não (huyệt Bách-hội), qua hầu đưa tới hậu môn (huyệt Hội-âm).
Những vị bị huyết áp cao, thì dẫn khí từ hậu môn xuống lùi, rồi tỏa xuống bàn chân, đưa xuống đất.
1.4. Án chưởng tẩy tủy (án tay, tẩy tủy) : tiếp theo thức trên, hai tay từ từ hạ xuống tới bụng, rồi buông thõng (H3). Ý niệm khí từ não (huyệt Bách-hội) theo não, dọc xương sống (Đốc- mạch) xuống xương cụt, đùi, bắp chân, thoát ra bàn chân.

2. HIỆU NĂNG

Ích tủy kiên thận,

3. CHỦ TRỊ

Trị đau ngang lưng,
Đau phía sau vai,
Trị tất cả các bệnh phiền táo, cáu giận.
Nữ kinh nguyệt thất thường,
Nam khó khăn sinh lý,
Hay quên.
Trẻ con chậm lớn,
Thần kinh suy nhược.

[align=center]

[/align]
4. NGUYÊN BẢN

[align=center] [/align]
Thức thứ tư:
Trích tinh hoán đẩu (Với sao, đổi vị).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Chỉ thủ kích thiên (bàn tay chỉ trời) : tiếp theo thức trên, chưởng phải di chuyển tới vị trí ngang lưng, úp bàn tay vào sống ngang lưng (huyệt Lao-cung áp vào huyệt Mệnh-môn). Đồng thời tay trái đưa lên cao, chưởng mở rộng hướng sang phải . Lưỡi từ từ nâng cao. Mắt nhìn vào tay. (H8 ). Thức này phải buông lỏng cần cổ, dẫn khí từ não (huyệt Bách-hội) theo xương sống (Đốc-mạch tới huyệt Mệnh-môn).
1.2. Phủ chưởng quán khí (úp chưởng thu khí) : tiếp thức trên, chưởng trái hơi hạ xuống, đầu cổ ngay. Đỉnh lưỡi từ từ hạ xuống. Hai mắt nhìn thẳng, hơi khép lại. (H9). Ý niệm khí từ lưng bàn tay trái thoát ra.
[align=center] [/align]
1.3. Án chưởng tẩy tủy (giữ bàn tay, tẩy tủy) : tiếp theo thức trên, tay trái từ từ hạ xuống ngực, bụng (H10). Ý niệm như trên.
[align=center] [/align]
2. HIỆU NĂNG

Điều lý tỳ vị (điều hòa khí tỳ vị).
3. CHỦ TRỊ
Trị tất cả các bệnh tỳ vị, ruột.
Trị các bệnh vai, cổ, lưng.

4. NGUYÊN BẢN
[align=center] [/align]
Thức thứ năm:
Trắc sưu cửu ngưu vỹ (Nghiêng mình tìm đuôi trâu).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Cung bộ quan chưởng (bước khom, quay chưởng) : đổi tư thức , hai bàn tay nắm nhẹ, đưa ra sau lưng, chưởng tâm hướng thượng. Chân trái bước về trước một bước, gối khom xuống hình cung, đồng thời tay trái đưa lên ngang với đầu đỉnh, chưởng tâm hướng nội. Trong thức này, mắt nhìn vào chưởng trái. Tay phải hơi đưa về sau. Hô hấp tự nhiên, lưỡi đưa lên trên.
(H11). Đổi thức, phải, trái giống nhau, duy phương hướng khác biệt.
1.2. Thanh hư tẩy tủy ( buông lỏng tẩy tủy) : vẫn tư thức trên, hai chưởng mở ra buông lỏng, đỉnh lưỡi hướng thượng, mắt khép nhẹ. Dùng ý dẫn khí từ bàn tay (Huyệt Lao-cung) đưa khí vào thân, hàm, răng, nhập não (Huyệt Bách-hội), rồi đưa theo xương sống (Đốc-mạch) xuống đùi, chân, bàn chân (Huyệt Dũng-tuyền).
[align=center] [/align]
(H12). Đổi thức, phải, trái giống nhau, duy phương hướng khác biệt.
[align=center] [/align]
(3) Tiếp cốt tẩy tủy (thấm xương tẩy tủy), tiếp thức trên. Chân trái thu hồi, cùng chân phải song song. Hai tay cũng thu hồi, buông thõng bên hông, rồi từ từ đưa lên cao như phần (3) và (4) thức thứ ba.
2. HIỆU NĂNG

Cường kiên tứ chi,
Ích tủy, trợ dương.
3. CHỦ TRỊ

Tất cả các chứng đau nhức tứ chi,
Đau ngang lưng,
Dương ủy (Impuissances sexuelles)
Di, mộng tinh.
Nữ lãnh cảm,
Tất cả các bệnh thời kỳ mãn kinh.
4. NGUYÊN BẢN
[align=center] [/align]
Thức thứ sáu:
Xuất trảo lượng phiên (Xuất móng khuất thân).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Quật quyền liệt yêu ( móc quyền chuyển lưng) : tiếp theo thức trên, gập người về trước 90 độ. Hai tay tự nhiên buông thõng. Mắt nhìn thẳng về trước. Sau đó từ quyền biến ra chưởng (bàn tay mở ra), rồi người từ từ thẳng dậy, hai cánh tay ép nhẹ vào thân, bàn tay hướng thượng.
(H13). Khi người gập xuống thì Thổ. Lúc người thẳng dậy thì Nạp.
[align=center]
[/align]

1.2. Lưỡng chưởng tiền thôi (đẩy hai chưởng về trước), tiếp theo thức trên, hai tay do quyền biến chưởng, từ từ đẩy về trước, chưởng tâm hướng về trước. Hai cánh tay thẳng ngang với vai. Hai mắt nhìn về trước. (H14).
[align=center] [/align]
1.3. Hấp khí hồi thu ( hít khí, trở lại bình thường), tiếp thức trên, bàn tay buông lỏng, cùi chỏ gập, hai tay từ từ thu lại, đưa ngang lưng, Nạp khí.
Nếu sức yếu, hoặc tuổi cao thì chỉ luyện một lần. Còn như thanh tráng niên muốn tăng cường thể lực có thể tiếp tục: hai tay đưa lên, chưởng tâm hướng thượng Thổ ra rồi hạ xuống Nạp vào. Luyện liền 7 lần.
2. HIỆU NĂNG

Bổ tinh ích thận,
Dưỡng tâm kiên phế,
3. CHỦ TRỊ

Trị tất cả các bệnh tâm, phế, thận mãn tính. Trị các bệnh cườm tay.
4. NGUYÊN BẢN
[align=center] [/align]
Thức thứ bẩy:
Bạt mã đao thế (Cỡi ngựa vung đao).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Định thân bối kiến ( đứng vững, nhận lưng) : trở lại tư thức dự bị lúc đầu. Tay phải đưa ra lưng, xương sống nơi ngang thắt lưng (huyệt Mệnh-môn), chưởng tâm quay về sau (tức lưng bàn tay áp vào xương sống). Đồng thời tay trái cử cao hơn đầu. Co cùi chỏ lại, tay úp vào gáy, ngón tay ép lên tai phải. Chưởng tâm hướng về trước. Sau khi đạt thức rồi, đầu đỉnh, sống lưng đồng thời nghiêng phải , mắt nhìn vào ngón chân.
(H15). Đỉnh lưỡi đưa lên. Đổi, phải trái cùng thức, duy phương hướng khác nhau.
[align=center] [/align]
1.2. Đầu trắc thượng quan ( đầu nghiêng, nhìn lên) : tiếp thức trên. Thân trở về chính vị. Nghiêng đầu, nhìn lên, hai mắt hướng về phương xa.
(H16). Đổi, phải trái cùng thức, duy hướng trái ngược nhau.
[align=center] [/align]
2. HIỆU NĂNG
Làm mạnh, làm chắc chắn lưng bụng, lồng ngực, cùng cổ.

3. CHỦ TRỊ
Trị tất cả các bệnh bụng, lưng, ngực, cổ,
Bàn tọa, ngang lưng.

4. NGUYÊN BẢN
Hình cổ bị mờ, bỏ qua, vì không cần thiết. Tuy nhiên nguyên bản vẫn còn đủ:
[align=center] [/align]
Thức thứ tám:
Tam thứ lạc địa (Ba lần xuống đất).

1. ĐỘNG TÁC, TƯ THẾ
1.1. Hạ án tẩy tủy (án phía dưới, tẩy tủy) : tư thức như dự thức đầu. Hai tay từ từ cử lên trên, chưởng tâm hướng thượng tới đầu đỉnh. Hai chưởng tâm đối nhau, đồng thời ngước mắt nhìn trời. Hai mắt nhìn về phía vô tận của bầu trời. Lưỡi đưa lên cao. Sau đó đầu cổ thẳng, úp chưởng hướng trở xuốngï, rồi hạ tay xuống ngang bụng.
(H17). Ý niệm "Chưởng thác thiên môn" như đệ tam thức.
[align=center]
[/align]
1.2. Mã bộ tồn án (xoạc chân trên lưng ngựa) : tiếp thức trên, gập gối như ngồi trên lưng ngựa, đồng thời hai tay phân hướng hai bên thân, các đầu ngón tay hướng ngoại. Đó là thức mã bộ, mắt nhìn về trước. Lồng ngực, lưng, đùi như mở ra thành thức thượng hư hạ thực. (H18).
1.3. Chưởng thác thiên cân (chưởng đẩy nghìn cân) : tiếp theo thức trên. Hai chân đang xoạc, thu hẹp lại. Hấp khí. đỉnh lưỡi hướng trời. Đồng thời hai chưởng hướng thượng như đẩy vào một vật nặng nghìn cân, khi tới ngang vai thì đưa hai tay thành vị trí với vai thành đường thẳng. Hô khí. Hai bàn tay hướng lên trời. Giữ nguyên tư thức, một thời gian. Kế tiếp hai tay hạ xuống, gối gập như ngồi trên yên ngựa. Hai tay ép sát người, bàn tay hướng ngoại. Hô khí. Luyện liền ba thức
(H19). Những người huyết áp cao, hay thấp khi luyện thức này phải rất khoan thai. Thanh tráng niên trái lại luyện với tốc độ nhanh.

1.4. Hạ án tẩy thủy (án dưới tẩy tủy) : sau khi hoàn thành thức cuối thì , đứng thẳng dậy, hai tay từ từ đưa ngang đầu, chưởng tâm đối nhau, nghiêng đầu nhìn ra xa, đỉnh lưỡi nâng cao. Đầu cổ thẳng, hai tay hạ xuống ngang bụng như thức thứ 8 (H17).
2. HIỆU NĂNG
Bồi bổ nguyên khí,
Cường kiên cân lực, (làm mạnh, làm gân chắc chắn).
3. CHỦ TRỊ
Trị lưng đau,
Dương ủy (bất lực sinh lý).
Các bệnh về chân.
4. NGUYÊN BẢN

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Các bộ sách Dịch Cân Kinh  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Các bộ sách Dịch Cân Kinh    Các bộ sách Dịch Cân Kinh  I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Các bộ sách Dịch Cân Kinh
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Sách Huyền Môn: Vạn Pháp Quy Tông
» KINH NGHIỆM TẬP DỊCH CÂN KINH
» NHỮNG ẨN NGHĨA TINH HOA TIỀM ẨN TRONG KINH THÁNH hay GIẢI MẢ KINH THÁNH .( Tiếng Anh ).
» SÁCH TỰ HỌC PALI
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ KHÍ CÔNG ĐÔNG PHƯƠNG :: KHÍ CÔNG TỔNG QUÁT :: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT CÁC BÀI TẬP KHÍ CÔNG NỔI TIẾNG-
Chuyển đến