BÍ MẬT CỦA MẬT TÔNG ĐẠI THỦ ẤN VÀ KINH MẠCH .
Ba món báu mật của Đạo Giáo là TINH – KHÍ – THẦN ; Ba món vật quí giá của Phật Giáo Hiển Tông là PHẬT – PHÁP – TĂNG ; Ba món vật quí báu của Phật Giáo Mật Tông là KHÍ – MẠCH – MINH ĐIỂM .
Mật Tông chú trọng sự luyện tập của cá nhân về Ý và KHÍ ; Từ sự luyện tập ĐIỂM trở thành KHÍ , và từ KHÍ chuyển vận KINH MẠCH , từ đó sinh ra NỘI HỎA ( lửa bên trong ) , từ nội hỏa sản sinh ra QUANG MINH ( sự chiếu sáng ) , từ quang minh hòa nhập vào biển VŨ TRỤ QUANG , đạt đến cảnh giới của PHẬT QUẢ , đó là sự liên hệ quan trọng , giữa ĐẠI THỦ ẤN và KINH MẠCH .
KINH MẠCH là gì ? người xưa có nói : Kinh mạch giả , hành khí huyết , thông âm dương . Trong cơ thể của con người , kinh mạch là những con đường , để khí huyết lưu thông đi nuôi cơ thể .
Sự tu luyện của Đạo gia phái Côn Luân , chú trọng đến phương pháp Thông Tam Tiêu – là Thượng Tiêu , từ̉ hoành cách mô trở lên , trung tiêu là từ hoành cách mô xuống đến bụng , hạ tiêu là từ bụng xuống đến chân .
Kinh mạch được chia ra làm 12 đường kinh mạch là : 1.- Thủ thái dương phế kinh . 2.- Thủ âm minh đại trường kinh . 3.- Túc âm minh vị kinh. 4.- Túc thái dương tỳ kinh.5.- Thủ thiếu dương tâm kinh.6.- Thủ thái âm tiểu trường kinh .7.- Túc thái âm bàng quang kinh.. 8.- Túc thiếu dương thận kinh . 9.- Thủ khuyết dương tâm bào kinh.10.- Thủ thiếu âm tam tiêu kinh.11.-Túc thiếu âm đảm kinh.12.- Túc khuyết dương can kinh.
Kỳ kinh bát mạch gồm có : 1.- Nhâm mạch . 2.- Đốc mạch . 3.- Xung mạch.4.- Đới mạch.5.- Dương duy mạch.6.- Âm duy mạch.7.- Dương kiểu mạch.8.- Âm kiểu mạch .
Sự tu luyện cuả Đạo gia , vận khí trong 12 kinh mạch , gọi là sự vận hành khí trong Đại Châu Thiên , còn sự vận hành khhí trong kỳ kinh bát mạch gọi là Tiểu Châu thiên .
Phương pháp Đại Thủ Ấn của Mật Tông , không phân chia phức tạp như Đạo gia .
Mật tông đem những Tùng Thần kinh , Chủ yếu là Kinh Mạch chia ra làm 7 trung tâm , phân chia như sau : 1.- Đỉnh đầu .2.- Giữa chân mày.3.- Ở cổ.4.- Ở giữa ngực ngang tim.5.- Ở bụng.6.- Sinh thực khí . 7.-Ở xương cùng.
Đem nội hỏa gọi là châm lửa , đem mạch phân làm Tả mạch – Hữu mạch và Trung mạch . Do đó, 7 trung tâm và 3 mạch cuả Mật Tông và 12 kinh cùng Bát mạch của Đạo giáo , đại thể căn bản là giống nhau.
Đại Thủ Ấn nói về vận hành khí huyết , thông kinh mạch , nước cam lồ thấm nhuần tạng phủ , thấm nhuần gân cốt, điều hòa Thủy,Hỏa , Phong , Thổ . Những tác dụng trên , đều giống cách luyện tập của Đạo gia trung Hoa .
Phương pháp thông quan của Mật tông là đầu tiên đả thông kinh mạch , sau đó hội tụ lửa thành một điểm , sau đó châm lửa đốt thành ánh sáng ; phương pháp nầy giống như phương pháp của Đạo gia là : luyện Tinh hóa Khí , luyện khí hóa Thần , luyện Thần hoàn Hư , Luyện Hư hoàn Đạo .
Ba điểm bí mật của Mật Tông Đại Thủ Ấn là : 1 .- Quán tưởng . 2.- Thất chi thiền tọa.3.- Chú Âm tức là thu nạp hít thở và niệm chú .
Tam quán của Đại thủ Ấn là : Không quán – Giả quán và Trung quán .
Không quán là quán tưởng vạn pháp tự thể là không có ; Giả quán là vạn pháp do duyên sanh hư tướng , sanh sanh diệt diệt . Trung quán là vạn pháp không thiệt , không giả , trung đạo , tức là áp dụng vạn pháp cho đúng lúc đúng thời , đúng Thời và Vị theo như tinh hoa cuả Kinh Dịch vậy .
Tập luyện Tam quán cuả Đại Thủ Ấn , có thể giúp Hành giả phá vở Ba điều mê hoặc , chứng đắc Tam trí và thành tựu Tam Đức , cuối cùng vĩnh viễn thoát được Ma đạo.
Ngoài ra còn có sự quán tưởng huyệt Đan điền là Nội quán , còn Ngoại quán , Hành giả có thể nhìn chân dung , Pháp tướng uy nghiêm , hình ảnh vị Thầy của mình , làm đối tượng để quán tưởng ; Hành giả nhìn vài giữa chân dung , ngay chân mày cuả Thầy mình một cách mảnh liệt và tưởng tượng từ đó phóng ra , một luồng ánh sáng trắng , phóng đến giữa chân mày của mình. Đây là phương pháp tập trung tinh thần , đem tạp niệm biến thành nhất niệm , tập như thế một thời gian , hành giả có thể tiến đến ,tập nội quán , quán tưởng tại đan điền . Khi hành giả tập trung chú ý đến huyệt Đan điền , thì ánh sáng sẽ hiện ra . Ngoại quán , quán tưởng lấy chân dung uy nghiêm vị Thầy của mình làm đối tượng để quán tưởng ; còn Nội quán , quán tưởng của Đạo gia, thì đầu tiên quán tưởng huyệt đan điền , sau đến huyệt mạng môn , thứ ba quán tưởng huyệt Dủng Tuyền ở chân , thứ tư huyệt Bách hội , sau đó quán huyệt Mi tâm , giữa chân mày .
Còn nguyên tắc Đại Thủ Ấn của Mật Tông , đầu tiên quán tưởng Đan điền , sau đó đến trung tâm ở bụng , đến trung tâm tim , thứ tư ở cổ , thứ năm mi tâm và chót hết đến đỉnh đầu .
Trong lúc quán tưởng , không được căng thẳng thần kinh , hay chú ý quá sức , mà cần phải thư thả tự nhiên , không gấp rút ....
Về phương pháp quán tưởng để làm phát sinh luồng nhiệt năng nội hỏa , thì hoàn toàn nhờ vào sự hít thở và tưởng tượng ; khi hít không khí vào, thì tưởng tượng màu trắng , khi đến đơn điền biến thành màu đỏ , khi thở không khí ra , không khí biến thành màu đen . Việc tưởng tượng màu sắc có ý nghĩa như sau : Tưởng tượng ánh sáng trắng là biểu hiện cuả sự hấp thụ thanh tịnh quang minh ; màu đỏ là sự phát sinh nội hỏa ; màu đen là sự phế thải ra khí dơ và nghiệp chướng, hoặc có thể thay màu đen thành màu lam hay xanh cũng được .
Phương pháp quán tưởng nội hỏa :
Đầu tiên tưởng tượng một điểm tròn màu đỏ , tại huyệt đan điền , cách dưới rốn 4 ngón tay , huyệt nầy là điểm giao thoa của Tam mạch , tả hữu và trung mạch ; Điểm đỏ nầy được tưởng tượng như một đốm lửa nóng như than hồng trong lò , đỏ rực tỏa ra hơi nóng , sau đó hít một hơi dài , vận khí đi vào hai mạch tả hữu , để đi đến huyệt đan điền , thổi cho điểm lửa ở đây , mổi lúc càng nóng hơn ; khi thở ra hành giả tưởng tượng , thở ra không khí màu đen , hít thở như vậy , một vòng gọi là một tức ; cứ 10 tức thì cục lửa hóa ra to lớn hơn và thăng lên một trung tâm lực cao hơn ,tức từ đan điền đi lên trung tâm tim , cổ, mi tâm .....Hít vào đếm 6 nhịp , ngưng 2 , thở ra 6 , ngưng 2 là xong một chu kỳ .
Khi tập lên cao , Thủ Ấn , Thân Ấn có thể biến thành quán tưởng ; Chú ngữ biến thành Thu Nạp hít thở ; và hít thở có thể hóa thành khí để quán tưởng ; đó là sự hợp nhất của Tam Quán .