CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:26 am

Mantra tức là một thần chú, để làm kích động những năng lực huyền bí. Một thần chú mantra có thể là một tiếng nói hay là một câu có nhiều tiếng. Khi người ta đọc nó một cách đúng phép, thì nó có thể kích động được những sức mạnh rất phi thường. Một câu thần chú Mantra khi người ta đọc lên, nó uyển chuyển để đem tới những sự rung động thần bí và nó có thể giúp ta đạt được ý muốn. Trong Bà la môn giáo thì những câu thần chú Mantra đó đều rút trong kinh Véda.
Người ta thường gọi một trong những câu thần chú đó là tiếng nói rung động, hay tiếng nói có phần linh động thần bí. Đó tức là tiếng thần bí AUM. Người ta đọc nó là OM nhưng mà người ta viết nó ba chữ A U M. Tiếng thần bí đó tượng trưng ba ngôi của Thượng Đế; tuy ba nhưng mà là một. Khi người ta đọc lên danh từ Aum đó, thì chữ M đằng sau chót phải dài ra. Khi đọc nó, thì người ta phải tập trung tư tưởng vào sự sống thiêng liêng của vũ trụ, và người ta tìm cách hợp nhất chơn ngã của mình với chơn ngã của vũ trụ. Khi đọc tiếng AUM bảy lần, mà mỗi lần như vậy, thì nó có thể kích động được mỗi cảnh giới trong vũ trụ. Và khi đọc nó, thì trí của ta cũng tập trung vào một trong bảy cảnh giới của vũ trụ. Và tôi chắc rằng : trong chư huynh đệ cũng biết, bên Phật giáo đôi khi người ta cũng có đọc câu thần chú : OM MANI PADME HUM . . .( Án ma ni bát rị hồng). Những câu thần chú đó có cái sức rung động rất phi thường, vậy khi người ta đọc nó lên thì người ta phải làm cho cái tâm chứa đầy bác ái mà thôi. Khi người ta đọc những câu thần chú đó thì nó làm kích động những huyệt bí hiểm ở trong thân người. Và người ta sẽ nhận thức rằng sự nhịp nhàng uyển chuyển của linh hồn người cũng nhịp nhàng đúng điệu với sự rung chuyển của tâm thức vũ trụ. Pháp môn Mantra Yoga giúp cho người ta có thể điều khiển được mọi âm thanh, mọi tiếng động và do đó có thể đạt được mọi quyền năng.
Bây giờ tôi xin nói pháp môn kế là Laya Yoga. Pháp môn đó có khi người ta cũng gọi nó là Kundalini Yoga, bởi vì khoa pháp môn này dạy người ta tập làm kích động được một sức mạnh huyền bí gọi là Hỏa hậu nó ngự trong thân thể của mỗi người. Tôi sẽ có dịp nói đến cái Kundalini ấy trong những bài thuyết pháp tới đây và bây giờ tôi xin miễn nói tới vấn đề đó. Nhưng theo pháp môn Laya Yoga hay là Kundalini Yoga, thì nhà đạo sĩ hình dung mình ở giữa một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa bất diệt trong vũ trụ. Và biết rằng : ngọn lửa đó vẫn luôn luôn bừng cháy, và linh động nhất trong mỗi người. Với phương pháp đó người ta có thể hợp nhất ngọn lửa thiêng trong mình với ngọn lửa thiêng của vũ trụ; người ta có thể đạt được quyền năng sáng tạo của Thượng Đế và người ta có thể kích động cái quyền năng sáng tạo của Thượng Đế đó ngự trong thân thể của mỗi người. Bởi thế cho nên nó là một khoa pháp môn rất nguy hiểm và người ta chỉ nên thực hành khoa đó dưới sự chỉ dạy của một Chơn Sư mà thôi. Laya Yoga giúp cho người ta thống trị được những quyền năng sáng tạo, những quyền năng vô vi của ngọn lửa thiêng.
Bây giờ tôi xin nói đến Karma Yoga. Trong Thánh kinh Bhagavad Gita thì Đức giáo chủ Krishna có nói như thế này : “Karma Yoga là một hành động đúng phép. Và mục đích duy nhất tối cao của pháp môn đó là làm sao đạt được sự toàn thiện trong những hành động, mỗi việc làm. Và việc làm thiêng liêng đó phát hiện ra bằng những việc làm trong đời sống hằng ngày”. Những lý tưởng của khoa pháp môn Karma Yoga là làm sao để thực hiện được sự mỹ lệ ở dưới trần gian này. Do đó mà thiên chức của con người mới có thể làm tròn được. Khi tư tưởng của con người được sáng suốt, vị tha và minh triết thì nó hoàn toàn tách ra khỏi những gì xấu xa ở đời mà được nhắm vào cái mục đích cao cả và tốt đẹp. Cái trí của người ta do đó sẽ được luyện tập luôn luôn cho đến khi trở thành một khí cụ hoàn toàn có hiệu quả. Chừng ấy cái trí không còn là một cái gì nhảy nhót lung tung nữa, và trực giác con người lần lần nẩy nở có thể giúp con người đạt được mọi sự. Và khi đó thiên nhãn sẽ mở để giúp con người hiểu được cái Chơn ngã của mình. Karma Yoga là pháp môn giúp cho con người thấu triệt được mọi bí quyết của hành động. Đó là khoa pháp môn dạy người ta làm việc, hành động và phụng sự nhân loại. Người ta phụng sự bằng những hành động, làm việc khéo léo.
Bây giờ thì chúng ta xét đến pháp môn Bhakti Yoga, nghĩa là sùng tín, sùng bái. Pháp môn đó có nhiều Dòng bên Thiên Chúa Giáo vẫn áp dụng và thực hành. Tất cả những đạo sĩ ẩn dật đều thực hành khoa khoa pháp môn Bhakti Yoga để đạt đến Thượng Đế. Đối với một vài hạng người thì khoa pháp môn đó có thể giúp họ đạt được ý muốn. Trong một cơn thiền định mà họ tập trung lòng bác ái của họ vào lòng Bác Ái của Thượng Đế thì nhà đạo sĩ Bhakti Yoga nhận thấy, cảm thông được sự hiện diện của Thượng Đế trong lòng của họ. Khoa Bhakti Yoga đó dạy người ta thế này : Hãy làm tròn bổn phận mình đối với người. Làm việc cho Thượng Đế chớ không phải làm việc riêng cho mình. Hãy hiến dâng mọi sự thông minh, trí tuệ của mình cho Thượng Đế. Hãy học bằng cách kính mến và hãy tập nhìn thấy mọi vật đều ở trong Thượng Đế. Hãy hiến thân mình trọn vẹn cho Đức Thượng Đế cao cả. Ngài ngự trong tâm của mọi vật. Như thế thì nhà đạo sĩ của khoa pháp môn Bhakti Yoga hiến trọn vẹn thân mình cho lý tưởng cao cả. Người ấy hiến dâng tất cả mọi tinh lực của y thuộc về xác thể, thuộc về tình cảm, thuộc về lý trí và tất cả mọi phương diện. Y hiến dâng trọn thân mình của y dưới bàn thờ bác ái và sùng kính. Bhakti Yoga giúp người ta chủ trị được những tình cảm thiêng liêng quí báu, tình bác ái, tình đồng loại, và giúp cho người ta có thể hợp nhất với Thượng Đế bằng sự bác ái và sự sùng đạo.
Bây giờ thì tôi xin nói đến khoa pháp môn Jnâna Yoga. Jnâna có nghĩa là hiểu biết. Pháp môn đó giúp người ta phát triển và bành trướng cái trí cho đến mức cùng tột. Và sau chót người ta có thể dùng trí để hợp nhất mình với tất cả mọi loài, mọi vật. Và người đạo sĩ về phái Jnâna Yoga tập luyện cái trí mình như thế nào để cho cái trí trở nên mạnh mẽ và có thể dùng làm lợi khí để hợp nhất. Vì đó mà người ta nói rằng cái trí là phần linh thiêng, phần chủ động mọi việc làm của con người. Và sau cùng thì sự hiểu biết về vũ trụ, về Thượng Đế là cứu cánh của nhà đạo sĩ đó; y có thể đạt đến tâm thức thiêng liêng của vũ trụ, của Thượng Đế. Jnâna Yoga có thể giúp người ta chủ trị được cái trí và đem đến mọi sự hiểu biết.
Bây giờ thì chúng ta hãy xét đến pháp môn cuối cùng, nó tổng kết, hợp nhất mọi pháp môn, đó là Raja Yoga. Khoa Raja Yoga giúp người ta chủ trị được tất cả mọi pháp môn Yoga khác và giúp cho người ta có được những quyền năng sáng suốt, những quyền năng phân tách, những quyền năng trí tuệ để đạt được Chơn ngã của mình. Như tôi đã nói tối hôm qua thì pháp môn đó là tinh hoa của mọi pháp môn. Nhờ nó mà Đức Thượng Đế ẩn hiện trong mình chúng ta được hoàn toàn bộc lộ ra ngoài và người ta do đó có thể đạt được cái mà người ta gọi là Chơn ngã. Người ta sẽ nhận thức được rằng cái Chơn ngã hay linh hồn của mình vốn là Một với Đại Ngã của vũ trụ. Do khoa pháp môn đó người ta có thể trở thành vị đệ tử của một Chơn Sư. Theo giáo lý Thông Thiên Học thì vị Chơn Sư đó không phải là một người thầy bằng xương bằng thịt mà người ta có thể tìm thấy được ở ngoài đời. Mặc dầu ông thầy đó đôi khi có thể giúp ích cho ta. Riêng phần tôi, tôi cũng đã từng gặp gỡ những nhà đạo sĩ chơn tu ẩn mình trong những chốn rừng sâu, hẻo lánh bên Ấn độ, hay là những nhà đạo sĩ điều khiển dưới tay những môn phái, những trường dạy đạo, những đạo viện hoặc là những đền đài bên Ấn Độ. Sự thật những nhà đó chính là những nhà chơn tu, họ có thể đạt đến Samadhi tức là Đại định một cách dể dàng. Samadhi tức là làm cho xác thân mình hoàn toàn không hay biết gì cả trong khi linh hồn của họ xuất ra, nhưng theo giáo lý Thông Thiên Học thì khi mà chúng ta nói Chơn sư tức là chúng ta nói đến những bực Chơn Tiên hoàn toàn giải thoát. Bởi vì trong hàng các vị Chơn sư đó có những vị thâu nhận đệ tử. Người ta có thể gặp các Ngài trong giấc ngủ hay là trong khi người ta hoàn toàn xuất ra ngoài xác thân của mình. Chính những sự gặp gỡ đó mới là chân thật rõ ràng với người học đạo. Nếu khi nào người ta được hân hạnh gặp vị Chơn Sư đó, thì Ngài sẽ giúp ta cảm hứng dồi dào để giúp ta đạt được những quyền năng của khoa Yoga. Vị Chơn Sư đó sẽ che chở đệ tử của mình dầu người này là đàn ông hay đàn bà trong những giai đoạn đầu tiên và nguy hiểm của người học Đạo. Cũng như bà Chase đã nói hôm chúa nhật vừa rồi thì những vị Chơn Sư đó đối với chúng ta quả là những người có thật bằng xương, bằng thịt. Và những vị Chơn Sư đó ta có thể gặp được.
Một phương pháp giúp ta gặp được những vị Chơn Sư đó là con đường phụng sự, nhất là phụng sự những mục đích Thông Thiên Học của chúng ta. Chính Hội này là phong trào của các Ngài thành lập ra. Phụng sự phong trào Thông Thiên Học tức là con đường đưa chúng ta đến chơn các Đức Thầy và đưa chúng ta đến sự Minh triết thiêng liêng. Nhưng phụng sự không phải là nói một cách suông, nhưng là phụng sự một cách cụ thể. Trong Thiên Chúa giáo thì có câu dạy như thế này : Kẻ nào làm việc tức là kẻ đó cầu nguyện vậy. Đó chính là hình thức của Karma Yoga. Bởi vì tại cõi trần đây là nơi chúng ta phụng sự, nơi chúng ta hoạt động. Nó là con đường đưa đến Chơn sư. Chúng ta là những người Thông Thiên Học chúng ta cần phải học hỏi giáo lý Thông Thiên Học một cách cẩn thận. Chúng ta hãy cố gắng sửa đổi tâm tánh của chúng ta. Chúng ta hãy làm bất cứ việc gì mà chúng ta có thể làm một cách sốt sắng, một cách tận tụy để giúp đỡ công việc Hội của chúng ta. Chúng ta hãy làm tất cả những công việc đó nhơn danh của những vị Chơn Sư. Chừng đó thì cửa Đạo sẽ mở rộng cho chúng ta hiệp nhất được với Thượng Đế. Và đó, tôi xin nhắc lại, chính là mục đích của tất cả mọi pháp môn Yoga vậy.
Soạn giả : Nguyễn thị Hai
(Trích trong Tìm hiểu Thông Thiên Học số 65 và 66 tháng 11 và 12 năm 1959)
________________________________________
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:24 am

SỰ THAM THIỀN
CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC
(phần hai)

hoa đào

TÂM THỨC – KHOA PHÁP MÔN YOGA.
Diễn giả : Đại Đức Geoffrey HODSON
Thông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt

________________________________________
Kính thưa Bà Hội Trưởng,
Kính thưa chư quí vị thính giả,
Bây giờ tôi xin tiếp tục nói về vấn đề tham thiền nối theo đầu đề ngày hôm qua và tôi xin trình bày cho chư huynh đệ một đầu đề về Tâm thức mà bên Ấn Độ giáo người ta đã nói rõ trong khoa pháp môn Yoga. Nếu thời gian cho phép thì tôi xin lần lượt giải bày về bảy phái triết học ở bên Ấn Độ.
Các nhà triết học Ấn Độ nói rằng : “Sự hiểu biết của loài người đều căn cứ trên sự kinh nghiệm; nếu ta chỉ nhận thức được sự vật bên ngoài toàn bằng giác quan mà thôi, thì sự đó không đem đến cho ta sự hiểu biết chắc chắn nào”. Họ chủ trương rằng : phương pháp duy nhất để đạt được sự hiểu biết hoàn toàn là trừ ra khi nào mình hợp nhất được với điều gì mình muốn biết. Ta cũng có thể biết rõ một sự gì là khi nào ta có thể hợp nhất được với sự đó, bấy giờ thì ta mới có thể biết chắc chắn vật đó ra sao, chớ không phải là chúng ta chỉ biết được cái vỏ bên ngoài của nó mà thôi.
Khoa pháp môn Yoga là khoa dạy cho ta làm cách nào để hợp nhất được con người của ta với sự sống thiêng liêng duy nhất của vũ trụ. Chính khoa pháp môn giúp ta hỗn hợp được với đời sống thiêng liêng của Thượng Đế. Khi nào ta còn cách biệt với một sự vật mà ta muốn biết thì khi đó ta vẫn chưa có thể biết được vật đó. Và khoa pháp môn Yoga đó lấy sự lý luận ấy làm phương pháp tu học. Người ta gọi nó là Yoga, và những tu sĩ tu theo pháp môn đó có tên là Yogi. Khoa pháp môn Yoga chẳng khác nào cái khoa thể thao cho cái trí của mình.
Chiều hôm nay tôi xin cố gắng trình bày cái phương pháp làm thế nào để lần lần luyện cái trí. Trong khoa học đó, thì cái Chơn ngã của ta hoàn toàn tách ra khỏi tâm thức của xác thể để hợp nhất với chơn lý đại đồng. Nếu ta có thể tách ra khỏi xác thân của ta để hỗn hợp với tâm thức đại đồng thiêng liêng duy nhất trong vũ trụ (và khi ta trở về thì tâm thức của ta trở về với xác thân ta), thì ta đem theo một kho tàng rất là quí báu, một kho hiểu biết vô song do sự kinh nghiệm của ta. Và những nhà đạo sĩ bên Ấn Độ chủ trương rằng : khoa pháp môn Yoga tức là cái chìa khóa giúp ta mở được cửa huyền bí đó và họ nói rằng khoa pháp môn Yoga tức là một người giữ cửa để mở cửa cho ta vào kho tàng quí báu đó. Thế thì khoa pháp môn Yoga là người giữ cửa khoa hiểu biết. Như ta đã nghe tối hôm qua, thì khoa pháp môn Yoga là một khoa huyền bí để tìm thấy cái Chơn ngã của mình. Nó bao trùm tất cả mọi sự kinh nghiệm về đời sống tinh thần, dẫu ta có biết hay không có biết. Chữ Yoga đó do nơi chữ Phạn “Yuj” mà ra, nó có nghĩa là sự hợp nhất tinh thần trong thân của mỗi người với tinh thần chung của vũ trụ, tức là nó dạy ta phương pháp làm thế nào cho Chơn ngã của mỗi người hợp nhất với bản ngã của vũ trụ.
Có tất cả bảy môn phái triết học ở trong khoa triết học Ấn Độ. Chúng nó không thật khác nhau hết. Nhưng vì sự trình bày, sự hiểu biết chơn lý của chúng nó khác nhau tùy theo mỗi môn phái. Bây giờ tôi xin nói bảy môn phái triết học đó :
Phái thứ nhất là HATHA YOGA. Môn phái đó dạy ta hợp nhất với Thượng Đế bằng sự kiểm soát hơi thở, kiểm soát xác thân và kiểm soát sinh lực. Cái bộ óc vật chất của ta có thể phát triển được năng lực của nó là nhờ pháp môn Hatha Yoga.
Pháp môn thứ hai là MANTRA YOGA. Theo khoa pháp môn đó thì âm thanh và tiếng động được dùng một cách chặt chẽ để đạt được mọi quyền năng. Những tiếng ca hát, hoặc ngôn ngữ, phát ra những rung động âm thanh, đều là những phương pháp dùng để thực hành khoa pháp môn đó. Mantra là một âm thanh, một tiếng động mà khi người ta đọc lên một cách đúng phép, thì nó có thể phát lên một động lực huyền bí vô cùng. Theo sự hiểu biết của tôi thì pháp môn Mantra Yoga là một cái gì liên quan tới Manas tức là thuộc về cái trí.
Pháp môn thứ ba là LAYA YOGA. Chữ Laya có nghĩa là tan ra hay là chìm đắm vào một cái gì đó. Theo pháp môn Laya Yoga thì sự chủ trị ý chí là mục đích duy nhất. Thi hành theo pháp môn đó thì nhà đạo sĩ tìm cách để mà hợp mình với tâm thức chung của Thượng Đế. Khoa pháp môn đó theo ý tôi thì nó liên hệ tới Atma.
Khoa pháp môn kế đó là khoa KARMA YOGA. Theo khoa pháp môn ấy thì người đạo sĩ rán sức để hành động, rán sức để cải thiện mọi hành động của mình và để phụng sự đời. Khoa Karma Yoga đó liên quan tới cái thể trực giác Bồ Đề.
Khoa pháp môn thứ năm là BHAKTI YOGA. Bhakti có nghĩa là sự sùng kính. Khoa pháp môn Yoga đó giúp cho nhà đạo sĩ mở được đức tánh sùng đạo, sùng kính, sùng bái Thượng Đế. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn Yoga đó dùng sự sùng kính như là như là cái phương tiện để đạt được sự hòa hợp với Thượng Đế. Mọi tình cảm tốt đẹp thiêng liêng của người đạo sĩ đều được phát huy ra một cách mạnh mẽ để có thể giúp y đạt được mục đích. Theo ý tôi, thì khoa pháp môn Bhakti Yoga giúp cho nhà đạo sĩ mở được mọi tình cảm thiêng liêng tốt đẹp. Nó liên hệ đến cái vía của con người.
Pháp môn kế đó gọi là JNÂNA YOGA, tức là khoa Pháp môn mở trí hiểu biết. Theo khoa pháp môn môn đó thì nhà đạo sĩ tìm cách mở trí hiểu biết một cách sâu xa để nhờ đó mới có thể đạt đến Thượng đế. Theo tôi hiểu thì khoa Jnâna Yoga đó liên quan tới hạ trí và nó giúp cho con người mở trí sâu rộng.
Khoa pháp môn thức bảy gọi là RÂJA YOGA. Chữ Râja theo tiếng Phạn có nghĩa là ông vua thì Râja Yoga đó có nghĩa là khoa pháp môn chúa, cao cả hơn mọi Yoga. Khoa pháp môn Yoga đó là sự tổng kết, là sự kết hợp tất cả mọi khoa pháp môn khác. Phương pháp mà tôi trình bày cho chư huynh đệ hồi tối hôm qua thuộc về khoa pháp môn Râja Yoga. Khoa pháp môn đó dạy ta con đường hợp nhất một cách trực tiếp với sự sống đại đồng duy nhất trong vũ trụ và có thể giúp cho ta đạt được quyền năng thiêng liêng của Thượng Đế. Nhưng ta hãy nhớ rằng : tất cả mọi phương pháp, mọi pháp môn đều có một mục đích duy nhất mà thôi. Đó tức là sự hợp nhất với Thượng Đế và với tất cả muôn loài. Thay vì người ta đem tâm thức chú ý đến ngoại cảnh, ngoại vật, thì theo phương pháp môn đó, người ta tập trung ý chí, tập trung tư tưởng vào đời sống bên trong để có thể đạt được cái mục đích tối cao. Như thế thì chữ Yoga có nghĩa là hiệp nhất. Yoga chẳng khác nào như một cái cầu nối liền con người với Thượng Đế. Nó là cái cầu nối liền mọi vật tương quan lẫn với nhau.
Có tám giai đoạn ở trong sự thực hành Yoga mà ta cần phải thực hành trước hết, trước khi ta muốn thành công trên đường đạo lý. Nên nhớ rằng, tất cả mọi triết học, mọi pháp môn đều do các bậc Chơn sư, các bậc Đại Thánh từ nghìn xưa đã phát minh và truyền lại cho đời. Tám giai đoạn mà ta cần phải thực hành trong khoa Pháp môn Yoga là :
1) Thứ nhất là “Yama” có nghĩa là bất bạo hành và tinh luyện đời sống bên trong để có thể giúp cho ta tập luyện tinh thần. Bất bạo hành đối với mọi sinh vật, nghĩa là không làm đau khổ, không giết chóc bất cứ một sinh vật nào. Đó là điều kiện cốt yếu cho người học đạo. Bất bạo hành đó chữ Phạn gọi là “Ahimsa”, tức là không có gây sự đau khổ.
2) Giai đoạn thứ hai gọi là “Niyama”, có nghĩa là trong sạch, tự bằng lòng với số phận của mình. Trì giới, khổ hạnh, kiểm soát đời sống vật chất của mình. Kế đó là sự học vấn và sùng bái Thần thánh.
3) Giai đoạn thứ ba là “Asana”, tức là tập luyện phương pháp tĩnh tọa, nghĩa là ngồi thế nào cho nó đúng phép.
4) Giai đoạn thứ tư là “Prânâyâma”, tức là phương pháp tập kiểm soát hơi thở và do đó kiểm soát sinh lực.
5) Giai đoạn thứ năm là “Pratyâhâra”, tức là phản chiếu tư tưởng vào nội tâm.
6) Giai đoạn thứ sáu là “Dhârana”, tức là tập trung tư tưởng.
7) Giai đoạn thứ bảy là “Dhyâna”, tức là Tham thiền.
Cool Giai đoạn thứ tám là giai đoạn cuối cùng và khó khăn nhất, tiếng Phạn gọi là “Samâdhi”. Có nghĩa là tâm thức siêu đẳng.
Bây giớ chúng ta hãy xét qua mỗi môn phái Triết học đó. Bắt đầu là phương pháp Hatha. Pháp môn Hatha Yoga đó thường bị người ta lợi dụng, lạm dụng rất nhiều. Khoa thực hành đầu tiên của Pháp môn Hatha Yoga đó là kiểm soát hơi thở và kiểm soát sinh lực trong cơ thể con người. Xác thân là một khí cụ do đó người ta có thể dùng hoặc để thỏa mãn sự khoái lạc vật chất của mình, hoặc dùng nó làm phương tiện để đạt lấy mọi quyền năng của Thượng Đế. Khoa Hatha Yoga dạy rằng : sự cải thiện hoàn toàn xác thân của mình là làm sao cho nó được mỹ lệ được sự uyển chuyển, được sức mạnh và làm cho nó cứng rắn. Mọi quyền năng trong cơ thể đều được khích động lên cho đến khi xác thân của ta được trở nên hoàn toàn. Họ nói rằng : theo khoa pháp môn đó người ta có thể làm chủ được sự chết và nhờ xác thân tráng kiện đó, tư tưởng có thể hoạt động một cách mạnh mẽ phi thường, và sau cùng thì cái Trí của con người có thể hoàn toàn hợp nhất được với Thượng Đế. Người ta thường hay lợi dụng cái phương pháp Hatha Yoga như là khoa thể thao vậy. Điều đó đôi khi cũng có ích, nhưng ta không nên quên rằng : cái mục đích duy nhất, cuối cùng của khoa Pháp môn là hợp nhất với Thượng Đế. Hatha Yoga là phương pháp để kiểm soát, để làm cho hơi thở của ta được điều hòa. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn đó luyện hơi thở bằng cách hít ra hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt và lỗ mũi bên trái. Phương pháp đó gọi là thở theo Thái dương hay Thái âm, nghĩa là hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt tức là hô hấp theo Thái dương hoặc thở ra do nơi lỗ mũi bên trái, tức là hô hấp theo Thái âm. Một bên lỗ mũi thuộc dương, một bên thuộc âm. Phương pháp đó làm cho nhà đạo sĩ luyện được xác thân trở nên hoàn toàn để mà sẵn sàng bắt đầu những giai đoạn cao hơn. Pháp môn Hatha Yoga giúp người ta được thăng bằng về xác thể và có được sự kiểm soát xác thân để chuẩn bị nhà đạo sĩ bước qua pháp môn Raja Yoga. Đó là một vấn đề rất sâu rộng nhưng bây giờ tôi xin nói phớt qua để mà bắt qua Mantra Yoga.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:23 am

Nhiều người rất lấy làm thích thú về những cái mỹ lệ của trời đất. Họ ngồi ngoài sân, ngoài vườn để nhìn phong cảnh đẹp lúc tham thiền. Điều đó rất tốt, nhất là khi ta có thể được yên tĩnh một mình không bị ai quấy rầy. Cái đó có thể khó khăn với ta là những người sống nơi thành thị đông đúc, nhưng ta cũng cố gắng tìm những nơi vắng vẻ như ở vườn hoa công cộng hay là dưới gốc cây. Lần lần ta có thể cảm thông được những sự cảm giác của cái cây và thấy được sự rung cảm của nó như thế nào. Tinh thần của Thượng Đế cũng tiềm tàng trong mọi gốc cây, và nếu ta tìm tòi thì ta có thể cảm thông được cái sức phát triển quyền năng của Ngài xuyên qua cây đó. Và nếu ta thành công trong sự tìm tòi thì ta có thể hòa hợp được với tâm thức của cái cây đó và ta sẽ hiểu biết một cách rõ ràng : thế nào là một cái cây. Lẽ dĩ nhiên là đời sống trong cái cây còn rất thô sơ lắm, nhưng nó đang tìm cách vượt bực để phát triển cho đến đỗi ta cảm thấy cái sức sống ấy vượt đến tận nhánh chồi của nó. Rồi lần lần, ta sẽ ngồi nơi những gốc cây khác và ta sẽ tập làm thế nào để cho tâm thức của ta hòa hợp với tâm thức của cái cây, để hiểu nó. Nếu ta lần lần thực hành được tất cả mọi phương pháp ấy thì chúng ta cũng sẽ hòa hợp được với tâm thức của vũ trụ. Tâm thức vũ trụ là một tâm thức duy nhất; nó ngự trong tất cả muôn loài vạn vật. Và bấy giờ chúng ta sẽ nhận thấy có một quyền năng vô biên, có một ánh sáng vô cùng, có một sức sinh hoạt thiêng liêng ngự khắp chốn khắp nơi. Người ta sẽ thấy có một sự yên tĩnh vô biên, có một sự hạnh phúc an nhàn vui vẻ tràn ngập tâm hồn, nếu thành công được. Bấy giờ tâm thức về xác thân vật chất của ta càng ngày càng yếu dần, còn tâm thức vũ trụ tràn ngập trong tâm hồn ta và xâm chiếm hết tất cả mọi sự chú ý của ta. Rồi thì ta có thể sẽ như Đức Phật là hòa hợp tâm thức của ta với tâm thức của vũ trụ. Lúc đó, quả là ta đã nhập cảnh Niết Bàn rồi vậy. Dẫu sự này chưa xảy đến cho ngay bây giờ, dẫu rằng : nó xa xôi đến bực nào nhưng chung qui chắc chắn là một trong những kiếp tương lai của ta, ta sẽ đạt được. Nhưng hiện thời trong lúc này, ta cũng có thể có được cái cảm giác ấy, ta có thể có được cái hương vị của cảnh Niết Bàn, nếu ta biết cố gắng tập luyện hằng ngày. Và khi ta đã đạt được rồi, ta hãy chia sớt cho tất cả mọi người xung quanh.
Đó là một vài phương pháp tham thiền.
Bây giờ tôi xin trình bày cho quí vị một phương pháp khác trước khi tôi chấm dứt đầu đề hôm nay. Đây tức là một đầu đề rất khoa học, là cái tinh hoa của tất cả mọi phương pháp của Pháp môn Yoga. Trước hết tôi xin tóm tắt lại những nguyên tắc cần yếu này là :
1/ Phải tham thiền đều đều hằng ngày.
2/ Hãy tìm một chỗ riêng biệt không bị ai khuấy phá.
3/ Hãy ngồi cho đúng phép.
4/ Kế đó, hãy tự nhắc nhở lấy mình rằng : tôi không phải là xác thân vật chất này. Tôi là Chơn Ngã.
Sau một thời gian ngắn ta tập trung về những điều nhắc nhở đó, đoạn ta lại nhắc mình câu này là : Tôi không phải là Tình cảm, Tôi chính là cái Chơn Ngã vậy. Kế đó ta cũng tự nhắc nhở rằng : Tôi cũng không phải là Cái Trí, Tôi là Chơn Ngã bất diệt.
Đoạn ta sẽ tập trung tư tưởng đến một cái chơn lý vô cùng tuyệt đối đó : tức Ta không phải là cái xác thân hữu hình này mà ta chính là Chơn Ngã thiêng liêng, bất diệt. Ta sẽ tự nhắc nhở lấy mình như thế đó mãi, nghĩa là quên mình, thoát ly ra khỏi xác thân vật chất này, để tự biết mình là Một Chơn Ngã thiêng liêng vô cùng và bất diệt.
Để một vài phút suy gẫm và tập trung tư tưởng đến cái chơn lý này là : Chơn Ngã của anh, của bạn cũng như là Chơn Ngã của tôi đều là một, đều là vô cùng tuyệt đối và bất diệt. Rồi ta sẽ tự nhắc nhở rằng : cái Chơn Ngã của ta đó quả là sáng rỡ vô cùng; nó sáng rỡ với một ánh sáng thiêng liêng tuyệt đối. Ánh sáng đó là Chơn Ngã, tức là Ta vậy.
Mỗi ngày ta nên để 10 phút hay 15 phút yên lặng hầu tập trung tư tưởng và nhắc nhở lấy mình rằng mình vốn là Chơn Ngã chói sáng rực rỡ vô cùng. Sau một thời gian tham thiền độ chừng 10 phút hay 15 phút, thì chúng ta sẽ trở lại với cái tâm thức của xác thân rồi sẽ bắt đầu làm việc trở lại như thường. Trước hết ta đem tất cả mọi sự chú ý của mình vào cái trí rồi đến tình cảm. Kế đem tâm thức trở về với xác thân một lần nữa. Lúc đó thì tưởng tượng cũng như xác thân của mình hoàn toàn được một sức mạnh vô biên, tràn ngập khắp cả. Mặc dầu trong khi đó cái xác thân của ta không ngủ, nhưng ta không để ý đến nó nhiều cho lắm. Bây giờ ta trở lại với đời sống hằng ngày với tất cả tâm thức, với tất cả mọi sự chú ý của ta. Hãy để một vài phút nghỉ ngơi yên tịnh cho xác thân quen trở lại với tâm thức của nó, trước khi ta bắt đầu với công việc hằng ngày. Nếu ta có thể ngồi yên được một phút vào lúc giữa trưa 12 giờ, thì ta hãy im lặng và hãy nghĩ tới cái chơn lý vô cùng là : Tôi là Chơn Ngã thiêng liêng bất diệt.
Trước khi đi ngủ, mỗi bữa chiều, ta cũng nên ngồi im lặng như vậy trong một lúc để mà suy tưởng và tìm lấy cái Chơn Ngã của mình, mặc dầu trong khi xác thịt ngủ, cái trí của ta vẫn linh động và vẫn giúp ta tiếp tục khám phá cái Chơn Ngã của ta để tìm lấy sự giác ngộ. Ta hãy tự nhắc nhở lấy mình rằng : đến sáng mai khi ta tỉnh dậy, thì việc đầu tiên của ta là hãy ngồi im lặng vài phút để tham thiền. Đó là một phương pháp để cho ta có thể bắt đầu ngay bây giờ cái đời sống tinh thần của ta, dầu ta hãy còn bận rộn những công việc lo lắng ngoài đời. Ta hãy nhớ rằng : dầu ta bắt đầu tham thiền ta cũng cần phải làm cho tròn bổn phận hằng ngày của ta, làm tròn những bổn phận của ta đối với xã hội, đối với người đời. Công việc tham thiền đó ta hãy làm trong vòng hợp lý với một sự nghĩ ngợi, tính toán đúng đắn. Ta cần phải làm việc cho đúng cách thông minh cũng như ta làm một việc gì khác trong đời để được thành công vậy. Và cuối cùng ta có thể tiếp tục công việc tìm tòi chơn lý mặc dầu trong khi xác thân ta ngủ. Ta có thể làm việc đó hay không ? Chúng ta có thể lắm bởi vì Thông Thiên Học dạy rằng : chỉ có xác thân vật chất của ta ngủ mà thôi.
Cái Chơn ngã của mỗi người, tức là phần thiêng liêng tinh hoa của mọi người không bao giờ ngủ. Tâm thức bên trong của ta không cần đến sự nghỉ ngơi, tất nhiên nó không ngủ bao giờ. Trong khi xác thân ta ngủ, thì phần tinh hoa, phần thiêng liêng đó vẫn thức luôn luôn. Nếu ta là người siêng năng, chăm học, thì trong khi ngủ cái trí của ta vẫn tiếp tục học mãi. Còn nếu ta là những người phụng sự giúp đời thì trong khi ta ngủ, linh hồn ta đi cõi khác để tìm phương tiện giúp đỡ người một cách vô hình. Và phương pháp hay nhất để trở nên một đấng giúp đỡ vô hình (aide invisible) là hãy bắt đầu giúp đỡ nhơn loại trong khi ta vẫn còn là kẻ hữu hình, tức là làm công việc này bây giờ và trong lúc này, khi ta thức.
Những người Thông Thiên Học biết rõ cái điều đó, cho nên mặc dầu sau khi họ chết, họ vẫn tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tiếp tục phụng sự ở cõi giới bên kia cửa tử.
Thưa quí vị đây là một bài học đầu tiên của chúng ta về sự tham thiền, tức là phương pháp để đạt được cái tâm thức tinh hoa của vũ trụ.
Soạn giả
Nguyễn thị Hai
(Trích trong Tìm hiểu Thông Thiên Học số 63 và 64 tháng 6 và 7 năm 1959)
________________________________________
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: SỰ THAM THIỀN CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC    NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:22 am

SỰ THAM THIỀN CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC
(phần một)

Chỉ dẫn thực hành trong những điều kiện chánh yếu
Những phương pháp đưa đến trực giác..
Diễn giả : Đại Đức Geoffrey
HODSONThông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt
₪₪₪₪
Thưa Bà Chánh Hội Trưởng Xứ bộ Thông Thiên Học Việt Nam.
Thưa chư quí thính giả.
Trong những cuộc hội họp dành riêng cho hội viên Thông Thiên Học, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi về giáo lý Thông Thiên Học.
Nay trong buổi họp đầu tiên này chúng ta sẽ học về sự Tham thiền.
Trải qua các thời đại từ xưa đến nay, tất cả những người học Đạo đều tìm cách để đạt được sự giác ngộ. Từ nghìn xưa ấy có người đã được thành công rồi. Nếu ta đi ngược dòng lịch sử, trở về nước cổ Hi lạp hồi đời xưa, thì ta tìm thấy có những nhà đạo sĩ nước Hi lạp cũng đã trải qua con đường Tham thiền để đi đến sự giác ngộ đó rồi.
Đây là một câu chuyện nói về nước Hi lạp thời cổ : hồi đời ấy, Hi lạp có một nhà triết học tên là THALÈS. Ông ấy sống một nơi trong thành phố Hi lạp cách đây vào khoảng 6oo năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Một ngày nọ có người hỏi ông 9 câu hỏi, ông đã trả lời tất cả. Những câu hỏi đó cùng với những câu trả lời của ông đều được giữ gìn cho đến ngày nay. Đó thật là một diễm phúc cho chúng ta.
Câu thứ nhất mà người ta hỏi nhà triết học Thalès đó như vầy :
Hỏi : Cái gì cũ nhất trên đời ?
Nhà triết học trả lời : Thượng Đế là cũ nhất trên đời : vì Ngài đã có tự bao giờ.
Hỏi : Cái gì đẹp nhất trên đời ?
Đáp : Vũ trụ thì đẹp nhất trên đời, bởi vì đó là công trình của Thượng Đế.
Hỏi : Cái gì lớn nhất trên đời ?
Đáp : Không gian là lớn nhất trên đời, bởi vì không gian chứa đựng tất cả mọi vật.
Hỏi : Cái gì là vững chắc nhất của hết thảy mọi vật ?
Đáp : Cái vững chắc nhất và vẫn tồn tại nhất là Hi vọng : bởi vì hi vọng vẫn tồn tại mãi mãi dầu cho đến sau khi người ta chết.
Hỏi : Cái gì tốt hơn hết tất cả mọi vật ?
Đáp : Sự Tự do là tốt hơn hết tất cả mọi vật, vì nếu không có nó thì không có gì tốt đẹp hơn.
Hỏi : Cái gì mau nhất hơn tất cả mọi vật ?
Đáp : Đó là tư tưởng : vì trong một khoảnh khắc đồng hồ, tư tưởng có thể vượt không gian để đi đến tận cùng trong vũ trụ.
Hỏi : Cái gì mạnh nhất hơn tất cả mọi vật ?
Đáp : Sự cần dùng : bởi vì sự cần dùng làm cho người ta có đủ can đảm để đối phó với tất cả sự khó khăn ở đời.
Hỏi : Cái gì dễ nhất trên đời ?
(Tôi muốn biết trong chư huynh đệ có ai trả lời dùm cho tôi câu hỏi đó ?)
Đây là câu trả lời của nhà triết học Thalès khi người ta hòi ông cái gì dễ nhất trên đời :
Ông trả lời như thế này : Cái dễ nhất trên đời là đem cho người khác những lời khuyên bảo.
Hỏi : Cái gì là khó nhất trên đời ?
Đáp : Tự biết mình là cái khó nhất trên đời.
Biết cái Bản ngã của mình, biết cái Chơn ngã trường tồn, vĩnh viễn của mình và sự hợp nhất cái bản ngã của mình với tất cả mọi loài, mọi vật, là mục đích của sự Tham thiền vậy.
Vấn đề quan trọng nhất trong đời của mỗi người là làm sao đạt được cái quyền năng, cái hạnh phúc, sự an tĩnh trong tâm hồn. Làm sao để nhận thức được cái bản chất thiêng liêng của mình. Làm sao để tìm thấy được Thượng Đế ngự trong tâm mình và luôn luôn sống với nhận thức đó. Làm sao để phụng sự Thượng Đế trong đức tánh thiêng liêng của Ngài.
Vậy Thông Thiên Học có thể dạy ta những gì để giúp ta tìm được Chơn ngã trường tồn vĩnh viễn trong người của ta.
Người ta có thể tìm thấy hạnh phúc, an tĩnh trong tâm hồn bằng cách Thiền định. Có thể có nhiều phương pháp khác nữa; nhưng phương pháp chắc chắn nhất là : tìm thấy Thượng Đế ngự trong lòng ta bằng cách tham thiền mà thôi. Ta tham thiền để tìm thấy sự hiện diện của Thượng đế ngự trong lòng ta, và để tìm thấy sự hạnh phúc và an tĩnh trong tâm hồn, vậy ta phải làm thế nào để bắt đầu một cuộc tham thiền đó ?
Trước hết có ba điều mà ta cần phải thay đổi trong đời ta (nếu cần).
Trước tiên, điều cần phải thay đổi là làm sao thay đổi cái động lực cốt yếu của đời ta : ta đổi sự ích kỷ tham lam ra sự vô kỷ, vô ngã.
Phương pháp thứ nhì là làm thế nào thay đổi cuộc đời ta; từ sự tham lam, vô độ để đổi thành sự vô tư và tiết độ.
Phương pháp thứ ba là mỗi ngày phải tập tham thiền cho đúng giờ, đúng khắc và mọi ngày đều đều như vậy.
Có lẽ trong hàng chư quí vị cũng có người đã thực hành cái phương pháp đó rồi; nhưng phần đông chúng ta mỗi người đều làm theo cách riêng của mình. Bây giờ tôi xin trình bày cùng quí vị một phương pháp chắc chắn nhất để đạt tới mục đích của cuộc tham thiền được kết quả. Trước tiên ta cần phải tham thiền đều đều mỗi ngày không bỏ qua ngày nào hết. Nếu ta chỉ cố gắng vài ngày trong một tuần, thì đó cũng là một điều tốt; nhưng nó không đưa tới kết quả được. Ta cần phải tiếp tục tham thiền mỗi ngày thì luôn luôn có kết quả, dù ta thấy cùng không. Thí dụ như : nhờ sự tham thiền mà ta sẽ thấy tư tưởng của ta càng ngày càng thêm rõ ràng hơn, càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn; và sự tập trung tư tưởng của ta càng ngày càng có hiệu quả hơn. Lại nữa, sự hiểu biết của ta về người và vật xung quanh ta đều được rõ ràng hơn và xác thực hơn. Nhờ tham thiền đều đều hằng ngày mà ta có thể hiểu Đạo một cách dễ dàng hơn, và khi nghe diễn giảng về đạo lý, trí ta được sáng suốt hơn. Ta có thể nhận thấy những hiện tượng diễn ra trước mắt ta, dầu khi đó ta đang thức, giữa ban ngày. Lại nữa sức khỏe, nguồn sinh lực của ta cũng có thể tăng hơn bội phần. Lần lần ta nhận thức được những quyền năng vô biên của Thượng đế ở trong lòng ta càng ngày càng rõ rệt hơn. Đó tức là vài kết quả tốt của sự tham thiền có thể đem đến cho ta.
Nên khi ta đã bắt đầu, thì hãy kiên nhẫn để tiếp tục luôn luôn mãi mãi dẫu rằng : đôi khi ta chỉ có tập được 10 phút hay 5 phút mà thôi. Mỗi ngày ta cần phải để một thời gian lối 15 phút dành riêng cho sự tham thiền mỗi buổi sáng. Buổi sớm mai là giờ rất tốt cho sự tham thiền, bởi vì ban mai sau khi thức dậy, tâm trí ta còn bình tĩnh vững vàng; thần trí ta được yên ổn, rất có lợi cho sự tham thiền. Hơn nữa lúc đó những điều kiện về không gian xung quanh ta cũng có một ảnh hưởng rất tốt.
Sự cần thiết khác nữa là ta phải ở trong một căn phòng riêng biệt đừng ai quấy rầy. Điều này rất quan trọng bởi vì ta cần phải được yên tĩnh và thanh tịnh. Lúc ta đang tham thiền mà có những người xung quanh ta quấy rầy thì là một sự rất nguy hiểm cho ta. Khi ta tham thiền về một đầu đề gì cao siêu thì tư tưởng của ta trở nên hoàn toàn trừu tượng đối với thể xác của ta. Nếu trong khi đó có một người nào bên ngoài chạy vào quấy rầy thì ta có thể bị một cơn khủng hoảng về thần kinh có thể rất hại cho sức khỏe.
Để tham thiền cho có kết quả, thì chúng ta cần phải lựa một giờ yên tịnh nào đó trong ngày mà nó cho ta được yên ổn. Không vậy thì ít nhất ta cũng phải làm thế nào cho những người sống chung quanh ta biết, để cho ta yên ổn. Tóm lại có ba điều cần thiết là :
1) Sự tham thiền mỗi buổi sáng.
2) Sự riêng biệt đừng bị khuấy phá.
3) Cách ngồi cho đúng phép.
Có nhiều sách dạy về đạo đã diễn giảng những phép tĩnh tọa thế nào cho đúng để tham thiền. Nhưng nếu nói vắn tắt, thì rốt cuộc chỉ có hai hoặc ba cách ngồi đúng phép để tham thiền mà thôi.
Nguyên tắc thứ nhất là ngồi thế nào cho thân thể được nghỉ ngơi hoàn toàn, nghĩa là không bị trì kéo hay đau đớn chỗ nào cả. Những bắp thịt của ta cũng phải được thong thả không bị bó buộc. Cặp chơn mày của ta cũng phải được nghỉ ngơi, không nên nhăn nhíu lại. Sự thong thả nghỉ ngơi bắp thịt là điều kiện cần thiết của sự tham thiền.
Nguyên tắc kế đó là xương sống của ta phải được ngay thẳng. Nếu nó ngay chừng nào càng tốt chừng nấy. Có nhiều người nằm ngửa xuống để tham thiền. Đó cũng là điều tốt bởi vì khi người ta nằm thì có thể nghỉ ngơi để cho các bắp thịt được thong thả, nhưng có một điều bất tiện là nếu nằm xuống để tham thiền thì người ta cũng có thể ngủ quên đi. Nguyên tắc cốt yếu trong sự tham thiền là làm sao cho bộ óc của ta hoàn toàn thức tỉnh để cho nó có thể tiếp được những kết quả tốt đẹp của tham thiền. Như thế thì phương pháp hay nhất là ngồi cho ngay thẳng. Ở phương Đông mà phương pháp thông thường nhất là ngồi xếp bằng ở dưới đất. Cách đó người ta gọi là ngồi theo cách bông sen hay là “ liên hoa tọa bộ” (tức là ngồi kiết dà). Có nhiều bức tượng Đức Phật Thích ca được người ta tạc trong khi Ngài ngồi theo phép đó. Nếu ta nhận thấy rằng ngồi xếp bằng như thế thật khó khăn vô cùng, nhất là những người phương Tây như chúng tôi, thì ta có thể ngồi một cách khác là ngồi trên một cái ghế bành (fauteuil), hay ghế dựa. Khi ngồi trên ghế đó, thì hai chân không được tréo lại, hai bàn tay cũng vậy, không được đụng nhau và không được tréo nhau. Hai bàn tay phải để cho ngay ngắn trên hai đầu gối. Đó là những điều ta cần phải làm cho đúng trong khi ta bắt đầu tập tham thiền.
Kế đó thì đến vấn đề thở. Trong những sách dạy về Yoga có nhiều phương pháp luyện hơi thở để đạt tới sự giác ngộ. Phương pháp Yoga luyện hơi thở đó người Ấn độ gọi là Prânayama, có nghĩa là kiểm soát cái “Prâna” tức là cái sinh lực của vũ trụ. Những sự luyện tập này có nhiều nguy hiểm, bởi thế cho nên ta tránh không nên tập luyện hơi thở trong khi ta còn trẻ. Lúc lớn lên, ta bắt đầu luyện cũng không muộn gì, nhất là khi ta luyện tập thở dưới sự chỉ đạo của một vị Chơn sư. Nếu trong khi ta chưa gặp được Thầy dạy về phương pháp luyện hơi thở đó, thì điều cần thiết là ta chỉ nên thở chậm rãi và thong thả. Tôi có bổn phận phải nhắc nhở chư quí vị chớ nên tập luyện hơi thở bao giờ, nhất là luyện tập hơi thở với sự tập trung tư tưởng vào bất cứ nơi nào trong cơ thể. Nhất là tập trung tư tưởng ở tại đơn điền (plexus solaire), nơi tim và nơi bộ phận khác dưới xương mông. Có những cái trung tâm cốt yếu của bộ thần kinh ngự tại hai nơi đó. Nhiều người dạy học trò luyện hơi thở và tập trung tư tưởng nơi hai chỗ đó; nhưng tôi đặc biệt ngăn ngừa quí bạn chớ nên tập luyện hơi thở và chú ý đến hai chỗ ấy. Tập trung tư tưởng tại plexus solaire và tại xương mông có thể làm cho ta bị loạn óc, bị những cơn khủng hoảng về tinh thần, về đủ cả mọi phương diện. Mặc dầu ta không nhận thức được những sức mạnh huyền bí đang ngự tại hai trung tâm đó. Nhưng sự thật là chúng nó có những sức mạnh vô cùng nguy hiểm. Nếu ta cứ để y nguyên như thế, một cách tự nhiên, không đá động đến chúng nó, thì không có sự gì xảy đến cả. Nhưng nếu ta tập trung tư tưởng vào hai nơi đó và nhất là kèm theo hơi thở nữa, thì chắc chắn có điều nguy hiểm xảy ra. Vậy tôi xin nhắc lại là : tôi cẩn thận khuyên lơn chư quí vị là đừng nên bao giờ tập luyện hơi thở và tập trung tư tưởng vào hai trung tâm đó. Với những điều khuyên lơn thường thức đầu tiên của tôi vừa đưa ra xong, thì bây giờ tôi xin bắt đầu vào đề cuộc tham thiền.
Điều cần thiết là chúng ta phải làm sao có thể tập trung vào bất cứ đầu đề cao thượng nào. Chúng ta có thể tập trung tư tưởng vào một trong những chơn lý căn bản. Đại khái như là sự hiện diện của Thượng đế ở khắp nơi. Sự có mặt của Thượng đế tiềm tàng khắp vũ trụ dẫu trong không gian hay ngoài thời gian, hay ở xung quanh chúng ta, hay ngự trong cả vạn vật. Nhưng quí vị có thể đặt câu hỏi rằng : Làm sao tôi biết được có Thượng đế ở khắp nơi như thế ? Đó là lý do vì sao ta phải tham thiền để nhận thức được sự hiện diện của Thượng đế ở khắp nơi trong vũ trụ.
Có một câu chuyện người ta nói về một đứa bé ở bên nước Anh là nơi mà tôi sinh trưởng. Đứa trẻ đó trong lúc nó đang thả diều một cách say mê; và nó vẫn tiếp tục chơi nữa, mặc dầu khi con diều đã hạ xuống đất. Trong lúc nó thả diều ở trên không, thì có một đám mây hạ xuống rất thấp đến đỗi con diều của nó bị khuất dạng trong đám mây đó. Bởi đứa trẻ chơi một cách say mê, nên vẫn tiếp tục nắm dây con diều của nó. Trong khi ấy, có một người lạ mặt đến hỏi nó rằng : Em chơi cái gì lạ vậy ? Đứa bé trả lời : Tôi đang thả con diều của tôi. Nhưng người kia lại nói : Nhưng mà em không thấy được con diều của em. Đứa bé trả lời rằng : Mặc dầu tôi không thấy con diều của tôi nhưng bàn tay của tôi có thể cảm thấy nó đang bay.
Vậy ta đây cũng thế, mặc dầu ta không thấy được con diều của ta, nhưng ta có thể cảm giác được một cái sức mạnh huyền bí đang chuyển động trong không gian. Chính cái Động lực đó dắt ta vào Hội Thông Thiên Học để đi đến những chơn trời mới hầu nhận thấy được cái sức mạnh thiêng liêng trong người của ta. Nếu ta nhận thấy rằng : đầu đề tham thiền đó là khó khăn và quá trừu tượng cho ta, thì ta có thể đổi đầu đề khác. Thí dụ như chúng ta hãy tham thiền về bất cứ điều gì xảy ra trong đời Đức Phật; ta hãy chọn sự tích nào của Phật tổ có tánh cách tốt đẹp. Tỷ như ngày sanh Đức Phật. Trước mặt vua cha và hoàng hậu, mẹ của Đức Phật, thì các nhà tiên tri đoán rằng : đứa trẻ này về sau sẽ trở nên nhà thông thái, một bực đạo đức cao thâm. Ta có thể tưởng tượng một bức họa như thế đó, lần lần ta sẽ thấy tất cả nhân vật trong bức họa rõ ràng nơi tâm trí của ta. Khi đó ta tỏ lòng biết ơn của ta đối với Ngài là bực cứu thế. Rồi ta quả quyết làm đúng theo lời răn dạy của Ngài, tức là lời răn dạy của bực giáo chủ đã xuống trần, để dạy nhân loại biết con đường đi đến Niết Bàn. Như thế, ta có thể tạm thời thoát ly ra khỏi đời sống của xác thể tầm thường vật chất này, mà để tư tưởng thanh thoát lên cõi cao thượng, lên cõi giới của Đức Phật. Hoặc giả ta có thể tưởng tượng đến lúc Đức Phật tầm đạo dưới gốc cây Bồ Đề. Ta hình dung Ngài đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc Bồ Đề, và tâm trí của Ngài đang tiêu diêu nơi cõi huyền không để tìm thấy Chơn lý vô cùng, Tâm địa của Ngài kiên cố và bất rung chuyển trước sự cám dỗ của Ma vương. Chúng ta hãy hình dung tâm trí của Ngài lúc đó hợp nhất với bản thể nguyên chất duy nhất của vũ trụ. Ngài hợp nhất với tất cả mọi loài, mọi vật ở trong trời đất. Trong khi ấy, ta hình dung Ngài đã đạt được sự giác ngộ siêu đẳng, siêu phàm và lần lần ta có thể chia sớt được những cảm giác, những ảnh hưởng tốt đẹp của Ngài lúc bấy giờ. Chúng ta có thể tưởng tượng đến những việc đã xảy ra trong đời của Đức Phật hoặc những vị giáo chủ khác đã từng xuống trần dạy dỗ chúng sanh. Nếu ta không thể tập trung tư tưởng đến một vấn đề quá trừu tượng như sự hiện diện của Thượng Đế ở khắp nơi trong vũ trụ, thì ta hãy tập trung tư tưởng đến vấn đề cụ thể, có hình thể, có sắc tướng.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: TÌM CHƠN NGà  NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:20 am

TÌM CHƠN NGÃ
Tác giả: BẠCH LIÊN


trúc nước

________________________________________

Nơi đây tôi chép lại cho quí bạn xem bài của tôi viết và nói vắn tắt về việc tìm Chơn Ngã, rồi thực hiện Chơn Ngã, bởi vì trong nhiều quyển kinh sách đạo đức có nói về việc Tìm Bản Ngã, chẳng hạn như trong kinh Phật Mahavagga 1 – 14 (Tàu dịch là Phạm Võng Kinh 1 – 14) có thuật lời của Ðức Phật hỏi các Nhạc sư như sau đây:
“ Hỡi các bạn thanh niên: Hãy nói cho Ta biết tìm một người đàn bà bỏ đi mất hay tìm Bản Ngã của các bạn điều nào quan trọng hơn? ”
Tuy nhiên không quyển nào chỉ phương pháp tìm Bản Ngã, bởi vì điều này thuộc về khoa bí truyền, thuở xưa chưa được phép tiết lộ.
Trong quyển “Phật độ các Nhạc sư hay là Ta phải tự kiếm Ta” tôi có đề cập đến phương pháp này do Thông Thiên Học chỉ dạy. Quí bạn muốn hiểu nhiều xin đọc quyển đó, còn trong bài này tôi chỉ giải sơ lược để quí bạn có một quan niệm đúng đắn về việc “tại sao phải tìm Chơn Ngã” mà thôi.
TÌM CHƠN NGÃ.
Người học đạo là người đi tìm Chơn Ngã. Muốn tìm Chơn Ngã, trước nhất phải biết Chơn Ngã là gì ? Chơn Ngã ở đâu ? Nhiên hậu mới tìm phương pháp thực hiện việc đó.
CHƠN NGÃ LÀ GÌ ?
Con người có ba Ngôi như cha mình là Ðức Thượng Ðế.
Ngôi thứ Nhất là Chơn Thần (Monade)
Ngôi thứ Nhì là Chơn Nhơn (Égo – Soi Supérieur)
Ngôi thứ Ba là Phàm Nhơn (Personnalité)
Chính là Chơn Thần sanh ra Chơn Nhơn, cũng gọi là Chơn Ngã hay Bản Ngã cao siêu.
Chơn Nhơn sanh ra Phàm Nhơn.
Thường thường Phàm Nhơn ở tại trái tim của xác thân và giống hình ngôi sao chiếu sáng rỡ.
Chơn Ngã hay là Chơn Nhơn ở tại cõi Thượng Thiên, còn Chơn Thần ở tại cõi Niết Bàn.
TẠI SAO PHẢI TÌM CHƠN NGÃ ?
Con người ta là Phàm Nhơn có bốn thể thường dùng là:
1. Xác thân để hoạt động.
2. Cái Phách để thu hút sanh lực Prana vô mình đặng nuôi các tế bào.
3. Cái Vía để biểu hiện tình cảm và ý muốn.
4. Cái Trí (Hạ Trí) để sanh ra những tư tưởng hữu hình, học hỏi, phân biện, xét đoán, tưởng tượng, ghi nhớ.
Ba thể Thân – Vía – Trí có những tánh nết riêng biệt, hầu hết đều xấu xa.
Cái Vía thường cấu kết với cái Trí xúi giục con người làm những điều chúng nó muốn. Con người ngỡ là mình muốn nên đem ra thực hành. Con người thường làm trái với Luật Trời, gây ra muôn vàn tội lỗi, cho nên phải đầu thai đi đầu thai lại muôn kiếp đặng thanh toán những mối nợ nần. Tuy nhiên, mỗi lầm lạc là một bài học để dạy con người trở nên khôn ngoan. Nhưng mà phải học cho thiệt thuộc, sau khỏi học lại, không thì con người cứ phạm vào một lỗi lầm cũ cả trăm cả ngàn lần.
Thế nên con người phải tìm Chơn Ngã hay là Chơn Nhơn, bởi Chơn Nhơn không lầm lạc. Một khi Chơn Nhơn có kinh nghiệm thì Ngài sẽ dìu dắt Phàm Nhơn. Phàm Nhơn biết vâng lời Chơn Nhơn và sẽ tiến mau lắm.
Vì mấy lẽ trên đây mà chúng ta phải luyện tập đặng tìm Chơn Ngã. Gặp Chơn Ngã rồi mới lo đến việc thực hiện Chơn Ngã. Bắt đầu học Đạo mà nói: “Ðương thực hiện Chơn Ngã” thì e còn sớm lắm. Họa may là 25 – 30 kiếp nữa mới có thể thốt ra lời này được.
THỰC HIỆN CHƠN NGÃ
Có ba giai đoạn:
1: Giai đoạn thứ nhất: Tìm Chơn Ngã.
2. Giai đoạn thứ nhì: Gặp Chơn Ngã.
3. Giai đoạn thứ ba: Thực hiện Chơn Ngã.
1. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: TÌM CHƠN NGÃ.
Muốn tìm Chơn Ngã thì phải giữ gìn kỷ luật Bản Thân cho đúng phép.
Kỷ luật này gồm việc điều khiển tư tưởng, ý muốn, tình cảm, lời nói và việc làm đúng với Thiên Ý, nói theo Huyền bí học là:
- Làm chủ Xác thân.
- Làm chủ cái Vía.
- Làm chủ cái Trí.
Giáo lý của chư Phật tóm tắt trong ba câu:
1/ Lánh dữ.
2/ Làm lành.
3/ Rửa lòng trong sạch.
Lánh dữ và rửa lòng trong sạch là trau dồi hạnh kiểm, còn làm lành là phụng sự vô tư lợi.
Quí bạn nên đọc những quyển sách sau đây:
1/ Trước thềm Thánh Điện.
2/ Con đường của người Đệ Tử.
3/ Dưới Chơn Thầy và Giảng lý.
4/ Tiếng Nói Vô Thinh và Giảng lý.
5/ Ánh Sáng Trên Đường Đạo và Giảng lý.
6/ Người Phụng Sự.
Chúng sẽ giúp quí bạn tìm dễ dàng Chơn Ngã, nếu quí bạn cố gắng đem những lời dạy trong đó ra thực hành, không phải vài ba năm mà trọn cả kiếp này và nhiều kiếp sau. Ðây không phải là chuyện dễ dàng vì ba thể: Thân – Vía – Trí rất ương ngạnh. Cả ngàn kiếp rồi, chúng sai khiến con người, bây giờ bắt buộc chúng vâng lời thì sẽ gặp không biết bao nhiêu chướng ngại. Nếu không bền chí, không cương quyết thì khó vượt qua bức rào của chúng dựng lên. Vì vậy tôi mới nói : Phải nhiều kiếp. Nếu kiếp này thành công là nhờ mấy chục kiếp trước đã luyện tập rồi.
2. GIAI ÐOẠN THỨ NHÌ: GẶP CHƠN NGÃ
Khi sanh viên sống đúng như lời dạy trong quyển Dưới Chơn Thầy tới một mức độ do Luật Trời qui định sẵn thì anh được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhất.
Phàm Nhơn của anh nhập một với Chơn Nhơn, sanh viên đã gặp Chơn Ngã. Nhưng trước giai đoạn đó, anh phải được một vị Chơn Sư thâu nhận anh làm Ðệ Tử và dạy dỗ phương pháp khai mở Tâm Thức. Khi Ngài thấy anh được xứng đáng Nhập Lưu tức là vào dòng tiến hóa của các vị Siêu Phàm thì Ngài dẫn anh đến trình diện với Quần Tiên Hội xin Ðiểm Ðạo lần thứ Nhất cho anh.
Từ đó về sau, anh có thể tiến hóa chậm, anh vẫn còn lầm lạc, song anh đã ra khỏi vòng trần tục, anh không còn là một người phàm phu nữa. Phật giáo gọi anh là Srotapanna. Tàu dịch là Tu Ðà Huờn. Ấn giáo gọi là Parivrajaka có nghĩa là Vô Trú.
3. GIAI ÐOẠN THỨ BA: THỰC HIỆN CHƠN NGÃ
Vị Tu Ðà Huờn bắt đầu thực hiện Chơn Ngã là lo luyện tập đặng chặt đứt mười chướng ngại gọi là Samyojana buộc trói con người vào Bánh Xe Luân Hồi.
Anh còn phải trải qua bốn thời kỳ Ðiểm Ðạo nữa.
1) Ðược Ðiểm Ðạo lần thứ Nhì, anh làm một vị Tư Ðà Hàm (Sakridagamin hay là Sakadagamin).
Ấn giáo gọi anh là Koutichaka, người đã dựng được một túp lều.
2) Ðược Ðiểm Ðạo lần thứ Ba, anh là một vị A Na Hàm (Anagamin). Ấn giáo gọi anh là Hamsa nghĩa là con hạc. Tục truyền rằng: Ðứng trước một cái chậu sữa có pha nước, nó biết cái nào là sữa, cái nào là nước.
3) Ðược Ðiểm Ðạo lần thứ Tư, anh thành một vị La Hán, Arhat, có nghĩa là Tôn Giả, Đại Đức.
Ấn giáo gọi anh là Đại Thiên Hạc Parahamsa.
Phật giáo gọi bốn bực Đệ Tử này: Tu Ðà Huờn – Tư Ðà Hàm – A Na Hàm và La Hán là Tứ Thánh. Lời này rất đúng bởi vì dầu mới được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhất đi nữa, vị Tu Ðà Huờn cũng được vào Quần Tiên Hội. Anh đã bước vào đường tiến hóa của các hạng Siêu Phàm, rồi từ đó anh lần lần lên những cấp bậc cao hơn.
Vị La Hán được năm lần Ðiểm Ðạo thì thành một vị Siêu Phàm, một vị Chơn Tiên, hoàn toàn sáng suốt, không còn cái chi để học hỏi trên quả địa cầu này nữa. Chơn Nhơn nhập một với Chơn Thần.
Phật giáo gọi Ngài là Aseka, nghĩa là không còn làm Ðệ Tử nữa, Tàu dịch là Vô Học.
Ấn giáo gọi Ngài là Atita hay là Jivanmoukta, nghĩa là đã được hoàn toàn giải thoát, khỏi đọa Luân Hồi dưới trần thế.
Vị Chơn Tiên đã thực hiện hoàn toàn Chơn Ngã. Tới bực Ngài mới thấy Chơn Thần và có quyền thâu nhận Đệ Tử đặng giáo dục.
Vị La Hán hay A Na Hàm chỉ thấy được Chơn Nhơn mà thôi. Vị La Hán cũng chưa được phép làm Sư Phụ.
Các hàng Phật Tử đều biết câu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nghĩa là chỉ có Phật mới được phép làm thầy mà thôi, bởi vì Ngài là giáo chủ các vị Tiên Thánh, các vị Thiên Thần. Còn các vị Ðệ Tử đều tới bực La Hán như Ma Ha Ca Diếp – A Nan Ða cũng vẫn là Sư Huynh của các tín đồ Phật giáo, bởi lẽ các Ngài chưa được hoàn toàn giải thoát, chưa phá tan được bức màn Vô Minh che lấp Chơn Như bổn tánh.
PHẢI TU MẤY KIẾP VỊ TU ÐÀ HUỜN
MỚI LÊN TỚI BỰC CHƠN TIÊN ?
Lấy bực trung mà nói, vị Tu Ðà Huờn phải tu hành trong bảy kiếp mới lên tới bực La Hán, còn vị La Hán phải luyện tập bảy kiếp mới thành một vị Siêu Phàm, tất cả là 14 kiếp. Nhưng đây là nói bực trung. Thời gian này có thể thu ngắn lại tùy theo công phu của hành giả.
Còn khi mới bắt đầu học Đạo cho đến ngày được Chơn Sư thâu nhận làm Ðệ Tử và được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhất thì phải trải qua một thời gian khá lâu. Từ 25 đến 30 kiếp là nếu một vị Cư sĩ, kiếp nào cũng lập gia đình; còn kiếp nào cũng độc thân làm một vị Tu Trì, có lẽ trong 6 -7 kiếp tu hành sẽ được toại nguyện.
Xin nhớ rằng mục đích đã định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này là làm một vị Siêu Phàm. Ai đi mau tới trước, ai đi chậm tới sau. Luật Tiến Hóa cứ thúc đẩy con người đi tới mãi, song một cách chậm chạp và điều hòa.
Tuy nhiên nên đi mau tới nơi tới chốn, đặng thoát đọa Luân Hồi, khỏi mắc vào vòng tứ khổ : Sanh – Lão – Bệnh - Tử.
Trước mắt Chơn Tiên còn bảy đường tiến hóa khác nhau. Ngài có quyền chọn lựa con đường nào cũng được.
Nói tóm lại, từ xưa đến nay và cho đến mai sau nữa, muốn tìm Chơn Ngã thì phải bắt đầu Tự chủ, là chế phục ba Thể : Thân – Vía – Trí, biến chúng thành những tôi tớ dễ dạy, biết vâng lời mình. Từ đó mới hành đạo được. Không Hành Ðạo, không bao giờ Ðắc Ðạo.
Muốn mở mang Tâm Thức mau lẹ thì phải học phương pháp với một vị Chơn Sư mới khỏi bị tai hại, đừng coi theo sách, hay nghe lời một người Thầy Phàm mà có ngày phải bỏ mạng. Trước khi chấm dứt, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa : bảy điểm sau đây quí bạn nhớ.
- Một là: Thật chúng ta là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế, chúng ta trường sinh bất tử chứ không phải xác thân hữu hình, hữu hoại này đâu.
- Hai là: Chúng ta sinh ra cõi Trần đặng học hỏi Cơ Trời. Tới một ngày kia, mỗi người đều thành một vị Siêu Phàm gọi là Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên phải tiến hóa nhiều cấp bực cao hơn nữa.
Thành một vị Siêu Phàm là mục đích đã định sẵn cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ này.
- Ba là: Dầu muốn dầu không, con người và vạn vật đều bị Luật Tiến Hóa thúc đẩy đi tới mãi chớ không hề thụt lùi lại được. Luật Tiến Hóa rất chậm chạp song điều hòa.
- Bốn là: Chung cuộc ai cũng tới mục đích song chỉ có khác một điều là: Kẻ đi mau, tới trước, người đi chậm đến sau.
- Năm là: Chúng ta nên đi mau, chúng ta có quyền đó. Chúng ta phải học hỏi cho rộng sâu những Luật Trời đang hành động chung quanh chúng ta rồi đem áp dụng vào đời sống hằng ngày đặng tiến mau. Nếu chúng ta tham luyến Hồng Trần, cứ đi chậm rãi thì phải trải qua muôn kiếp Luân Hồi, mỗi kiếp đều phải chịu qua bốn cái khổ : Sanh – Lão – Bệnh – Tử và phải chịu áp lực của hai Luật : NHÂN QUẢ, LUÂN HỒI, chạy trốn đường nào cũng không khỏi vì những điều quấy quá của chúng ta đã làm.
Điều hay hơn hết là bước cho lẹ, nhưng bước nào phải chắc bước nấy.
- Sáu là: Chúng ta cầm số mạng mình trong tay. Chúng ta tự ban thưởng mình hay là tự hành phạt lấy mình tùy theo những sự hành động của chúng ta thuận hay nghịch với Thiên Ý.
Đó là tuân theo Luật NHÂN QUẢ. Nhân nào Quả nấy, chớ không có chi lạ.
- Bảy là: Vòng hoa chiến thắng sẽ ban thưởng cho ai đã tự chiến thắng lấy mình và đã qua tới Bờ Giác.
Cầu xin những đoạn tôi viết ra đây giúp ích được quí bạn phần nào trên con đường tìm Chơn Lý và cầu xin Ân Lành của các Đấng Cao Cả ban xuống cho quí bạn./.
Lành thay ! Lành thay !
BẠCH LIÊN
Tháng 10 - 1974
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:19 am

Như thế chúng ta thấy rằng những quyền năng siêu đẳng là quan trọng như thế nào, nếu trong thế hệ tương lai người ta biết dùng nó làm khí cụ để khám bệnh. Người ta cũng có thể dùng nó để khảo cứu sưu tầm về những vấn đề như là tính chất căn nguyên của vật chất hay những vấn đề liên hệ. Khi người ta luyện tập dùng Thần nhãn đó một cách thuần thục, thì có thể đi du lịch nơi cõi Trung giới được. Như thế nghĩa là trong khi ta hoàn toàn thức tỉnh ta có thể xuất vía ra khỏi xác thân để đi châu du khắp nơi ở cõi Trung giới rồi trở về xác thân trong khi ta vẫn tỉnh táo như thường. Những điều nhìn thấy, kinh nghiệm được ở cõi Trung giới, khi ta trở về với xác thân này thì vẫn nhớ rõ ràng tất cả. Những điều đó làm cho cảm giác trí não người ta hoạt động đến cực độ. Vì lẽ đó mà những người bận rộn việc đời không nên thử dùng phương pháp đó; mặc dầu những phương pháp thí nghiệm để tìm tòi chơn lý thì ai ai cũng có thể thí nghiệm được. Với những quyền năng siêu nhiên như thế người ta có thể thám hiểm quan sát các cõi vô hình và xem xét những hiện tượng, những nhân vật hay những vị Thiên thần sống trên các cõi đó. Khi quyền năng con người được tăng gia thì có thể đi từ cõi này sang cõi khác, mỗi lúc càng cao hơn.
Khi luyện tập nó đến một trình độ cao thì người ta có thể xem xét được “trí nhớ của vũ trụ” (mémoire de la Nature). Chừng đó có thể dùng Thần nhãn để thấy rõ những hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ, những việc thuộc về lịch sử. Người ta có thể thấy những việc quá khứ xảy ra trong lịch sử bởi vì trong cõi thiên nhiên có một thể chất rất tế nhị, tinh anh, mà tiếng Phạn gọi là “Akasha”. Những hình ảnh của các hiện tượng in dấu vết trong cái thể tinh anh của vũ trụ đó gọi là “cliché akashique” (tiên thiên ký ảnh). Đó là những phương pháp rất thú vị và ich lợi mà người ta có thể dùng để khảo cứu tìm tòi. Nếu cần, ta có thể dùng phương pháp đó để xem xét những kiếp quá khứ của con người, hầu tìm cách giúp đỡ họ. Thần nhãn đó dùng xem xét được lịch sử các nước trên quả địa cầu, để khảo cứu học hỏi thêm. Tất cả lịch trình quá khứ của nền văn minh nhân loại có thể khảo cứu được.
Nếu người nào chưa tiến hóa cho lắm, tức là trình độ Thần nhãn của họ chưa được cao, thì cần phải có một vật gì cụ thể trong không gian và thời gian để thí nghiệm tìm tòi. Trước hết cần phải có một vật gì cụ thể để cầm trong lòng bàn tay, rồi dùng Thần nhãn truy nguyên ra nguồn gốc, lịch sử và tất cả những hiện tượng đã xảy ra xung quanh vật đó. Người ta có thể xét tới những sự kiện đã xảy ra, thuộc về lịch sử của vật gì mà họ cầm trong tay. Thường thường khi dùng phương pháp đó để khảo cứu thì người ta thấy những hiện tượng bày ra rõ ràng trước mắt chẳng khác nào một cuốn phim diễn ra trước mắt cho ta xem vậy. Lần lần tâm thức của ta mở rộng đến một một trình độ cho ta sống hẳn với thời đại xa xăm của lịch sử mà người ta đang khảo cứu tìm tòi đó. Người ta nhìn thấy những nhân vật, với đầy đủ mọi chi tiết đại khái như mặc y phục gì, phong tục tập quán của họ ra làm sao trong thời kỳ lịch sử mà họ đang xem xét. Không phải người ta nhìn vào lịch sử với tư cách một người của thế kỷ XX này, mà người ta có cảm giác như đứng lơ lửng trên không để nhìn xuống một cách khách quan những gì đang diễn ra trong lịch sử vào thời đó. Người ta có thể mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi được mùi của sự vật đang diễn ra trong lúc đó, chẳng khác nào họ đang sống lại lúc bấy giờ vậy. Nhưng lẽ tất nhiên, người ta không thể can thiệp được vào những điều gì đã xảy ra trong lúc đó, họ chỉ là những người khách quan đi tìm tòi mà thôi.
Những điều tôi nói qua về Thần nhãn thuộc về thể chất và Thần nhãn siêu đẳng thì bấy nhiêu đó cũng là tạm đủ.
Nói tóm lại, Thần nhãn đó chia làm 4 loại :
Loại thứ nhất là Quang tuyến Thần nhãn nhìn xuyên mọi vật (như Rayon X).
Thứ hai là Thần nhãn phóng đại (xem những vật nhỏ, như là kính hiển vi).
Thứ ba là Viễn vọng Thần nhãn (clairvoyance télescopique) nhìn những vật ở xa, như viễn vọng kính.
Thứ tư là Thần nhãn thuộc về cái phách (clairvoyance éthérique).
Ngoài ra lại còn những Thần nhãn dùng quan sát những cõi Trung giới, cõi Thượng giới và mở rộng tâm thức. Và còn Thần nhãn gọi là Thần nhãn của thời gian, do đó người ta có thể nhìn vào cái thể tinh anh của vũ trụ (Akasha). Với Thần nhãn thời gian, những nhà huyền bí học có thể nhìn thấy những sự vật sẽ xảy ra trong tương lai. Họ có thể đặt ra những câu hỏi khó khăn về tương lai con người, là những vấn đề thuộc về định mạng hay là ý chí.

Thần Nhĩ
Bây giờ tôi xin nói đến vấn đề Thần nhĩ. Cũng như Thần nhãn là một giác quan giúp cho người ta thấy được sự vật ở cõi vô hình, thì Thần nhĩ là một giác quan giúp cho ta nghe được những tiếng động ở cõi vô hình. Do những năng khiếu đó, giác quan người ta mở rộng từ cõi hữu hình này đến cõi vô hình khác. Những quyền năng đó có thể giúp ta tiếp xúc với những Đấng vô hình ở các cõi trên.
Do đó người ta có thể tiếp xúc được với kẻ thân yêu vừa quá cố, với những vị Thiên thần ở cõi trên, và nếu được phép, thì họ có thể tiếp xúc với những nhân viên Quần Tiên Hội.

Còn một bực cao hơn nữa là quyền năng giúp ta nghe được tiếng nói trong nội tâm, tức là tiếng nói của Thượng Đế trong lòng mỗi người vậy. Nghĩa là tiếng nói của linh hồn, tiếng nói của Chơn nhơn luôn luôn vọng lại cho ta để làm khí cụ nối liền Chơn nhơn với Phàm nhơn. Tiếng nói Vô thinh đó luôn luôn giúp ta một nguồn cảm hứng và dìu dắt ta trong mỗi hành động hằng ngày của ta. Bằng phương pháp Tham thiền, người ta có thể nghe được tiếng nói của lòng, từ Chơn nhơn thốt ra, hay là bằng ý chí cũng có thể tiếp xúc được với Chơn nhơn của mình. Điều đó chẳng khác nào mình đánh thức Chơn nhơn bằng một (cú) điện thoại vậy. Lẽ tất nhiên mình phải biết số điện thoại đó thì mới có thể kêu nó được. Chúng ta cần phải biết cái ngôn ngữ, cái tiếng nói của Chơn nhơn nói với ta. Tiếng nói của tâm hồn ấy là Tiếng nói của Sự Sống Thiêng Liêng, là tâm thức chung của vũ trụ, của nhân loại.
Với các quyền năng đó người ta có thể nhận thức rõ những Chơn lý tối thượng. Do đó người ta biết được những Luật lớn của Trời Đất, những điều huyền bí của vũ trụ và vạn vật. Những Chơn lý đó người ta lãnh hội được không phải do nơi sự tiết lộ cho ta biết mà là do nơi sự kinh nghiệm trực tiếp của mình.
Bây giờ tôi xin nói đến những quyền năng đó đã được phát triển đến đâu trong giai đoạn tiến hóa của nhân loại hiện đại. Thông Thiên Học dạy rằng : trên bước thang tiến hóa của nhân loại, thì người ta chưa đạt đến mục đích. Trong giai đoạn tiến hóa hiện thời thì người ta chỉ mở được năm giác quan mà thôi. Còn hai giác nữa sẽ được phát triển, nghĩa là sẽ khai mở được trong tương lai. Hai giác quan đó tức là Thần nhãn và Thần nhĩ vậy. Sự khai mở các giác quan đó phải đến cho ta một cách có trật tự, có phương pháp, nghĩa là được khai mở từ giống dân này đến giống dân khác.
Giống dân thứ nhất tức là giống dân mà xác thân của họ chỉ có cái vía và cái phách mà thôi, thì họ đã mở giác quan đầu tiên, tức là thính giác.
Giống dân thứ hai có thể xác đông đặc hơn giống dân thứ nhất, thì đã khai mở giác quan gọi là xúc giác.
Giống dân thứ ba đã hoàn toàn nẩy nở xác thân, họ đã phát triển được thị giác tức là giác quan của con mắt. Thị giác đó trước tiên do nơi con mắt độc nhất ở trên đỉnh đầu. Bên xứ Nouvelle Zélande có giống thằn lằn có ba con mắt. Con mắt ở ngay đỉnh đầu mọc trước nhất, trong 6 tháng đầu nó vừa sinh ra. Sau thời gian đó thì da đầu nó liền lại và lấp bít con mắt đó. Rồi hai con mắt kia mới mọc lên, đó là di tích của con người có một con mắt trên đỉnh đầu thuộc giống dân thứ ba. Trong truyện thần thoại có nói tới một giống người gọi là Cyclopes, giống người đó chỉ có con mắt giữa trán. Đó là người ta diễn tả những giai đoạn trong lịch sử mà loài người bắt đầu chỉ có một con mắt mà thôi. Có nhiều quái thai mà những đứa trẻ mới sinh ra có một con mắt ở giữa trán, đó là những di tích còn sót lại của các giai đoạn lịch sử xa xôi đã mất trong ký ức của loài người. Giống dân thứ tư là giống dân Atlante mở vị giác hay giác quan của cái lưỡi. Giống dân thứ năm thì mở khứu giác hay giác quan của mũi. Trải qua dòng thời gian khi loài người càng tiến hóa, thì những giác quan đó càng ngày càng phát triển thêm nhiều. Giống dân thứ sáu thuộc về nhân loại tương lai sẽ mở được giác quan thứ sáu, tức là Thần nhãn và Trực giác. Hiện thời bây giờ có một vài người phát triển được giác quan thứ sáu và đó chính là đầu đề để chúng ta học hỏi về những quyền năng siêu nhiên của con người. Còn giống dân thứ bảy là giống dân cuối cùng của nhân loại trên quả địa cầu, nó sẽ phát triển tất cả mọi giác quan một cách hoàn toàn. Ngoài ra, giống dân thứ bảy đó lại còn khai mở được Thần nhĩ và thực hiện được sự hợp nhất mình với tất cả mọi loài. Xét về sự tiến hóa của nhân loại, thì đến giống dân thứ bảy, người ta sẽ đạt tới sự phát triển của mọi giác quan. Sau giai đoạn đó, thì quả địa cầu sẽ chìm trong một giấc ngủ triền miên và tất cả nhân loại sẽ do luồng sóng sanh hoạt dắt dẫn qua một quả tinh cầu khác, và cứ mỗi lần như thế, thì người ta lại càng phát triển thêm đủ mọi quyền năng.
Sau cùng thì người ta có thể hỏi rằng : “Vậy chớ cơ quan nào làm chủ động cho giác quan siêu nhiên vừa nói đó ?” Theo như tôi đoán thì có lẽ chư huynh đệ cũng biết rõ về những điều ấy. Những bộ phận đó hiện thời chưa lộ ra ngoài xác thể của ta như năm giác quan mà ta đang có. Đó là bộ hạch trong óc gọi là pituitary gland, là cơ quan của Thần nhãn và bộ Tùng quả tuyến gọi là pineal gland, tức là cơ quan của Thần nhĩ. Hai cơ quan đó là của Thần nhãn và Thần nhĩ, nó thuộc về giác quan siêu đẳng của con người. Do những cơ quan đó, người ta có thể phát triển được tâm thức thuộc về Thượng trí và Bồ đề. Bây giờ chúng ta hãy xem xét cái động lực nào, cái sức mạnh nào làm phát động những cơ quan đó. Có một năng lực thần bí tiềm tàng trong vũ trụ và trong con người. Người ta gọi nó là ngọn Lửa Thiêng sáng tạo. Nó là nguyên nhân mọi sự sanh hóa, mọi sự sinh nở của muôn loài trong Trời Đất. Nó ẩn trong tủy xương sống con người, khoanh tròn lại bảy vòng như hình con rắn và nằm trong xương mông dưới chót xương sống. Hiện bây giờ nó đang thức tỉnh một phần nào. Một khoanh trong bảy vòng đó đang khích động. Chính cái khoanh đó làm cho thần kinh hệ của chúng ta hoạt động và nó cũng là cơ quan truyền tiếng nói của ta nơi cõi vô hình. Khoanh thứ hai trong bảy khoanh đó cũng đang khích động, chính nó chủ động của sự sanh hóa và làm cho người ta có thể sinh nở được. Do nơi công phu luyện đạo, ngọn Lửa Thiêng đó bị khích động và đi lên đến đỉnh đầu. Sức mạnh thần bí đó gọi là Kundalini, một sức mạnh thuộc về điện lực, khi nó lên thì nó đi theo một đường vòng trôn ốc, rồi chui vào trong óc, là như nó phát điện cho bộ óc của ta vậy, nghĩa là làm cho bộ óc ta nhạy cảm thêm, và làm cho ta có thể đáp lại hay nhận thức được tiếng nói của Chơn nhơn. Nó cũng làm cho hai bộ hạch óc pituitary và pineal được khích động. Bộ óc của ta bị khích động bằng phương pháp đó thì nó làm cho ta nhận thức được những sự vật xảy ra trong cõi Trung giới và các cõi vô hình.
Đó là những giáo lý mà Thông Thiên Học dạy ta về những quyền năng siêu đẳng của con người, và địa vị của nó ở trên những nấc thang tiến hóa của nhân loại, nghĩa là những giai đoạn thuộc về quá khứ, về hiện tại của loài người. Nó cũng dạy ta về năng lực của những bộ phận do đó mà ta có những quyền năng siêu đẳng, và ngọn Lửa Thiêng thuộc về điện khí làm khích động được những quyền năng đó. Như thế chúng ta thấy rằng chúng ta phải biết ơn giáo lý Thông Thiên Học đem đến cho chúng ta những tài liệu rất đầy đủ và sáng suốt để chúng ta hiểu được những điều huyền bí trong vũ trụ. Ngoài những điều thuộc về xác thân, giáo lý Thông Thiên Học còn dạy chúng ta các điều thuộc về những cõi tư tưởng và tinh thần nữa. Chính cái đó nó làm cho giáo lý Thông Thiên Học có giá trị. Đó là nguyên nhân vì sao mà người Thông Thiên Học chúng ta cần phải biết ơn những vị Chơn Sư đã tiết lộ các điều bí mật đó. Chính những vị Chơn Sư ấy đã khám phá các điều bí mật của vũ trụ và truyền cho nhân loại từ điều này sang điều khác, nhất là hai vị Chơn Sư đã thành lập Hội Thông Thiên Học. Do nơi Hội Thông Thiên Học mà những giáo lý thâm sâu và huyền diệu đó được tiết lộ cho nhân loại để giúp đỡ họ trên con đường tiến hóa. Như thế chúng ta có thể tin rằng thật là một điều vinh hạnh vô cùng cho chúng ta được làm một người Thông Thiên Học !

Nguyễn Tấn Tài và Nguyễn HữuKiệt.
Biên soạn
(Trích trong Tìm hiểu Thông Thiên Học số 65 và 66 tháng 11 và 12 năm 1959)
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitimeSat Sep 19, 2015 8:18 am

NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI


Sự nẩy nở song song của Tâm Thức và cơ thể.
Hạch mũi và Tùng quả tuyến là những giác quan.
Sự khích động những bộ phận ấy bởi luồng Hỏa xà.
Diễn giả : Đại Đức Geoffrey Hodson
Thông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt


Thưa bà Hội Trưởng,
Thưa quí Ông, quí Bà,
Thưa chư Huynh đệ.
Tối hôm nay tôi bắt đầu một trong bốn bài giảng lý - thứ nhất, về những quyền năng siêu đẳng và phi thường của con người. Ba bài tiếp theo đó thì tôi sẽ trình bày nội trong tháng tám tới đây.
Thông Thiên Học dạy là con người vốn có hai thứ quyền năng siêu nhiên. Hai thứ quyền năng đó là :
1/ Những quyền năng chủ động;
2/ Những quyền năng thụ động.
Những quyền năng thụ động tiếng Pháp gọi là Pouvoirs négatifs thuộc về tánh chất thụ động của con người. Những quyền năng đó thường thường được dùng bởi những người mà ta gọi là médiums. Những quyền năng đó có những sở đoản của nó khi người ta dùng nó làm khí cụ để khảo cứu sưu tầm. Nó không phải do nơi luyện tập cái trí hay cái xác thân, hoặc do nơi sự tu luyện mà có. Những quyền năng đó xảy đến cho ta một cách tự nhiên, chứ không phải do ý chí. Người ta không thể dùng nó làm khí cụ để khảo cứu hay sưu tầm về một khoa nào. Xét vì nó là những quyền năng thụ động nên nó đến cho con người do nơi những động lực từ bên ngoài. Những quyền năng ấy thường là vô sở cứ, và người ta không thể thử thách hay thí nghiệm được.
Vì lẽ đó cho nên người Thông Thiên Học thường chú trọng về những quyền năng mà người ta gọi là quyền năng chủ động hơn; bởi vì người ta nhận thấy rằng : những quyền năng thụ động mà những người médiums dùng để thực hành khoa đồng bóng thường đem tới cho người ta những điều nguy hiểm vô cùng. Những người thực hành khoa đồng bóng thì ý chí của họ càng ngày càng trở nên yếu kém đi, bởi vì họ luôn luôn nạp mình, cả ý chí lẫn xác thân, lẫn tư tưởng cho những sức mạnh từ bên ngoài. Sự thực hành khoa đồng bóng đó làm cho người ta càng ngày càng trở nên lụn bại về tinh thần. Ngoài ra những điều nguy hiểm đó, những chuyện đồng bóng còn làm cho người ta bị ma quái ám ảnh. Những người lên đồng cốt sẽ trở nên những vật thụ động, rất dễ bị xâm chiếm bởi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà họ không thể nào tự chủ được. Và lần lần, họ bắt đầu nghe những tiếng nói vô thinh, nó làm cho họ luôn luôn bị ám ảnh và mất thăng bằng. Những tiếng nói đến cho họ từ những cõi vô hình càng ngày càng mang đến cho họ những điểu quái gở tai dị. Sau dần, thì họ bị những ảnh hưởng ma quái xâm nhập vào mình và họ không thể tự chủ được. Có rất nhiều người, về phương diện tư tưởng, họ không phải là những người mất trí hay loạn óc, nhưng họ là những người bị ma quái ám ảnh. Tình trạng đó khó mà trị cho dứt. Người ta có thể dùng ý chí để xua đuổi mất đi những điều ma quái ám ảnh đó. Nhưng ý chí của nạn nhơn đồng bóng càng ngày càng kém hèn và họ trở nên những vật hoàn toàn thụ động có thể bị ám ảnh nhiều lần sau nữa. Vì những lẽ ấy mà người Thông Thiên Học chúng ta chú trọng đến những quyền năng chủ động hơn là những thứ quyền năng nguy hại như thế. Những quyền năng chủ động có thể luyện tập được và có thể dùng bất cứ lúc nào khi người ta muốn, để làm khí cụ cho sự khảo cứu sưu tầm về mọi phương diện, không phải chỉ một lần mà bất cứ lúc nào tùy ý. Như thế thì những điều gì người ta khảo cứu tìm tòi nên có thể lập đi lập lại nhiều lần để thí nghiệm xem coi có đúng chơn lý hay không. Chúng ta sẽ có dịp học hỏi tới những phương pháp đó sau này. Chúng tôi sẽ trình bày bằng những hình màu rọi để cho chư huynh đệ thấy rõ những cơ quan làm chủ động cho những quyền năng đó.
Những quyền năng siêu nhiên có thể vận dụng được trong khi người ta vẫn tỉnh táo như thường. Quyền năng đó có thể chia làm ba loại : thứ nhất là Thần nhãn, tức là có thể thấy được những vật vô hình; thứ hai là Thần nhĩ tức là nghe thấy đặng tiếng động nơi cõi vô hình; thứ ba là Kiến tánh, nghĩa là trong khi hoàn toàn thức tỉnh, người ta có thể nhận thức được sự hợp nhất bản ngã của mình với Đại ngã của Vũ trụ; hay là sự hợp nhất của mình với mọi vật, mọi loài trong Trời Đất. Đó là cái quyền năng tối cao và lớn nhất mà người học Đạo có thể thực hiện được. Như tôi đã nói trong những kỳ trước thì điều đó chính là cái mục đích tối thượng, mục đích rốt ráo mà người học Đạo tìm cách thực hiện trong đời học Đạo của họ.

Thần Nhãn
Trước hết chúng ta hãy xét về vấn đề Thần nhãn và thử xem Thần nhãn nghĩa là gì ? Nên nhớ rằng : tôi muốn nói Thần nhãn, mà người ta có, do nơi sự tập luyện và người ta có thể dùng ý chí để kiểm soát được. Thần nhãn đó có thể chia ra làm hai phần : Thần nhãn thuộc về xác thể và Thần nhãn thuộc về siêu linh.
Thần nhãn thuộc về thể chất tức là Thần nhãn thông suốt như quang tuyến X vậy, vì do nó người ta nhìn thấy xuyên mọi vật đông đặc, cứng rắn. Thí dụ: người ta có thể nhìn xuyên qua xác thân con người, khi người ta muốn dùng Thần nhãn để mà khán nghiệm và xem bệnh tật. Do Thần nhãn đó người ta thấy rõ ràng những bộ phận và ngũ tạng lục phủ của con người. Những cơ quan trong con người như huyết mạch, gân cốt, tế bào, ngũ tạng lục phủ và tất cả những cơ quan trong thân thể v. v. . . đều có thể dùng Thần nhãn xem xét tỉ mỉ tùy ý mình muốn. Nhờ đó người ta có thể xem bệnh một cách chắc chắn, không bị sai lầm và dùng nó mà khán nghiệm một bộ phận nào trước khi mổ. Tất cả những điều đó có thể làm với Thần nhãn thuộc về quang tuyến.
Loại Thần nhãn thứ hai gọi là Thần nhãn phóng đại để dùng xem mọi vật nhỏ phóng đại ra như kính hiển vi vậy. Nhờ Thần nhãn đó mà người ta nhìn thấy những vật rất nhỏ bé li ti như tế bào, hạt nguyên tử. Người ta nhìn thấy những vật nhỏ đó bằng cách phóng đại nó ra như những vật lớn thường vậy. Người ta có Thần nhãn đó là do nơi bí huyệt, hay là luân xa giữa hai chơn mày và do sự hoạt động của một bộ hạch trong óc gọi là glande pituitaire. Bộ hạch óc nối liền với bi huyệt giữa hai chơn mày bằng một cái ống dài độ 7 phân tây. Người ta có thể dùng ống đó để nhìn rõ ràng những vật muốn thí nghiệm như nhìn vào trong kính hiển vi vậy. Khi người ta luyện tập để dùng Thần nhãn đó thì có thể nhìn thấy bất cứ vật nhỏ bé nào. Do quyền năng ấy người ta có thể đặt tâm thức mình vào trong lòng hạt nguyên tử rất nhỏ bé để thí nghiệm xem xét coi vũ trụ bao lớn. Theo bên Ấn Độ Giáo người ta gọi phương pháp thí nghiệm đó là hòa hợp mình với hạt nguyên tử, tức là làm cho tâm thức mình thu nhỏ lại ở trong lòng của hạt nguyên tử. Danh từ tiếng Phạn gọi nó là “Anima”, tức là Thần nhãn phóng đại mọi vật.
Loại Thần nhãn thứ ba gọi là viễn vọng Thần nhãn (Clairvoyance téléscopique). Do quyền năng đó người ta có thể xem xét những vật rất xa xôi như những tinh cầu trong không gian.
Loại thứ tư thuộc về Thần nhãn của cái phách. Do quyền năng đó người ta có thể thấy cái phách của quả địa cầu và nhìn thấy bất cứ vật nhỏ li ti nào từ quả địa cầu thoát ra. Người ta cũng nhìn thấy những hạt vi trần (particules) rất nhỏ thoát ra từ những hành tinh khác. Khi người ta dùng thần nhãn đó để thí nghiệm, thì sẽ thấy rằng : trong vũ trụ này có biết bao nhiêu vạn ức điểm vi trần (particules) rất nhỏ bay lơ lửng trong không gian. Những hạt bụi vi trần li ti đó nhảy nhót lung tung và phát ra ánh sáng. Đó là những hạt nguyên tử của những chất lơ lửng trong không gian. Khi người ta xem xét cái phách của quả địa cầu, thì thỉnh thoảng thấy có luồng ánh sáng bừng lên, chạy từ chỗ này qua chỗ khác. Có khi người ta cũng nhìn thấy ánh sáng đó ở trong khóe mắt của chúng ta. Phân tách luồng ánh sáng ấy, người ta nhận thức rằng : đó là những hiện tượng thuộc về những Tinh linh trong cõi vô hình. Những Tinh linh đó là những sinh vật có khắp mọi nơi ở xung quanh chúng ta. Những Tinh linh ở cõi vô hình đó thuộc về ngũ hành như những loại Tinh linh của Đất, của Nước, của Gió và của Lửa. Những đầu đề đó thuộc về bài giảng sắp tới và tôi sẽ bắt đầu nói trong buổi diễn thuyết tối mai.
Thần nhãn của cái phách là một quyền năng rất có ích để dùng khám bệnh. Do đó mà cái phách con người có thể xem xét tỉ mỉ được. Khi dùng Thần nhãn thì người ta thấy cái phách chói sáng và có thứ màu đặc biệt. Trong phách có những luồng sinh lực nhiều màu khác nhau. Sự xem xét những bí huyệt và đường sinh lực trong cái phách có thể giúp cho ta nhận thấy rằng : người ta có bệnh tật hay không. Có lẽ trong chư huynh đệ cũng biết người ta có hào quang gọi là hào quang của sức khỏe. Từ hào quang sức khỏe đó người ta thấy phát ra đủ thứ sinh lực có sẵn trong mình. Những người khỏe mạnh thì hào quang đó phát ra những tia ngay ngắn và dựng đứng. Những tia đó có thể thấy trong những chỗ nhọn của châu thân, như đầu ngón tay, ngón chơn và các góc cạnh trong mình. Những người có sức khỏe thì các tia đó phát ra từ đỉnh đầu mà lên. Trái lại những người bệnh tật thì hào quang của họ có những tia cúp xuống và xụi lơ. Những tia cúp xuống đó có thể thấy ở nơi những bộ phận bị đau đớn hay là khắp toàn thân. Nếu những tia đó ở khắp cả châu thân thì người ấy bị những chứng bệnh bại hoại kinh niên. Nếu những tia cúp xuống đó chỉ thấy ở trong một bộ phận nào mà thôi, thì chính bộ phận đó bị tê liệt hay đau bại. Như thế chúng ta thấy rằng : cách dùng Thần nhãn đó có thể làm phương pháp để khám bệnh rất hiệu quả.
Quyền năng kế đó gọi là Thần nhãn siêu đẳng hay là siêu thiên nhiên. Thần nhãn đó có nhiều cấp bực khác nhau. Có thứ Thần nhãn nhìn cõi Trung giới, có thứ Thần nhãn để nhìn cõi Thượng giới và trên cao hơn nữa. Do Thần nhãn đó, người ta có thể thấy ánh sáng phát ra từ hào quang con người và luân xa hay bí huyệt con người.
Xét vì những nguyên nhân bệnh tật con người phần nhiều do nơi tình cảm hay tư tưởng sinh ra, vậy thì dùng Thần nhãn đó tức là truy nguyên nguồn gốc mọi bệnh tật vậy. Dùng Thần nhãn đó có thể thấy được bệnh tật phát sinh do nơi những tư tưởng sai lạc quấy quá của con người. Những người mang bệnh đó thì thường thường sinh lực của họ bị bại hoại. Người ta thấy hào quang của họ bị hư hỏng xiên vẹo về một phía nào; thí dụ những người bị tuyệt vọng, thất vọng, những người trác táng quá độ, hoặc những người bị cơn kềm chế quá mạnh mẽ. Những người đau khổ quá nhiều thì trong hào quang của họ có những vết như vết thẹo. Trong những thể vô hình tức là những thể thanh cao của con người, thì bộ máy tuần hoàn khác hẳn bộ máy tuần hoàn trong xác thân vật chất này; và trong những thể vô hình đó luôn luôn có sự vận chuyển không ngừng của những luồng sinh lực. Có những nguyên nhân thuộc về kiếp trước, do nơi sự sinh hoạt không đúng phép, do sự sinh hoạt trái đạo làm cho một phần trong các thể vô hình đó bị rối loạn và sự tuần hoàn trong những thể đó bị mất trật tự. Nếu tình trạng ấy tiếp diễn, nếu không tìm cách để trị nó, thì nó có thể mang ảnh hưởng đến xác thể vật chất; và do đó mà bệnh tật phát sinh.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI   NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» NHỮNG QUYỀN NĂNG THIÊNG LIÊNG VÀ PHI THƯỜNG CỦA CON NGƯỜI
» SEX LÀ MỘT CẢM NGHIỆM THIÊNG LIÊNG
» Con người có phải là dạng ROBOT do thượng đế tạo ra không?
» NHỮNG CHUYỆN THẦN QUYỀN VÀ THẦN BÍ TRONG ĐẠO PHẬT
» NHỮNG CHUYỆN THẦN QUYỀN VÀ THẦN BÍ TRONG ĐẠO PHẬT.

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ TÂM LINH - NGOẠI CẢM - HUYỀN BÍ HỌC - HUYỀN THUẬT . :: NGOẠI CẢM-
Chuyển đến