CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
ĐỂ VÀO DIỂN ĐÀN TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC , BẠN CẦN ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY .
CHÚC BẠN AN KHANG THỊNH VƯỢNG VÀ TINH TẤN TRÊN CON ĐƯỜNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC ........
TRUNG TÂM HUYỀN BÍ HỌC ĐÔNG TÂY
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI .

Cùng tìm tòi, nghiên cứu, chia sẻ, thảo luận và thực hành các kỷ năng, kiến thức tâm linh để tạo hạnh phúc cho bản thân và tha nhân ..........
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
» Sách ÂM LUẬT VÔ TÌNH
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeSat Nov 16, 2019 3:39 pm by phoenix030

»  Học tập Mật pháp có cần phải quán đỉnh?
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeWed Jun 12, 2019 7:36 pm by dieutam333

» Cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo Phật Linh
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeThu Jun 06, 2019 9:48 am by dieutam333

» Học đạo thầy chân chính có lấy tiền mình ko thầy?
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeThu May 30, 2019 9:28 am by dieutam333

» Mua launchpad
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeWed Feb 27, 2019 8:44 am by hanhmit

» tour du lịch Phú Quốc
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeFri Feb 15, 2019 2:31 am by hanhmit

» căn hộ Hado Green Lane quận 8
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Feb 12, 2019 11:45 pm by hanhmit

» Dự án chung cư Thanh Hà
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeSun Feb 10, 2019 12:14 am by hanhmit

» Thi công nội thất Đà Nẵng
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Jan 29, 2019 10:51 pm by hanhmit

Navigation
 Portal
 Diễn Đàn
 Thành viên
 Lý lịch
 Trợ giúp
 Tìm kiếm
Diễn Đàn
Affiliates
free forum


 

 NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM

Go down 
Tác giảThông điệp
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:14 am


NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM

qua ký sự của Huynh Dienbatn.....trong các bài viết dài

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM - DƯƠNG.

Diển đàn xin thay mặt đọc giả Việt Nam trên toàn thế giới cảm ơn Huynh Dienbatn....
( Nếu có gì trở ngại , xin thông báo diển đàn sẻ xoá bài nầy ngay tức khắc )

Ánh Sáng - T2 - Úc Châu
( Thành viên ban quản trị diển đàn )
Kính Bái

Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:16 am


NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN
Hay là
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM - DƯƠNG.
Dienbatn.


http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/cuoc-chien-giua-cac-phap-su-va-hai-coi_05.html

http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn?l=f&id=16



Thân gửi các bạn. Nhân lúc "Nông Nhàn", dienbatn xin kể về những điều đã được chứng kiến trong thời gian đi Taba. Đây là những chuyện "Thực như Bia". Do những người trong cuộc còn đang hành nghề ở khắp nơi trên đất nước này. Vì lý do tế nhị, dienbatn không xin được nêu tên thật của họ. Để có thể cà kê dê Ngỗng, kiếm chút cháo tiền nhuận bút của bác Hùng Sơn, dienbatn xin viết theo dạng những mẫu chuyện ngắn, do vậy mạch của câu chuyện không theo khuôn phép nào cả. Muốn biết sự việc ra sao - Xem hồi sau sẽ rõ.
1 / CHUYỆN ÔNG BẢY THÀY BÙA Ở CHÂU THÀNH - TÂY NINH.

Ngày xưa, khi người viết còn là một công chức nhà nước, được phân công công tác về một nơi chưa hề có khái niệm về Địa lý nào trong đầu - Châu Thành - Tây ninh. Xuất phát từ Sài Sơn, từ sáng sớm, đáp chuyến xe đò lên chặt người lên Thị xã Tây ninh. Chiếc xe cà khổ, có lẽ sản xuất từ những năm NAPOLEONE còn làm tiểu đội phó, cứ nhay lên chôm chôm và liên tục xịt khói đen, có thể mà mình đi nên được sớm kiếm chỗ ngồi gần của sổ. Nhìn qua cửa xe, lần lượt nhìn cảnh đường chạy ngang qua: Hóc môn, Củ chi, Trảng Bàng, Gò dầu ... toàn những cái tên lạ tai mà lòng buồn như rau chợ chiều. Qua cây số 22, lúc đó là Trạm kiểm soát liên tỉnh phải chờ đợi các đội kiểm soát lên lục soát hàng buôn lậu cũng mất mấy tiếng đồng hồ. Lúc xong kiểm tra, lại máy không nổ được, thế là tất cả mọi người phải công lưng xuống đẩy hơn 50 m, cái Desoto cũ rích mới chịu xì khói và ì ạch lên đường. Ngồi gần bác Tài xe, mặt mũi đen thui, bóng nhay, hì hức lái xe chẳng khác nào đánh vật. Có lẽ hệ thống lái đã quá mòn nên thấy bác ta quay Vô lăng mù tịt, mỗi lần vào số lại lấy cây cần số để bên cạnh, nhét vào hộp số, lắc lắc một hồi làm cho hộp số kêu rộng lên như heo bị thóc tiết, và cứ thế hí hoáy một hồi, bác ta cũng vào được số và chiếc xe lại ì ạch lăn bánh. Từ Sài gòn lên Thị xã Tây ninh có 99 Km, mà chiếc xe phải đi hết gần 7 tiếng đồng hồ. Ngọ vừa qua thì chuyến đi cũng kết thúc, trả chiếc xe khách ngay tại cửa số 2 chợ Long Hòa. Lúc đó thị xã Tây ninh cũng còn thưa thớt dân cư, chủ yếu là tập trung xung quanh khu vực Cầu Long Quân và chợ hoa. Dân ở đây chủ yếu theo Đạo Cao đài và lần đầu tiên người viết được chứng kiến một đám tang với vô vàn tà áo dài trắng và cũng là lần đầu tiên biết thế nào là cái Thuyền Bát Nhã. Ngồi tại quán Cà phê cóc ven chợ, hỏi thăm đường về Châu Thành mới biết chỉ còn có một chuyến xe cuối cùng trong ngày. Thôi đành phó thác cho số phận _ "Bắt phong trần phải phong trần - Cho May Ô mới được phần May Ô" - Đúng như câu hát mô đi phê mà trẻ con ở phố vẫn nghêu ngao. Ngồi gần bên cạnh trong quán Cà phê, người viết chợt để ý có hai cha con một người đàn ông - Người cha khoảng gần 70 tóc hui tróc và một cậu thanh niên gò đồng tính khoảng 20 tuổi. Sở dĩ người viết chú ý tới họ là vì cách ăn mặc rất lạ so với người miền Bắc - Áo Vạt hò và quần thụng nâu, đầu lại chít thêm một cái khăn chạy. Nhưng cái đáng chú ý nhất là ánh mắt của họ - Ngồi uống Cà phê, gần như dung khóc với cái ồn ào của Quán, ánh mắt họ trầm tĩnh, và thật là có Thần. Người viết tập trung vào ngắm nghĩa ông già theo thói quen mà ông nội đã truyền thừa cho từ nhỏ - Xem nhân tướng và đánh giá con người theo con mắt nhân tướng học. Quả thật, nếu không tinh mắt thì không thể phát hiện được những nét tiềm ẩn này của người con. Dáng người chắc nịch với đôi vai xòe rộng chứng tỏ một sức khỏe hơn người, đặc biệt là với đôi bàn tay và những vuông cạnh chang chít vết sẹo, có lẽ đây là một cao thủ về Karate không biết chừng. Đặc biệt nhất là đôi mắt - Một đôi mắt như có Thần lực bắt người khác phải củi đầu. Ông đeo tòng Teng quanh cổ mình một sợi dây chuyền bằng bạc đã xỉn màu và treo trên đó một cái nành tướng để Heo rừng, phần cuối có bịt bạc nhọn hoạt. Từ con người ông toát ra một vẻ uy nghi, quắc thước và bao gồm cả một sự tin tưởng đến lạ kỳ. Đây có lẽ là hình ảnh mà người ta đã dùng để xây dựng hình tượng Võ Tòng trong cuốn ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM mà người viết đã đọc từ khi còn bé tí chăng? Cuối cùng, cũng tới giờ xuất hành của chuyến xe chót về Châu Thành. So với chiếc xe này thì cái Desoto ban nay có lẽ lại là Thiên đường. Đây là một chiếc xe mà người dân tại chỗ kêu là "Xe Đò Lở". Nó là một cái chuồng heo không hơn không kém, chỉ có một cái thùng đóng lấy bằng những cây ván bìa, đặt trên một bộ khung mà có lẽ bán Ve chai, các bà còn chẳng thèm mua. Đặc biệt hơn nữa, ngay đằng sau xe có một cái ống đen xì to cỡ một người ôm, đỏ rực hơn Cày đang cháy - Hoá ra vì khan hiếm nhiên liệu nên họ đã sử dụng chiếc xe chạy bằng hơn Cày như thế này đây .
Chúng tôi cùng lên xe, tôi cố tình chọn chỗ ngồi gần cha con của họ. Hai bên đường, rừng Tây ninh còn xanh ngút ngàn, những ruộng lúa, rầy khoai mì trải dài theo từng chặng. Lâu lâu, những vườn cây thốt nốt cổ thụ lại hiện ra, nhắc tôi nhớ cho rằng, mình đang đi trên đất của người Miên thừa trước Đường lên. Châu thành thừa đó còn là một con đường đất đỏ đầy bụi và những ổ voi, ổ gà to tướng. Mùa này là mùa khô nên khí hậu về chiều rất nóng bức, cộng thêm hơi người và hơi của cái lò hơn đằng sau xe Phả từng chặng làm cho quần áo tôi ướt sung. Để quên đi chặng đường gian nan phía trước, tôi tranh thủ làm quen với cha con ông già. Được biết ông tên là Bẩy (chắc gọi theo thứ của miền Nam), nhà gần Ngã ba So (Nơi có Trường bắn tử hình người ta - Cái tên nghe ghê chết đi được). Ông Bảy là một Thay Bua, chuyên chữa bệnh cứu người, nhất là những bệnh bị trúng thư, trúng Ngãi phát điên vì tình. Bà lão nhà ông cũng là một Thay Bua cao tay ấn (có khi còn cao hơn cả ông vì hai người học cùng Thầy, bà lại được xuất sư trước). Hiện các con ông đều theo phụ chữa bệnh với cha mẹ - Ông bà được 6 đứa con - 4 trai, hai gái. Ngày xưa hai ông bà đi khắp nơi kiếm Thầy học Đạo, Trời đất xui khiển thế nào mà lưu lạc khắp nơi từ An Giang, Châu Đốc cho tới Năm Căn, nơi nào cũng in dấu chân của Ông Bà. Cuối cùng họ trụ lại tại chân núi Tà Lơn (Campuchia) gần 20 năm rồi vì chiến tranh Việt - Miên nên mới bồng bế nhau về sống tại đất Châu thành này. Chiều tà đã Bằng Lăng khắp nơi, quang cảnh thật thê lương, lâu lâu mới thấy một vài chơi canh rầy của dân như những chiếc chuồng chim trống hơ trống bên đường hoặc. Khu vực này hầu như không có ruộng nước, chỉ có những tia Khoái mỳ ngút ngàn. Rừng và rầy tôi chen lan nhau suốt dọc đường đi, lác đặc những gò mối nổi lên trông hao hao như cảnh cánh đồng Chun bên Ai Lao mà tôi có dịp đi qua. Gần 7 giờ tối, xe mới dừng bánh ở khu chợ ven đường mang tên Phước Thọ. Phước Thọ đâu không thấy, chỉ biết là chắc chắn đêm nay không có chỗ ngủ rồi. Tôi mời hai cha con ông già vào làm tạm một ly bạc Sửu cho ấm bụng trước khi chia tay. Khu vực này không có điện, nên quán cà phê phải thắp đèn măng xông, ánh sáng trắng xanh nhức cả mắt. Vừa ngồi xuống, tôi vội lấy tấm giấy quyết định phân công công tác ra hỏi thăm đường về cơ quan. Thất bất ngờ bà chủ quán cho biết cơ quan tôi sắp đến đã chuyển địa điểm về Tân Biên cách nơi này gần 50 Km. Bà chủ quan le te, nhưng rất tốt tỏ ra vô cùng lo ngại cho tôi vì giờ này không còn xe nữa. Chán nản, tôi ngồi thuot ra thở ngắn thở dài. Thấy vậy, Ông già liền nói: - Nếu chú không chê nhà tôi nghèo, tôi mời chú về nhà nghỉ tạm, mai tôi biểu thằng Đệ lấy chiếc Đam chở chú về cơ quan. Thật chẳng còn cách nào khác, tôi đành quay sang cảm ơn thịnh tình của hai cha con ông già và nhận lời. Chúng tôi lầm lùi đi trong bóng tối của rừng xanh Tây ninh. Theo con đường mòn vượt qua nhiều Mỹ rầy khoảng gần một giờ, chúng tôi mới về đến nhà. Nhà của hai cha con Ông già nằm trên một cái gò nhỏ, xung quanh là rầy tôi mới ngang tầm ngực. Nếu gọi là cái nhà thì thực vinh hạnh cho nó, vì thực ra chỉ là những khúc cây Bạch đàn gác lên nhau và đóng bằng gỗ đinh mộng các thay. Xung quanh tường là những miếng ván bìa đóng song song, hở hếch hở hoặc, nhìn bên ngoài thấy suốt cả sang bên kia. Có lẽ trang trọng nhất của ngôi nhà là một cái ban thờ, cũng đóng bằng gỗ bìa, trên có rất nhiều tượng Phật và trên vách treo nhiều tấm ảnh có hình thù lạ mắt mà tôi chưa thấy bao giờ. Trước nhà là một cái sân rộng bằng kỹ nen đất, phẳng lý. Bên cạnh nhà là một cái lan rất lớn có một chiếc giường bằng ván bìa dài hơn chức mét, trên đó người ta nằm ngồi la liệt. Xung quanh nhà, đây đâu cũng thấy có bếp kê bằng ba cục đá và nhiều người đang lui cui nấu bữa chiều. Cảnh tượng giống như sau những lần hành quân, chúng tôi tạm nghỉ nấu ăn vậy, nghĩa là hết sức sơ sài, tạm bộ. Tới mảnh sân, mọi người trong nhà ua ra chào Thầy chạy cả. Mọi người nói cười tiu tit và Ông già lấy trong tay nai ra những thứ mà mọi người gửi mua giúp. Bây giờ tôi mới để ý thấy cái túi xách đến đúng mà anh con trai mang vác về toàn là thuốc Nam. Anh lấy ra và chia cho từng gia đình một Ông già giới. Thiệu tôi với mọi người và kêu tôi ra giếng tắm. Một anh con trai da đen trui trui lẹ làng hướng dẫn tôi ra giếng và rất nhanh, anh kéo cho tôi một chậu nước để tướng. Giếng ở đây rất sâu và nước lạnh ngắt. Tắm xong, tôi lần mò vào nhà đã thấy một chiếu nhậu linh đình bày ra sân. Ba tấm chiếu đại bày ra sân mà có vẻ vẫn còn chật. Trên đó là những tấm lá chuối lớn bày rất nhiều thịt gà, những bát canh chua cá và cả chức chai rượu đế trong vắt. Bát đũa mềm cũ và cái cao cái thấp trông thật tức cười. Ông Bảy kêu tôi: - Hải, mày vô đây gần tao nhậu cho dui. Tôi ron rén đến ngồi gần ông Bảy, chỗ người ta vừa mới nhích ra Nhường. Lý cái duy nhất chạy vòng theo tua nhanh hơn cả cánh quạt, chẳng mấy chốc tôi thấy đầu óc lâng lâng, mọi sự mệt nhoc chạy đâu hết ráo.
Đêm xuống dần, khí Trời trở nên hơi se lạnh. Xung quanh bàn nhậu người ta bàn tán đủ thứ chuyện trên đời, nhưng nhiều nhất là nói đến những ca chữa bệnh Thần kỳ của Ông Thầy. Có một cô bé tuổi chừng đôi tám, trắng da dài tóc, môi đỏ chót trông chẳng khác gì Hoa hậu. Một cậu con trai cùng Xã, yêu thầm, nhớ trộm, theo đuổi liền mãi không được nhờ một thầy Chà với số tiền khá lớn bỏ ngai mê cho cô. Yêu đương đâu chẳng thấy, chỉ thấy cô bé tự nhiên điên loạn, xé quần xé áo, loa thể đi ngoài đường, bốc ăn những thứ dơ bẩn. Gia đình cô đã mang cô đi rất nhiều bệnh viện thay vì, rồi hơn một năm không khỏi. Lần cuối, nghe người ta mạch đưa cô vượt cả trăm Km lên nhờ Thầy Bẩy. Trước khi đi, hình như cô bé biết nên kịch liệt chống cự, cắn xé cả những thanh niên đứng gần. Người nhà cô phải trời chặt chân tay cô lại, bỏ nên xe lôi đưa lên. Khi vào tới cổng, cô tỉnh dậy kêu thét và chửi bới dữ dội nên không ái dám đến gần. Mấy anh con trai và Đệ tử của Thầy Bảy vừa mở trời cho cô, cô bị cắn xé tơi bời nào làm anh cũng hoảng sợ bỏ chạy. Thấy vậy, Lão bà liền đứng dậy, tới bàn thờ Tổ lấy một ly rượu cúng và cây ba đốt nhang khan khua gì đó, sau đó bà phun rượu và khoán nhang lên cô bé. Chỉ có thế mà cô bé tự nhiên im lặng, sợ sét như chó phải pháo. Người ta đưa cô vào nhà và sau ba lần trục Vong bằng ba con gà trống, bữa nay cô bé trông đã tỉnh táo và ngồi thẹn thùng bên cạnh bà mẹ, nghe người ta kể chuyện của mình. Thấy vậy, tôi vội hỏi Thầy Bảy: Bác ơi, Trục Vọng làm bằng gà là như thế nào ạ? Ông Thầy mỉm cười nhìn cái thằng tôi như thương hại và nói: - Nếu cậu muốn biết, sáng mai dậy sớm mà coi. Đêm đó tôi giang võng nằm ở hàng ba, tuy có rượu rồi mà tróc Trần Văn không ngủ được. Xung quanh tối đen như mực, chỉ nhìn thấy những bóng cây tối om hàng. Trên bàn thờ Tổ, còn leo cho vài ngọn đèn dầu và những cây nhang đỏ ối. Nhìn kỹ gần bàn thờ Tổ tôi còn thấy có một cái bàn thấp hơn, trên đặt mấy hòn đá lớn nhẵn mỏng như những hòn sỏi nhưng rất to. Trước đó mấy hòn đá cũng có bát nhang và đồ cúng như những bàn thờ khác. Không biết tại sao lại thờ những cục đá đó nhỉ, tôi loay hoay với những câu hỏi và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Một hồi chuông vang vọng trong không gian khiển cho tôi tỉnh giấc. Nhìn ra ngoài Trời mới vừa treo sáng. Đó đây, tiếng gà báo sáng rap rộn. Trong ánh nến lung linh trên bàn thờ và hương khói tỏa như muốn làm kẹo lại không khí lành lạnh của buổi sáng mai, tôi thấy Ông Thầy Bảy cùng các con và gần chức đệ tử đang hành lễ trước ban thờ Tổ. Giả tảng còn đang ngủ ngon, tôi nghe thấy tiếng khan ri ram của Thầy Bảy và đám Đệ tử. Thay nghệ khan kêu các vị chư Phật, các Thần linh đang phi nước, Thần Rừng, Thần Núi ... và cuối cùng là 12 vị Thần Tà: Tà Lục, Tà Hom, Tà Sanh, Tà Sam, Tà sét, Tà Gầm, Lục Tác Tà Hom, Tà Lơn, Thất Sơn, Ông Lục Tà Ru, Ông Chúa leo, Ông Tà Đỏ thay .... còn kêu 72 vị Đại Thần gì đó tôi nghe không rõ. Có một điều lạ là khi làm Lễ, Thầy Bảy và đám Đệ tử đều cởi trần trùng trục, chỉ vận có một chiếc quần Tà lớn. Khoảng gần một tiếng sau, buổi lễ kết thúc, đám Đệ tử tựa ra sân Luyện Quyền cước. Ngày xưa tôi cũng đã từng là lính trinh sát bên rừng Lào, cũng có học qua một vài môn Võ thuật, song những đường quyền của đám Đệ tử Thầy Bảy thật là lạ lùng. Đặc biệt là họ hay đọc một Tràng tiếng gì đó mà tôi không rõ trước khi múa quyền. Những người đang đi quyền có vẻ như múa hay nói như rượu, mắt nhìn thẳng phía trước vô cảm, nhưng những đường quyền bung ra thật là đẹp, khiển một thằng trinh sát rừng Lào như tôi phải thèm muốn. Một điều nữa là nhờ ánh sáng đã khá rõ, tôi thấy trên bắp tay của mọi người đều có săm hình Vũ nữ APSARA của Campuchia. Thỉnh thoảng có người phóng vụt lên cây mít rất lớn trước sân và dùng hai bàn tay cong lại như vuốt Hổ mà cào dọc thân cây. Cây mít Sùi sì và chắc như vậy mà bị lột từng mảnh vỏ như bị một con hổ thật cào xé. Đòn người ra vào cây mít đó cũng như không hề biến sắc không hề cảm thấy đau đớn hay mệt nhoc gì cả. Khoảng hơn 7 giờ sáng, cô con gái út Thầy Bảy bê ra một nồi cháo gà bự tổ chang, tất cả chúng tôi cùng xum vào ăn, vị cháo gà và mùi hành, RAM, mùi tiêu hột lim ngọt thấm vào từng tho thịt . Tất cả ăn uống nhanh chóng và ngồi nghe Thầy Bảy phân công công việc bữa nay. Thật là vui khi tôi biết được sáng nay, Thầy Bảy và đám Đệ tử dùng gà để trục Vọng lần cuối ra khỏi người cô bé nọ. TRỤC THÀNH:
Không biết Lão bà bà và mấy người phụ nữ đã đi từ lúc nào ra chợ, lúc trở về tôi thấy đã bê lỉnh kỉnh những thứ đồ cho một buổi lễ. Một chiếc Tầu buồm bằng thân cây chuối có được làm công phu hết sức, có đủ cột buồm, cờ quạt. Trên Tàu đặt một bộ Tam sên (Trứng + Thịt heo + Tôm khô), Trầu cau, thuốc rê, hai cây cây đèn. Xung quanh Đàn Tràng được treo rất nhiều lá Bua với nhiều khoeng, móc và thêm một số chữ Hán. Nhang, đèn được thắp la liệt trên bàn thờ Tổ. Trái cây, Hoa tươi, luộc gà cũng được đặt Trịnh trọng trên ban thờ. Một cái đĩa lớn để le dao, kéo và một cuộn chỉ trắng để trên bàn. Một chú gà trống chừng 2 Kg đã bị chân trời để bên cạnh. Thầy Bẩy choàng qua người một chuỗi Tràng hạt đen bóng, cùng 4 người Đệ tử đứng ra dàn 4 Thầy góc quanh. Cô bé bị bệnh từ khi thấy Thầy Bảy chuẩn bị Đàn Tràng lại bắt đầu ru lên từng hồi nghe lạnh cả xương sống. Người ta đưa cô bé vào ngồi trên một chiếc ghế thấp trước bàn thờ Tổ, chân cô bé duoi ra và trước hai bàn chân người ta đặt con Tàu và một mâm trái cây. Thầy Bảy và các Đệ tử lầm ram khan Tổ về, tiếng đọc Chú đều đều nghe buồn thăm thẳm. Những người Đệ tử của Thầy Bảy lấy chỉ trắng luôn từ hai ngón chân cái cô bé vòng qua cổ, hai ngón tay cái, hai đầu của sợi chỉ bỏ vào lòng con Tầu được chuối. Thầy Bảy trời mở ra con gà khiển nó kêu quang quác. Thầy cầm tay một con gà, tay kia lấy một chén rượu nhỏ Ngậm một hop, ba rồi cầm nén nhang khoán vào con gà và phun rượu vào nó. Lạ thay chú gà để khỏe như vậy bỗng rum co lại và nằm im thịt mỏng. Thầy Bảy đặt con gà vào giữa hai bàn chân của cô bé gà mà con Van Tran nằm im không hề chịu nhục nhíc. Xung quanh bắt đầu ro lên những hồi Chú lạ tai, tiếng phun rượu Phi Phi, từng hơi rượu được thổi vào khắp người cô bé như những làn sương trắng.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:17 am


Người thì đọc chú, người thì khoán nhang. Họ tự vỗ vào lưng, vào ngực, vào đầu mình nghe đen Djet. Thầy Bảy chuỗi Tràng hạt một tay cầm, tay kia cầm khăn Ấn vuốt dài từ đầu tới chân cô bé. Cô bé ru lên từng hồi man dại, tiếng kêu thật là ai oán như ở đuôi Âm Ty, Địa ngục. Bà Bảy ngồi một bên như đang nói chuyện với ai đó: - Ra mà ăn đi, thức ăn đầy ra đó, xong ta đưa về với sông với rừng, đừng có chết ngoan cố mà uống nhe. Người ta thổi rượu, thổi khói nhang vào miệng, vào hai lỗ tai cô bé thật nhiều. Bỗng Thầy Bảy đến một tiếng quát: Mau ... Cô bé bỗng một tiếng hức lên, vươn cổ như muốn ói. Bà Bảy vội lấy một cái Hồ lô bằng gỗ nhét vào miệng cô bé và vung tay vỗ vào đầu cô bé quát: Ra mau. ... Cô bé bỗng rung mình và tự nhiên xiu gục xuống. Bà Bảy lấy cái Hồ lô gỗ, nhét nắp lại và dán lên đó một đạo Bua rồi để lên bàn thờ. Một tiếng hơn van tuy nhỏ nhưng nghe rất rõ đầy ai oán cất lên nghe sâu thẳm từ chiếc Hồ lô gỗ Con gà này lúc. Trông thật đáng sợ, nó tím tái như vừa qua một cơn đá độ mái sống, máu miệng nó ua ra và lật ngang sang một bên - Nó đã chết hẳn Các Đệ. tử của Thầy Bảy vội vàng dùng Kéo cắt các sợi chỉ, thành phần Gút thì một sợi dây có nhiều Gút quan quanh hai cổ tay cô bé và một sợi tòng quan Teng quanh cổ, trên đó có treo một túi vải nhỏ trong có các Bua đạo. Phần chỉ còn lại bỏ lên Tàu và người ta vội mang cái Tàu buồm được chuối đó ra con sông gần nhà thả trôi sông Cô bé. Thân hình tơi tả nằm Thiêm thiếp được đưa lên tấm ván gỗ cạnh đó. Thầy Bảy Cẩm Lệ con dao, le mấy chỗ ở tran và ống chân rồi nặn máu ra, máu thâm đen như màu mận chín. Người ta cho cô uống nước có đốt những Đạo Bua bỏ vào rồi đắp cho cô bé cái mền. Cô bé chìm vào một giấc ngủ thật sâu. Mọi người xum vào Dọn dẹp và sau đó đi tắm rửa. Mặt trời cũng đã đứng bóng. Một chốc sau, cô bé tỉnh dậy, người ta đưa đi tắm rửa thay quần áo và bắt đầu ăn cơm trưa. Cô bé đã tỉnh táo hẳn và không hề còn có bóng dáng bệnh tật gì nữa, chiều nay cô được phép trở về nhà sau khi được bà Bảy cho một nắm Bua làm thuốc và dặn cách ăn kiêng các thứ Tôi ngồi. Coi từ đầu đến cuối và thật Bàng hoàng với những cái chính mắt mình trông thấy. Chiều nay, Thầy Bảy sẽ cho Đệ tử chở tôi về nhận công tác ở cơ quan mới.
Chiều hôm đó, đúng như lời hứa, Thầy Bảy sai một Đệ tử dùng cái xe Honda 50 cm3 mềm cũ chở tôi về Tân biên. Chúng tôi đi theo đường tắt nên chỉ mất khoảng 30 Km, tuy nhiên đường thì thật là vô cùng khó đi, nhiều lúc phải băng qua cả những dãy mỳ mênh mông. Trên đường đi, theo thói quen, tôi tranh thủ hỏi chuyện cậu thanh niên này. Được biết, cậu quê tận ngoài Xuân Lộc, hồi tháng 3 / 1975 gia đình cậu gồm hai cha mẹ và 9 anh em đủ cả trai lẫn gái, bồng bế nhau chạy về Sài gòn. Tuy nhiên chỉ ít sau đó, Sài gòn thất thủ trước những bước tiến quân vũ bão của phe Cách mạng. Sợ bị trả thù, gia đình cậu lại tiếp tục bồng bế nhau chạy lên Tây ninh, và ở chân núi Cậu, ngay bên hồ Dầu tiếng bây giờ. Hàng ngày, cầu cùng cha mẹ và các anh chị cuốc đất trồng mỳ, trồng điều đắp đổi qua ngày. Cho tới một ngày, có lẽ vì phổi làm quá sức, cha cậu lại bị thêm một trận cảm nên đã mất đi, để lại biết bao nhiêu cơ cực cho người mẹ và chín đứa con còn lóc nhóc. Chẳng biết cha cậu có chết phạm giờ Trung tang liên táng như thế nào đó mà chỉ 3 tháng sau đó, tai họa đau thương, khủng khiếp liên tục đổ lên cái gia đình khốn khổ đó. Đầu tiên là chị cậu vào núi hái cây thuốc để bán cho các tiệm thuốc Nam, bị rắn Hổ Sơn cắn chết trên núi, gần một ngày sau mọi người mới hay. Tiếp theo là hai người anh lớn, đi rà sắt phế liệu, đụng phải trái mìn nổ banh xác, thịt xương vương vãi khắp vùng. Mẹ cậu vì buồn quá nên cũng chỉ hơn một năm sau lại nằm xuống, để lại 6 chị em côi cút giữa dòng đời. Những cái chết thảm thương vẫn chưa chịu rời bỏ gia đình cậu, khoảng một năm sau đó, trong một lần mang cây thuốc về Thị xã Tây ninh bán, chiếc xe đò Lở chở theo hai người chị tháo vật nhất của gia đình bị bể vỏ (vì quá mòn), lật nhào xuống ruộng, làm gần chức người chết không toàn thây, trong đó có hai người chị cậu. Lúc này mấy người còn lại thật sự hoảng loạn, người anh trên cậu, phát điên và ngày một người ta tìm thấy thi thể nổi lên trong nhà cạnh khúc sông. Nhà đang đông đúc là thế, nay chỉ còn ba đứa trẻ lui thui vào ra. Lúc đó cậu còn có người anh 15 tuổi, một người 14 tuổi và cậu 12 tuổi. Một lần, cả ba đi làm cỏ mỳ gần Điện Bà Tây ninh trên núi Bà, chiều về nhà không kịp, các cậu tá túc nhờ nơi cửa Thiền. Ngày đó Điện Bà Tây ninh, vì cuộc chiến cũng hoang tàn sơ xác. Chỉ có một vị Sư già hàng ngày nhang khói trong cửa Phật. Sau khóa tụng kinh tối, Vị Sư già ngồi hỏi chuyện ba đứa trẻ về hoàn cảnh gia đình. Sau khi nghe xong, Nhà Sư lặng lẽ mở một cuốn sách chữ Nho rách nát ra và bấm đốt tay tính toán. Mãi một lát sau, nhà Sư mới cho biết Cha các cậu chết nhằm đúng Ba Trung Tâm Xá, nhị Xá, Nhất Xá. Thật hiếm có người nào phạm vào giờ độc như vậy, chết Trung phạm cả vào tháng, ngày, giờ. Nhà Sư còn cho biết hạn của Gia đình cậu chưa hết và còn rất thê thảm. Ánh mắt đượm buồn, nhà sư nói: - Lẽ ra, ta phải cho các con ở lại đây nương nhờ bóng Phật, may ra mới có thể thoát khỏi kiếp nạn này. Nhưng giờ đây Nhà Phật tan hoang, không biết thân ta có còn giữ nổi mình nữa không - Lực bất tòng tâm - Thật là kiếp nạn. Nói rồi nhà Sư ngồi lặng im, cậu thấy ánh mắt nhà Sư già như ngan nước mắt. Nhà sư già lặng lẽ bước vào chính điện, lấy trên bàn thờ mấy lá Sắc của Mật tông phái thắp hương, thỉnh chuông và lầm ram đọc Chú. Một lúc sau, nhà sư quay lại chỗ ba anh em đưa cho ba lá Sắc và nói: Đây là ba lá Sắc hộ mạng ta vừa xin cho các con. Nhưng trên núi này bây giờ không thể tìm kiếm được Tam Thần nên ta nghĩ rằng không thể giải trừ triệt để oan nghiệp của gia đình các con được. Âu có lẽ đó cũng là số phận Đêm đó nhà sư già ngồi trước Tam bảo đọc. Kinh chú cho tới sáng. Những ngày sau, ba anh em nhà kia vẫn hàng ngày đi làm nuôi thân mượn, hàng ngày lúc rảnh roi, chúng leo lên trên sườn núi Phụng, núi Heo để hái cây thuốc về bán hay đi câu Than lan núi về bán cho các quán nhậu ở dưới Thị xã. Cuộc sống lặng lẽ trôi đi được hơn một năm, cho tới ngày Giỗ người chị cả chết vì bị rắn cắn, bỗng người anh cậu đang ngồi ăn cơm, bỗng nhay bật dậy, nhảy lên giường đứng, mặt mũi đỏ gay, bọt MEP xui ra và nói với giọng lạnh băng: - Ba, má và các anh chị về đón các em đi đây. Nói xong ngã vật xuống bất tỉnh. Mấy đứa sợ quá kêu khóc như ri khiển những người hàng xóm kéo đến chật cả nhà. Nghe chuyện xay ra người ta bàn tán XON XAO mạch và các cậu phải sang gấp Huyện Châu Thành kiếm ông Thầy Bảy để giải nạn cho. Ngay trong ngày, bà con Láng giếng kẻ ít, người nhiều, đóng góp tiền bạc và thực phẩm giúp cho ba đứa trẻ, mượn một có xe lôi chở đồ đạc trực chỉ Châu thành. Sang đến nơi, thật là sui cho ba anh em, Thầy Bảy đi chữa bệnh ở xa, mấy bữa nữa mới về. Cả ba anh em đành làm một cái chơi nhỏ gần nhà để Thay đổi thay về. Trong đêm đó, người anh liên tục lên cơn gầm ru, kêu đổi lấy mạng của cả ba anh em. Đệ tử của Thầy Bảy có qua phụ giúp, nhưng chỉ vài tiếng sau những cơn điên lại nổi lên. Từ trong miệng người anh, hàng Tràng tiếng thổ ngữ lạ tai phun ra như mây bay, gió cuốn. Cả chức Đệ tử của Thầy Bảy đứng xung quanh, kẻ phun rượu, người khoán Bua, kẻ Ngậm dầu phun lửa, những tiếng vỗ vào cơ thể họ nghe chan chát. Con Tà kia càng ngày càng hung hăng chạy, nó cũng lại bàn thờ lấy ba cây nhang đang cháy, khoán những vòng tròn và những nét Bua bí ẩn vào các Đệ tử Thầy bẩy. Một lúc sau, ba, bốn Đệ tử Thầy Bảy bỗng ngã vật ra đất xui bọt MEP, thân lại co rum hình. Mọi người vội khiêng họ lên chiếc chiếu đặt trước bàn thờ Tổ. Phía ngoài kia, cuộc chiến vẫn vô cùng ác liệt, các Đệ tử của Thầy Bẩy vẫn tiếp tục thi triển pháp thuật. Tiếng đọc Chú ngày càng mau, tiếng tự vỗ vào ngực mình ngày càng mạnh. Các đệ tử đã dùng họ lúc này chính bản thân, tay cầm những bó nhang lớn vây quanh con Tà thành một Thế trận Sinh tử. Lúc này, con Tà không còn đường nào thoát khỏi thế trận được bày, mặt khác lại liên tục bị tấn công bằng lửa nên bắt đầu luống Cường, nét Phù nó khoán càng ngày càng chậm. Khi cảm thấy ngày tận thế gần kề, Tà con bỗng hét lên một tiếng lớn, bung người lên cao và đọc một loạt tiếng Chú Lạ tai, tiếng thương xót chú nghe, ai oán, như giận, như hờn. Bỗng nhiên, người anh kế mắt mũi tròn ngược, nhe cặp nành ra, hai tay múa quyền xông vào trận và dựa lưng vào người anh, quay đủ tám cửa bung ra hàng loạt Phù lạ mắt. Ngay lập tức, hai Đệ tử của Thầy Bẩy bị hất văng ra xa. Trận đồ liên hoàn nay đã bị phá. Một chuỗi cười nghe thê lương chợt vang lên từ miệng người anh. Hai con Tà tận dụng thời cơ, tới tập tấn công các Đệ tử còn lại của Thầy Bảy. Họ lùi dần, lùi dần đến sát tận hiên nhà, ngay trước bàn thờ Tổ. Hai con Tà cười vang và đắc thắng chúng hùng hổ tiến về phía bàn thờ Tổ, tính sẽ đá văng bàn thờ Tổ của ông Thầy Bảy. Các Đệ tử của Thầy Bảy người nào cũng kiệt lực, lao đảo đứng thành hàng ngang, lấy thân mình che bàn Thờ Tổ. Hai con Tà từ từ tiến vào ..... Bỗng ngoài ngõ vang vọng tiếng xe Hon da, hai chiếc xe VOT khẩn cấp vào sân. Thầy Bảy và lão bà từ trên yên xe, bung lên nhay qua đầu hai con Tà và đứng chắn trước hàng Đệ tử, lúc này đã lần lược gục xuống.
Thầy Bẩy đứng tấn trước hàng Đệ tử, một chuỗi hạt cầm Tây Trang tit xoay, một tay ông dùng Ấn Hỏa bung ra một lượt bảy lần Linh phù tứ tung Ngũ hoành, miệng liên tục đọc:
"Nhất tung khai Thiên môn, Nhị tung bế Địa hộ, Tam tung lưu Nhân ngôn, Tứ tung sát Quỷ lộ Nhất hoành trừ nạn khổ, Nhị hoành độ Nhân thân, Tam hoành trừ ác tặc, Tứ Hoành trừ. Sát nhân, Ngũ hoành trừ Hung Thần Cấp cấp như Cửu. Thiên Huyền nữ y như luật lệnh ".
Khi Linh phù cuối cùng được phóng ra, hai con Tà vội tìm đường tẩu thoát. Chúng vội vàng quay đầu như muốn phóng thẳng vào trong bụi nước ram MEP gần. Chẳng chậm một giây, Lão bà lấy ra một gói nhỏ trong túi vải Văn Quang qua người và nhanh như điện xét, bà chạy vòng quanh hai Tà một con, vừa chạy vừa tung một chất gì đó màu đỏ như máu thành một vết đỏ vòng quanh chỗ đứng của hai con Tà. (Về sau này mới biết đó chính là Tâm Thần: Thần sa, Châu sa, Huỳnh hoàng). Hải bị Tà con nhớt trong vòng tròn Tam Thần, không còn đường chạy, mắt long sòng sóc, tru lên những hồi man dại. Ở ngoài, theo lệnh ông Bảy, bà lão cùng mấy Đệ tử và còn lại ngồi xếp bằng tay chap niệm CẨN CÔ THẦN CHÚ:
"KHAN KHAN SẮC SẮC NGŨ LANG, CẨN CÔ CẨN CÔ TRÀ BÀN TRÁTỨ ĐẾ, TỨ THÁNH, TỨ THIÊN VƯƠNG.BÁT ĐẾ, BÁT THÁNH, BAT KIM CANG.ĐẦU Đánh HÒA LUẬN Trần Tú PHƯƠNGHÀNG THIÊN MA, HÀNG ĐỊA ĐẠO Makhu ON, TRÂM Tạ MA.ÁN SẮC lệnh, Trạm SẮC lệnh, đào TRÂM SẮC lệnh, TA BÀ HA.HỎA LUẬN TAM KIM CẢNG SÀI THẦNKHƯỚC ĐÁP KIM CANG Trần Thiện MÔNKIM MÔN TỰ HỮU HUỲNH KIM TẢKIM MAO SƯ TỬ ĐẠI KIM LÂNKIM LANG ĐIỆN THƯƠNG AN KIM TẢKIM Nam Kim NỮ KIM HIỆP CHƯỞNGCHẤP KIM Lữ, Kim Tinh BÌNHKIM CANG NHIÊU CHUYỂN KIM PHẬT ĐIỆNBÁ VẠN TỨ THIÊN KIM CANG KINH THẦNVĂN NGỮ THỊNH CHỌN KINHHỮU ĐẮC NHÂN TÙNG CHỌN KINH Tháp Nhị BỘTHẮNG TÙNG Hoa Nghiêm NHỰT TĂNG KINHTHIÊN LỢI CHÂN ĐỘNG KIM CANGĐỊA LỢI CHÂN ĐỘNG KIM CANGPHẬT Đánh CANGDI KIM SƠN TAC HẢI KIM CANGPHAN THIÊN PHÚC ĐỊA KIM CANGTRẤN TRẦN THIÊN ĐỊA KIM CANGMAI VỀ TĂNG THƯ KIM CANGĐẠT Ma LAO TỔ KIM CANGNGŨ BÁ GIỚI HẠNH KIM CANGTHIÊN Hà Trần THẦN KIM CANG .... Ông Thầy Bảy lại lấy ra một gói lớn gồm chín vị thuốc Bắc bao gồm: Thần sa, Châu sa, Hùynh hoàng, Sương truật, Địa liền, Quế chi, A Ngụy, Huyết giác, Đại Hồi nem tới tập vào hai còn tà. Lập tức , đang gầm thét hùng hổ, hai con Tà nhún như chi chi và lật đật Quỳ vải lấy xuống vải để hai ông bà Bảy. Nghiêm sắc mặt bà Bảy hỏi: - Chúng ngươi là ai mà sao dám Ngồng cuồng giết người, chiếm xác , lại còn muốn đạp đổ bàn thờ Tổ của ta nữa, lớn gan thật - Khai mau, không ta cho một chảo Ngũ lôi oanh đỉnh thì vĩnh viễn bất đầu Thái nghe chưa? Con Tà lớn vải lấy vải để hai ông bà Bảy và thưa: - Dạ thưa Đại sư, chúng con chính là những vong hồn của bày rắn Hổ Sơn đã tu luyện lâu năm trên núi Cậu Gia đình chúng con gồm đúng 12 người, đủ cả già trẻ lớn bé, tổng cộng tới 4 Đời. sống dưới chân núi Cậu. Một ngày cách đây 7 năm, trong một trận càn quét, một quả bom 500 Bảng Anh đã thả đúng chỗ gia đình chúng con sinh sống, hơn ôi, thịt nát, xương tan, cả gia đình chúng con chẳng còn một mong nào cả, U mối rất lớn bụi trong mây là nhà của chúng con biến thành một cái ao lớn rộng Hồn chúng con vẫn vơ vẩn ở khu đó để tìm được người thế mạng mình mới đi Thái tháng đầu được .. quá, có gia đình kia gồm mười một người Dọn đến ở trên đất của chúng con. Chúng con cứ luôn canh chừng họ để chờ thời cơ Vận có thể. đã đến khi người cha của họ chết đúng vào Trung tang Tam xa Theo đúng âm luật., chúng con được bắt chín người trong gia đình họ để thế mạng Tuy nhiên. vì không đủ người Thế nên mạng chúng con phải tìm cách bắt nốt mấy người còn lại Chỉ hiềm vì gia đình họ. có tổng cộng mười một người nên chúng con phải theo đến đây, xem ai hợp căn thì bắt nốt cho đủ 12 người, lúc đó Gia đình chúng con mới đầu Thái hết được. Chúng con biết tội của mình, nhưng không thể làm khác được, mong ông bà đại xử lý cho chúng con Thầy Bảy nói mặt nghiêm:. Lũ chúng bây biết đâu Trời cao Đặt cả Họ có gì dày. tội tình gì mà các người giết chết cả nhà của họ, các ngươi có biết không.? Tà Một con vội nhóm đầu lên cai: - Thế Gia đình chúng con có tội gì mà chết tuyệt cả họ, lại chẳng ai được toàn thây Nói rồi? nó gào lên nực nở Thầy Bảy. im lặng, một nét buồn sâu thăm thẳm vương trên nét Một mặt lúc ông mới nói: - Hận thù nên cởi chứ không nên cột, nếu cứ trả thù mãi thì nghiệp oán trùng trùng lấy chi gỡ đây Thôi ta.. bảo hai người nhà, để ta tụng kinh cầu Siêu cho cả họ nhà ngươi được Siêu Sanh Tịnh độ, hưởng công đức của chư Phật Hai người mau trả lại thân xác cho người ta Từ đêm. sẽ ta ngày nay tụng liên tục chín đêm cầu Siêu cho họ nhà người, về báo với gia đình như vậy nhé .. Nói rồi ông quát nhỏ một tiếng: - Mau Lập tức hai cái. thân xác kia dãy dua và lăn ra đất bất tỉnh Côn Tà đã ra đi Ngay đêm đó,. Ông bà Bảy. và đám Đệ tử lập Đàn cầu Siêu thực lớn cho họ nhà Rắn đủ chín ngày đêm liên tục Hải người anh đã. được trả xác vẫn còn ngây ngây dại dại, ông bà Bảy phải chữa cho cả tháng sau mới khỏi. Đám Đệ tử cũng phải mất cả tuần sau mới lại Từ đó được người., Ông Thầy bảy lại có thêm ba Đệ tử Pháp hàng ngày và học thuật cùng ông bà chữa bệnh cứu người Mấy năm đã trôi qua, không ai còn nghe thấy gì về họ nhà Rắn Hổ Sơn trên núi Cậu. nữa, ngoại trừ khoảng nửa tháng sau trận đó, một cô bé đang ngồi chơi bên hè bỗng chap tay cung kính vải Ông bà Bảy: Gia đình con xin cảm ơn Đại sư ngàn lay. Chúng con đã được Siêu thăng.
Công ty tôi về công tác là một công ty chuyên về trồng cao su của Tây Ninh. Những ngày đầu mới nhận công việc bận rộn, tôi tạm quên đi câu chuyện vừa qua. Mải mê với những chiếc máy kéo, máy ủi và đội xe KAMAZ, gần một tháng sau tôi mới có dịp về lại Châu Thành. Đường bữa nay có vẻ như gần và tốt hơn nhờ tôi lấy một chiếc xe ZEEP lùn của công ty sang thăm ông thay. Ghé qua chợ Tây Ninh, tôi kiếm mấy chai rượu và một mớ mồi gồm có cá suối và thịt rừng lên để nhậu với các chư huynh đệ học trò Thầy Bảy. Gần tới nhà Thầy, từ xa tôi đã thấy một đám đông, túm năm, tum ba trước ngõ. Đánh vội chiếc xe vào dưới tán cây dầu cạnh nhà, tôi lật đật chạy vào nhà. Ngay trên bộ ván vẫn Gianh cho khách nằm là một người đàn ông, mình có thể đặt cước máu, một cánh tay bị chặt gần như Lặc lia, máu phun ra có vòi. Thầy Bảy và mấy học trò đang dùng chiếc áo nâu cơ quan lại gắng mà không cầm được. Từ trong nhà, bà Bảy nhanh nhẹn đi ra, miệng nhai cái gì đó xanh le, gạt mấy cậu học trò ra và phun vào chỗ bị chặt tay, máu vẫn phun Sùi bọt. Thật lạ lùng, gần như lập tức máu ngừng chảy. Thầy Bảy vội thắp mấy nén nhang trên bàn thờ Tổ, rồi cùng bà Bảy chap tay liên tục đọc Chú. Một lát sau, người bị nạn từ từ mở mắt ra. Đó là một người đàn ông trac trên 60 tuổi, có lẽ là người Chàm. Tuy máu me đầy người và một cánh tay đang phổi đứt sắp lang, nhưng thần sắc của ông ta vẫn còn oai phong, làm liệt lắm. Đặc biệt khi vừa mở mắt ra, nhãn lực của đôi mắt ông có một cái gì đó ma quái khiển cho tôi phải rung mình. Thầy Bảy vội sai mấy cậu học trò dùng xe lôi, đưa gấp người đàn ông đó về bệnh viện Đa khoa Tây Ninh Khi mọi người đi rồi và đám. Đông đã giải tán, ngồi bên ly rượu, tôi mới từ từ hỏi Thầy Bảy về đầu đuôi câu chuyện. Theo lời Thầy Bảy, thì đây là một võ sư lừng danh của Tây Ninh từ trước chức hàng năm. Ông này người Chàm và là một võ sư theo hệ phái Thất Sơn Thần quyền. Không biết ông đã từng học võ ở đâu và từ bao giờ, nhưng năm cách đây hơn chức đã là một đại cao thủ trong làng võ nghệ Tây Ninh. Các cao thủ từ khắp nơi trên đất Nam bộ, đều đến kiếm ông để tỉ thí so tài và lần lượt bị ông đánh bại. Những đêm ông luyện võ, quang cảnh thật là rung ron. Sau khi thắp nhang trên bàn thờ Tổ, ông bỗng như một người khác hẳn, nói nói, tỉnh tỉnh, đi lại như người mộng du. Nếu một người nào đã học qua các trường phái võ khác, thấy vậy không khỏi phải bật cười. Ông cứ la đà, tay chân trông cứng quèo, đi lại Liêu siêu, chẳng ra thế võ nào cả. Vậy mà khi gặp đối thủ, nhất là những bậc siêu quần, những thế võ huyền diệu được bung ra như điện giật của đối phương, ông đều hóa giải nhanh và đơn giản đến mức không ngờ. Có một điều lạ là, theo nhận xét của những người nghiên cứu võ thuật, những thế võ của ông hình như không thuộc một môn võ nào cả mà lại hội tụ được tất cả các môn võ mà người ta được biết. Và cũng chưa kịp tàn một cây nhang, đối thủ của ông bị một Đòn đơn giản đến ngờ phải không tit văng xa ra, ngất lim. Những khi không có đối thủ, ông thường phải nhờ đến rừng mít nài cạnh nhà để luyện. Chỉ trong một thời gian ngắn, cả rừng mít nài xum Xue xanh tốt đều trui hết vỏ và chết khô gần hết. Thầy Bảy nghe nói vợ ông đã chết từ lâu và theo ông chỉ có một đứa con trai độc nhất chừng hơn mười tuổi. Những năm gần đây, hai cha con ông không ở một chỗ cố định mà thường lưu lạc đi khắp Sài Gòn - Lục tỉnh vừa dạy võ vừa mãi võ bán thuốc. Thuốc của ông chỉ là những thứ lá cây rừng, nhưng chữa được bá bệnh, nhất là cầm máu và chữa sưng chắc. Ông có một chiếu khiển tất cả những người chứng kiến đều chết khiếp và có lẽ tại Tây Ninh bây giờ, những người trên 70 tuổi đều còn nhớ và kể mãi cho con cháu nghe. Cũng nhờ chiêu thức độc bản đó mà thuốc của ông bán chạy như tôm tươi. Theo lời Thầy Bảy và sau này đi hỏi thăm các vị bô lão trong vùng tôi mới tin là việc thật. Đó là vào những buổi chợ đông, hai cha con ông thường khoanh một hàng rào bằng dây làm thùng chỗ mãi võ bán thuốc ở giữa chợ. Hai cha con lần lượt biểu diễn những bài quyền theo Phái Thất Sơn Thần quyền, lúc dũng mạnh như cọp beo, lúc lại như người say rượu. Một số người đứng xem khoẻ mạnh được ông chọn, bước vào vòng dây, ông đưa cho họ những cây Mác sắc như nước sáng loãng và bảo họ Chém dùng hết sức vào hai cha con ông. Lúc đầu họ còn e ngại, sau nhờ ông và khuyến khích mọi người nên đã dùng hết sức Chém túi bụi vào hai cha con, không biết phân chân tay, đầu cổ. Nhưng thật lạ, chỉ một bước chân hờ hung, Chech choạc, cả hai đã tránh được những nhát như Mác tới Chém mưa. Gần tới cuối, cậu con trai như có chủ định, cố tình nhận một liệt Mác Chém thấu bả vai, máu tuôn ra xôi xả. Thấy vậy, người cha lấy một gói thuốc để trên bàn, nhai nhỏ và phun vào vết Chém, lạ thay, chỉ tích tắc sau, vết Chém như lành hẳn không còn có cả dấu vết của sẹo. Mọi người liền đổ xô vào, chen nhau mua thuốc của ông. Chỉ một lúc sau, gánh thuốc hai cha con mang theo đã hết nhẵn. Những ngày phiên chợ đông, nhất là những ngày có lễ hội, số người các tỉnh đổ về Tây Ninh đông như kiến, cha con ông lại biểu diễn tuyệt chiêu của mình. Ông cho cậu con ngồi lên một cái ghế, bên cạnh là một cái bàn để cây mã tấu sắc như nước. Sau khi mọi người vào xem xum đông nghịt, ông cầm cây mã tấu múa một bài quyền xung quanh chỗ cậu con trai đang ngồi. Miệng niệm chú ri ram, ông chạy vòng quanh cậu con trai và bất ngờ hét lên một tiếng, ông tung người cầm mã tấu Chém thẳng vào cổ cậu con trai. Cái đầu lâu lông lốc tuột văng ra xa, cái cần cổ bị phạt ngang máu phun ra có vòi. Cái thân người lật ngang ty vào thành ghế. Mọi người ru lên, vài người yếu bóng qua ngã lăn ra đất. Một không khí im lặng chợt bao chùm cả một khu đất rộng trong chợ. Những khuôn mặt không còn một giọt máu, ngơ ngạc.
Mặt không hề biến sắc, ông thay võ người Chàm, đốt ba nén nhang, nhiều khoán vòng trong không trung, miệng Lảm nhảm đọc những tiếng chú lạ tai, bỗng ông chỉ thẳng ba nén nhang về phía cái đầu lâu lúc này nằm lăn lóc, dính đầy bụi đất cạnh lum cây hô: MAU. Một làn khói xanh cho phép từ phía cái thân thể không đầu lan ra, lan nhanh dần và phủ chùm lấy cái đầu lâu ở dưới đất. Làn khói càng ngày càng mờ mit, che mờ hết cả một khoảng sân rộng. Khi làn khói tan hết, mọi người nhìn về chiếc ghế, nơi cậu bé ngồi, thì lạ chưa, cậu bé lại tươi cười đứng dậy, chẳng hề có một dấu vết nào của cuộc Xử trạm vừa rồi. Mọi người cùng ua cả lại, mọi người sờ nan, xem xét kỹ càng nơi cổ của cậu bé. Thật là kinh ngạc, nơi cổ của cậu bé không hề có chút theo nào, chỉ thấy một vòng tròn hơi đo đỏ, mỏng dính còn xót lại. Phép lạ của thay Chàm, một đồn mười, mười đồn trăm, lan đi khắp Sài Gòn - Lục tỉnh, nhất là trên những chuyến xe đò hành hương về Toà thánh Tây Ninh hàng năm mỗi độ xuân về. Trong những người khách hành hương về thăm Toà thánh Tây Ninh và Via năm nay Bà có một người Chà Và (Ấn Độ) cũng đi cùng. Từ nhiều năm nay, ông đã nhiều lần nghe kể về câu chuyện giật gân và dị thường của thay Chàm Tây Ninh. Lần này ông quyết đi Tây Ninh để chứng kiến cho bằng được. Người Chà Và này cũng là một thay Bua Ngãi rất tinh thông, xuất thân từ Ấn Độ, nhưng nhiều đời đã sinh sống tại miền Thất Sơn - Châu Đốc. Con gà thường tức nhau tiếng gáy. Các thầy luyện Bua phép cũng vậy. Thay nào sau khi hạ sơn, ngoài việc đi cứu nhân độ thế, cũng thường tìm những thầy khác cao tay để kiếm chỗ Thị Thơ sở học của mình. Chính vì vậy mà nhiều trận chiến mưa gió não nề đã nổi lên kinh Thiên động Địa. Chuyến đi tây Ninh này của thay Chà Và cũng không ngoài mục đích đó Trong lúc đó,. Ông thay người Chàm Tây Ninh, như thường lệ, tới rằm tháng Giêng là lễ hội Diêu Trì KIM MẪU, tại Tòa thánh Tây Ninh; Hải cha con ông lại tới khu sân vận động bây giờ, lúc đó còn là một bãi đất trống để biểu diễn võ thuật và cuối ngày đó, thế nào cũng có biểu diễn màn Xử trạm rung ron như đã kể ở phần trên. Sinh nghề, tử nghiệp. Núi cao lại có núi cao hơn. Sóng biển thì lớp sau đè lớp trước. Không ai có thể dè một vụ lưu huyết rung rộn đang chờ hai cha con nhà thay Chàm Tây Ninh kia. Như thường lệ hàng năm, tại khu bãi đất rộng cạnh Toà tháp hình bát giác giữa đường vào cửa số 2 chợ Long Hòa, hai cha con ông thay Chàm lại khoanh một vòng rộng làm nơi biểu diễn võ thuật. Khác với hàng năm, Rằm tháng Giêng năm nay, dân khắp Sài Gòn - Lục tỉnh đến dự lễ hội Diêu Trì KIM MẪU thật là đông. Hàng ngàn xe đò các loại, đỗ chật cả khuôn viên Tòa Thánh, đỗ dài dang dac suốt từ cửa số 2 lên tới Cầu Vườn Điều, từ cửa số 2 tới tận Long Thành Trung. Khắp nơi, chỗ nào cũng thấy người là người. Thật là một quang cảnh "ngựa xe như nước, áo quần như nêm". Cái nắng mùa này cộng với hơi người bốc lên khô khốc. Người ta trải ni lông, chiếu nộp nằm ngồi la liệt trong khuôn viên Tòa Thánh, dưới những bóng cây to. Đêm nay lễ hội Diêu Trì KIM MẪU sẽ thật tưng bừng. Từ sáng sớm, các chức sắc trong Tòa Thánh đã thúc Giục mọi người, hối hả Bầy ban các Biện thờ của Đức mẹ Diêu Trì. Một con rồng lớn bằng trái cây xếp lại dài hàng mét chức đã làm xong được. Trên thân con rồng là hàng vạn trái cây các loại, xếp thành hình Rồng, có đầu đuôi chuyển động được. Cặp mắt được trang điểm bằng những bóng đèn chớp tắt liên tục. Hình Đức mẹ cũng được trang điểm bằng những bức tranh bằng trái cây, hoa lá và hàng vạn bóng đèn mầu thật là uy nghi lộng lẫy. Những chảo cơm và thức ăn khổng lồ được liên tục Dọn ra tại Trai Đường, mọi người đến dự lễ hội cứ tự mình ăn uống miễn phí, ăn xong chỉ cần xếp chén, đũa lại là những bà, những chị đi làm công quả tại Tòa Thánh Dọn sạch sẽ ngay. Hàng chức tấn gạo và thức ăn chay đã được đem ra đãi những người đi hành hương. Hàng trăm chức sắc, và người phụ lễ mặc quần áo dài trang đứng hai bên cửa vào Tòa Thánh để hướng dẫn cho khách hành hương vào lễ tại Điện trung tâm. Trong số những người đó hướng dẫn, có nhiều bà, nhiều chị mặc đồ trắng, nói tiếng Anh, tiếng Pháp tuyệt hay để hướng dẫn cho khách ngoại Quốc. Trở lại với sân diễn võ thuật của hai cha con ông thay Chàm. Từ khoảng 3 giờ chiều, hàng ngàn người đã xum xịt vòng trong vòng ngoài nơi sân diễn của hai cha con. Người ta vừa xem vừa kể cho nhau nghe những kỳ tích mà hai cha con đã thực hiện trong các năm trước. Cả một xe Tà rec (xe do 2 con bò kéo, bánh bằng gỗ) chở thuốc của hai cha con, nhanh chóng vơi đi trông thấy. Vui vì năm nay bán được nhiều thuốc, mặc dù nóng, dù mệt, hai cha con vẫn liên tục thay nhau đi những bài quyền Thất Sơn huyền ảo. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy sau mỗi bài quyền vừa được trình bày. Trong dịp này, rất nhiều cao thủ trong các môn phái võ khắp nơi cũng về dự, nhiều người xin thử tỷ thí với người cha, nhưng chỉ chưa tàn nén nhang người nhà đã phải khênh ra ngoài cấp cứu. Đứng lẫn lộn trong đám người đến xem, ông thay Bua người Chà Và cũng không bỏ sót một chiêu thức nào của hai cha con thay Chàm Tây Ninh. Ánh mắt của thay Chà Và ánh lên những nét tức tối, ghen Tỵ khó tả. Một cuộc thư hùng kinh Thiên động Địa sắp diễn ra. Trời đất như muốn u sầu, tiếng chuông từ Tòa Thánh vang vọng thinh không. Không khí như muốn nén lại, cô đặc giữa vòng tròn trùng điệp trước cửa số 2 chợ Long Hòa.
Khoảng hơn 4 giờ chiều, khi sự cuồng nhiệt của khán giả xung quanh đã lên cao độ, hai cha con ông thay Chàm bắt đầu tiết mục tủ kinh dị của mình. Cậu con trai mặc áo choàng đỏ được đưa ngồi lên một cái ghế tựa bằng gỗ vững chắc. Bên cạnh đó là một cái bàn thấp để một cây mã tấu sáng loãng. Một hồi trống vang lên dục động cả khu vực. Điểm vào đó là những tiếng công vang lên Tùng .. Bli .. tùng ... Bli ... Tùng ... Bli (nghe như ngày xưa nhịp trống tùng xẻo). Ông thay Chàm tây Ninh mặc bộ võ phục màu đen, chân đi thoăn thoát Bata một bài quyền huyền ảo. Ánh nắng chiều nghiêng nghiêng, soi rõ bộ mặt ứng hồng và tấm Lâm Chí những giọt mồ hôi. Khi ông thay Chàm cầm cây Mã tấu Huo lên mấy vòng, ánh thép loãng loãng cắt nhỏ ánh nắng chiều ra hàng ngàn mảnh vụn. Bỗng nhiên, một cơn trọt cuốn từ trên cao xuống đất, bụi gió mù mit cả một vùng. Lá cờ Đạo trên đỉnh tháp bát quái bị cuốn tung xuống đất. Sung sờ, ông thay người Chàm dừng múa, giơ tay bấm độn một que - Sắc mặt ông chợt tái đi, mồ hôi đổ ra là chã trên khuôn mặt dày dạn gió sương. Nếu tinh ý, người ta thấy tay cầm mã tấu của ông hơi chạy chạy. Những người bên ngoài lúc này vì sự cuồng nhiệt đã lên đến cao độ nên không mấy người chú ý đến những cử chỉ khác lại đó. Tiếng hô đồng thanh bên ngoài như những đợt sóng dậy: Trâm đi - Trâm đi - Trâm đi .... Hơi khác với mọi lần, ông thay Chàm đi về phía bàn thờ Tổ dựng gần đó thắp ba nén nhang. Trong ánh mắt của ông lúc này có cái gì uốn ướt như muốn khóc. Đám người bên ngoài vô tình vẫn gào la vang dậy: Trâm đi - Trâm đi - Trâm đi ... Không thể đừng khi cười lên lưng cọp, ông thanh thay Chàm cầm mã tấu tiến lên đứng cạnh cậu con trai duy nhất. Trông lúc này, người ta có cảm tưởng như ông Tiều tụy hẳn đi, mái tóc như bạc thêm, lưng xuống hẳn công như. Tuy vậy, những cử chỉ đó diễn ra rất nhanh, hầu như không ai nhận thấy. Đường mã tấu ông bắt đầu thi triển những vòng sánh sáng xung quanh cậu con trai. Xuyên qua ánh mã tấu đang phát ra, bỗng ánh mắt của ông chợt như xoáy vào mặt của một người mặc đồ đen đang đứng gần sát vòng dây. Hai ánh mắt giao nhau sâu thẳm và hình như có tiếng sấm và những tia lửa căm hờn dội vào nhau tung toe từ hai ánh mắt đó Ông thay Chàm Tây Ninh chợt hiểu ra điều mình vẫn cánh cánh trong lòng từ. Độ lúc này. Vậy là kẻ tử thù của hai cha con ông đã có mặt nơi đây. Than ôi, ông Trời sao không gây nên cảnh oai OAM, cùng cực thế này. Hai kẻ tử thù gặp nhau ngõ cụt .... Nên - Không nên - Nên - Không nên ?????? Kẻ đó chính là ông thay Chà Và người Ấn - Kẻ thù không đội Trời chung của ông đã đứng đó, ánh mắt lạnh leo như khoan tới tận tâm can, trí óc của ông thay Chàm. Rất nhanh, ánh mắt của ông Thầy Chàm Tây Ninh như sắc lại, ta có thể nhìn thấy trong đó cả một biển Trời ai oán, căm hờn. Đường mã tấu mỗi lúc một nhanh, tiếng Chém vào không khí nghe sung sụt, vi vu, một tiếng "Tả" vang lên và đường mã tấu nhằm cậu con trai Chém cổ xuống thẳng. Phía bên kia, thay Chà Và ông cũng tay bắt quyết, mắt nhắm nghiền, miệng phun ra từng chuỗi tiếng chú Pa Li như đổ nước. Soat .... ánh mã tấu lướt qua cổ cậu con trai ngọt sốt, cái thủ cấp lăn lông lốc ra xa, máu từ cái cần cổ lại phun ra có vòi. Trong đám đông xung quanh đó, tiếng ru con người dại cất lên, nhiều người ngã lăn ra đất ngất lim.
Vẫn như thường lệ, ông thay Chàm đi về phía bàn thờ Tổ thắp ba nén nhang, sau khi lầm ram khan vải với vẻ hết sức thành kính, ông khoán nhiều vòng, nhiều không gian trong ngoặc. Sau đó, hướng về cái đầu lâu đang lăn lóc dưới đất, ông chỉ thẳng ba cây nhang về phía đó hô: MAU. Một làn khói xanh như thường lệ bắt đầu hiện ra từ cái xác không đầu, lan dần, lan dần ra và phủ lên cái đầu lâu lúc này như đang muốn của quậy. Phía bên ngoài, ông Chà Và thay mặt biến sắc, vội tay bắt Quyết, miệng Lảm nhảm. Những người kế bên chỉ nghe thấy nho nhỏ: "Thần Phụng MAHAROGA thỉnh ..." . Ngay lập tức, thấp thoáng trong làn khói xanh có hai con rắn vàng cực to, trên đầu có mạo đỏ, nhào lộn như muốn vật nhau với cái đầu lâu thay Ông Chàm phóng như bay về nơi chiếc xe chở Tà rec. Thuốc, rút đánh roạt ra một đôi kiếm cổ, ngắn chừng 5o cm. Tay cần song kiếm, miệng đọc chú khẩn trương, ông phóng mình về phía đôi rắn Thần đang nhào lộn xung quanh cái đầu lâu. Muộn rồi mất, phía bên kia thay ông Chà Và phất tấm khăn Ấn Tổ màu đỏ một cái, đôi rắn lập tức biến mất, một làn gió thổi thóc lại, mang theo mùi tanh hôi khủng khiếp. Mọi người xung quanh thấy vậy đua nhau mà chạy. Khi khói tan, chẳng ai nhìn thấy ông thay Chà Và đâu nữa. Trên bãi đất trống, ông thay Chàm Tây Ninh đang phải bám lấy vành bánh xe roc thở Tà rec, miệng ông trào máu tươi, hai thanh kiếm cổ lăn lóc trên mặt đất. Phía bên kia, cái xác không đầu đổ gục xuống, nằm vắt ngang qua thành ghế thâm đen. Ngước mắt về nơi cái đầu lâu nằm lúc trước, bất chợt ông thay Chàm Tây Ninh chợt gục xuống ..... CÁI ĐẦU LẦU ĐÃ mặt biển .....
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:18 am


Ngay chiều tối hôm đó, nghe tin dữ, Thầy Bảy vốn là một người bạn cũ thân thiết của ông thay Chàm Tây Ninh vội vã cùng bà Bẩy và một vài Đệ tử thân tín đóng một có xe ngựa, tốc hành xuống cửa số 2 chợ Long Hòa. Sau khi mua hôm đặt cái xác không đầu của con trai Chàm thay vào đó, đưa thay Chàm lên xe để ông Bẩy trị thương, thu Dọn đống đồ nghề hoang tàn vương vãi khắp nơi, tất cả cùng về nhà Bẩy thay ông. Đám tang con trai ông thay Chàm Tây Ninh diễn ra rất lặng lẽ, nhưng sự thù hận đã bốc cao ngùn ngụt trong đám chúng sinh. Ông thay Chàm vẫn bó gối ngồi trên bộ ngựa, riêng thay Bảy, ánh mắt sắc lạnh đứng trước bàn thờ Tổ nhìn xuống với đám đệ tử đang Quỳ trước cái hôm đầu không xác đựng. Rất lâu sau Bảy mới thay khe khang nói với đám đệ tử: _ Thầy Chàm Tây Ninh vốn là bạn của ta từ 30 năm trước. Ngày xưa ta và bà Bảy cùng với thay Chàm vốn là huynh đệ đồng môn học tại Tà Lơn bên Cam Pu Chia. Bà chúng ta thay tuy chung một, nhưng học ba môn khác nhau. Bà Bảy chuyên học về các môn sát phạt, thư, em. Thầy Chàm chuyên học về bốc thuốc, côn quyền. Còn riêng ta, ta chỉ học cách mở Thư, mở Ngãi, mở Em và các môn khác hữu sự trong cuộc đời. Thầy ta đã g bà Bảy cho ta, mặc dù Gia thế nhà ta so với nhà bà Bảy còn kém xa. Bà Bảy, chịu theo lời Thầy mà theo ta đến ngày hôm nay. Còn riêng thay Chàm Tây Ninh, sau khi Thầy ta cho hạ sơn, đã đi khắp nơi hành Bồ Tát Đạo, cứu đời. Trong những chuyến đi Ta bà của mình, vì hành hiệp cứu người lương thiện, gây thù chước oán với Ma giới nên Ông cũng không thiếu kẻ thù. Ông Thầy Chà Và kia là một trong những kẻ tử thù của ông thay Chàm. Ngày xưa, vì cứu một phụ nữ con một Điền chủ giầu có ở tỉnh Sóc Trăng mà gây nên họa ngày nay. Chuyện là như thế này: Ngày đó, khắp cả tỉnh Sóc Trăng từ Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Long Phú, Vĩnh Châu, Cù Lao Dung đến tận Ngã Năm cả người Việt, Khme, Hoa đều phải kinh sợ một ông thay Bua người Ấn Độ. Không biết dòng họ ông này từ Ấn sang Việt Nam từ bao giờ, nhưng khi đến Sóc Trăng, ông ta đã là một tay gian ác Khet tiếng thâm độc về các môn Thư - Phù - Chú - em. Đặc biệt ông ta rất thành thạo các môn luyện Thiên Linh Cái. Nói về các loại Thiên Linh, các con cũng đã từng nghe bà Bảy chỉ rồi đó. Thiên linh Thái nhi, Thiên linh sọ người và các loại động vật như trâu bò, ngựa, hổ, báo, mèo ... Thiên Linh bằng những loại động vật sống như rắn, bò cập .. Thiên linh bằng cây như chuối hột. Trong các loại Thiên linh đó thì thiên linh Cái, tức là Thiên linh Thai nhi là man rợ nhất, vì khi luyện phải hy sinh cả tính mạng của con lẫn mẹ. Thời gian đầu về Sóc Trăng, ông thay Chà Và mở một quán cà ri dê ngay bên bờ sông Hậu. Vì món ăn của ông ta đặc biệt và rất ngon nên chẳng mấy chốc đã nổi tiếng và đông nhất vùng. Dần dần ông ta phát lên giầu có và trở thành một đại gia khuynh đảo cả một vùng. Ông ta đã lấy đến 5 bà vợ, nhưng lạ thay, chỉ được trên dưới một năm là các bà đều phải chết bất đắc kỳ tử. Dân trong vùng đồn đại là ông ta có số sát vợ. Các bà, các cô vì thấy ông ta nhà giầu, lại to lớn, khỏe mạnh, ăn nói có duyên nên cứ lao vào như thiêu thân, bất chấp Thần chết Rinh dập. Tại cái cồn nhỏ phủ đầy dừa nước và cỏ cây hoang dại 5 ngôi mộ xếp thành một hàng thẳng của 5 bà vợ ông ta, cũng không làm các bà, các cô chun bước. Có một ngày, ông thay Chàm Tây Ninh đi qua vùng bán thuốc đó. Ngồi nhậu ở quán Cà ri dê, nghe chuyện dân trong vùng đồn đãi về ông thay Chà Và thì nghi hoặc lắm. Sau đó ông thay Chàm mới âm thầm điều tra và phát hiện ra một sự thực khủng khiếp. Hóa ra là ông thay Chà Và cưới vợ về không phải với mục đích ái ân hay giúp việc, mà là ông cưới về để luyện Thiên Linh Cái. Tất cả 5 bà vợ đều được ông ta cưới về, sau khi ăn ở một thời gian thì có Thái Lan. Đêm nằm, ông ta giả bộ tình tứ, tay vừa xoa xoa cái bầu, vừa ngọt ngào hỏi người vợ: - Em cho ta đứa con này nhé. Bà vợ thật vô tình và nghĩ đơn giản nên trả lời: - Con của em anh cũng là của con, em cho anh đó. Trong bóng tối, hắn nở nụ cười mãn nguyện và ánh mắt chợt sắc lạnh đến rộn người. Sau khi tính đủ ngày tháng cho cái Thái, lão thay Chà Và lập tức bắt bà vợ tắm rửa thật sạch sẽ, rồi bất ngờ, trong đêm tối hạ thủ giết chết người vợ. Hắn mổ bụng những người vợ đó ra, lấy cái Thái nhi và bắt đầu hành trình tội lỗi của mình: Luyện THIÊN LINH CÁI.
Sau khi lấy Thái nhi khoảng 100 ngày tuổi ra khỏi bụng mẹ, Chà thay lão dùng một số loại rễ cây rừng theo một công thức bí truyền, sao tẩm và đặt trong một cái keo thủy tinh trong suốt. Lão thiết lập Linh sàng tại ngay khu cồn có chôn xác mấy người đó. Một Cái Lân nhỏ bằng gỗ được dựng lên ngay gần nấm mộ mấy. Cái Lân tuy nhỏ nhưng vững chắc và luôn cửa đóng then cài. Vì là nằm chơ vơ trên một cái cồn nhỏ trên sông Hậu, nên ở khu vực này hầu như không có bóng dáng người nào đi qua, mặt khác do xung quanh mọc đầy dừa nước và cây cỏ ngút ngàn nên Cái Lân nhỏ của lão chẳng ai phát hiện ra cả. Linh sàng được kê trên một cái bàn gỗ cỡ ngang bụng người. Trên đó Lão bày Sắc Tổ của môn phái, một cặp Thất tinh kiếm làm từ thân cây Dâu hàng trăm tuổi. Một ngọn đèn dầu đậu phộng được thắp suốt ngày đêm. Ngoài ra còn một số những đồ vật có hình thù kỳ dị chắc là đồ của môn phái Lão. Đặt đằng trước bát nhang là cái keo thủy tinh, trong có chứa cái Thái nhi đã tẩm thuốc kỹ lưỡng. Bông, nhang, trái cây, và hàng xấp tiền giấy Phù vàng, trắng, đỏ, những thứ đồ chơi của trẻ con, quần áo trẻ con được bày la liệt trên Linh sàng. Cứ hàng ngày vào giờ Tý và giờ Dậu là Lão lại lang lặng bơi một chiếc xuồng Ba Gia Sàng cồn đó để luyện. Trên những ngôi mộ của mẹ các Thái nhi, lão trồng rất nhiều những cây Vạn thọ màu bông vàng rực. Mùa này là mùa khô nên Lão không phải sợ tới việc có sấm sét trong khi luyện. Đây là điều tối kỵ khi luyện Thiên Linh Cái - Bởi có thể bị sét đánh bất tử. Việc luyện Thiên Linh Cái này cũng đổi hỏi phải ngay bên cạnh dòng chảy nước, chính vì vậy Lão chọn địa điểm trên cồn đất giữa sông hậu Lão rất đắc ý. Một việc nữa Lão cũng rất là thích làm Cối cây mọc um tùm, lâu lắm không có dấu chân người lui tới nên Âm Khí khu vực rất mạnh này, hầu như không có bóng nắng doi toi Mai Lan của Lão. Tới giờ luyện, Lão thắp nhang trên bàn thờ và dùng những câu chú cổ lạ tai, âm điệu nghe rất âm u, ai oán, thống thiết như lúc bi thương,, lúc lại ngọt ngào như phủ dụ trẻ con. Lão kêu gọi Linh Nhi bé nhỏ đang nằm trong keo thủy tinh hỗ trợ Lão, hứa hẹn với Linh Nhi đủ điều. Sau khi luyện, Lão lại ra mộ những người vợ thắp nhang và cũng khan hứa đủ điều. Mặt khác Lão cũng dày công chăm sóc những cây bông Vạn Thọ trên những ngôi mộ cho xanh tốt. Những cây Vạn Thọ này rất quan trọng vì nó sẽ cho Lão biết mức độ thành công của việc luyện tới đâu. Thời gian cứ Chầm chậm trôi qua. Lão cứ đều đều luyện tập, thường xuyên thay đồ lễ, thường xuyên đọc Chú phủ dụ, mua chước Linh Nhi. Lúc này là lúc cực kỳ nguy hiểm cho sinh mạng Lão vì thực ra nó đã được gắn liền với Yêu Pháp mà Lão đang tu luyện. Tới gần cuối tháng thứ 3 thì có rất nhiều hiện tượng xảy ra kỳ lạ. Trong khi Lão đọc Chú thì trong không gian có những tiếng động lạ tai bắt đầu vang lên, lúc thì như tiếng trẻ con khóc, lúc thì là những tiếng cười ma quái, lúc thì tự nhiên có trong keo thủy tinh cop lớp tiếng kêu như người đi guốc. Càng ngày càng nhiều chuyện dị thường xảy ra. Nhiều tiếng cười âm u ma quái, những tiếng thở dài não ruột, những lời ma hờn quỷ trách từ xa xăm vang vọng đến trong đầu người luyện rất rõ, thứ Hai một từng chữ từng tiếng vọng vào bên tai, ngay cả ở những lúc bên ngoài Tịnh thất. Và đôi mắt của kẻ tu luyện Tà pháp luôn luôn đỏ rực như ánh than hồng, vì phải vận dụng nội lực khống chế bản thân không được kinh sợ, nếu không thì sẽ bị cái bào Thái oan nghiet đó nhiếp hồn mình ngược trở lại nên điên loạn vạn kiếp bất phục, vĩnh viễn bất siêu sinh. Từng ngày từng ngày mỗi chậm chạp ngày qua, mỗi giờ đều là sự cố gắng phi thường của người luyện, lúc qua khỏi tháng thứ 3 là giai đoạn quyết định thành bại. Thiên Linh Thái nhi qua quá trình hun đúc, phù trợ của cha nó qua các bài chú bí mật và đã thọ đủ khí âm dương nên không còn sợ ánh sáng nữa. Nó đã tự mở nắp keo và ngồi chem che trên miệng keo đôi khi phát tiếng cười sáng sặc nhảy xuống để cho cù, hay hóa ra mặt Quỉ đến như cái mâm Biec xanh như ánh ma chơi đưa ngay mặt người luyện mà nhát, kẻ luyện có thể nhắm mắt hay mở mắt lúc tu luyện, chú niệm, chỉ cần sức định tâm cho vững và đúng phương pháp bí truyền là Thiên Linh Thái nhi nó không làm gì được mình. Tuy Lão có tiếng là gan lý, nhưng nhiều lúc làm quá Thiên Linh, như trêu Lão, thả cái cặp chân xuống trước mặt Lão, sau đó từng thân như bộ phận, tay, đầu mới dần dần hiện ra; Lão phải dùng đến cặp Thất Tinh kiếm gỗ dâu ra trợ lực, mới có thể áp đảo được con Thiên Linh. Lão cũng biết, nếu dùng cặp Thất Tinh kiếm hay dùng Phù, Ngãi dùng nhiều quá, con Thiên Linh kia sẽ lớn mà không sợ Lão nên Lão cũng hết sức hạn chế. Lúc này Lão chỉ cố tâm đọc Chú cho thật nhiều, giữ tâm bất định là cửa rồi cầm chắc thắng. Nếu lão quá lạm dụng những phương tiện như Bua, Ngãi hay Kiếm Thất tinh, thì sau này, nếu gặp đối thủ mạnh hay biết chiều chuông hơn, con Thiên Linh sẽ phản chủ, quay lại giết chết Lão ngay lập tức. Thời gian cứ Chầm chậm trôi đi, khi đủ 100 ngày là việc luyện Thiên Linh đã hoàn tất. Lúc này Thiên Linh giống như một cậu bé ngoan, quy xuống dưới chân cha nó mà Tuân theo mệnh lệnh. Lão làm đại lễ đặt tên cho Thiên Linh, bắt nó phải tuyên thê với Thầy Tổ và chính lão là phải tuyệt đối trung thành. Lúc này cái Thái nhi đã heo quạt chỉ còn một miếng bé bằng bao diêm quét. Lão liền thâu lấy, bỏ vào túi vải đeo ở cổ. Ngay lập tức, Lão nổi lửa đốt cả Linh sàng và Cái Lân, làm cho Thiên Linh không còn chỗ về trú ngụ nữa. Từ đây trên mọi nèo đường người và Quỷ đã hợp nhất. Sau đó người luyện mới ra mộ của người vợ xấu số cúng tế, khăn vải vv ...... và ngắt các hoa Vạn Thọ đã trồng trước đó đem ra bờ sông Hậu gần đó vừa niệm thần chú vừa rải tất cả xuống dưới, nếu tất cả bông hoa ấy đều trôi xuôi nước và chìm xuống thì coi như vong hồn kẻ khuất đã chuyển hoá, đầu Thái ở một nơi nào khác rồi. Còn như nếu có cái bông nào mà trôi ngược dòng nước đó là vong hồn người vợ hãy còn quyến luyến Thái nhi, kẻ luyện phải lập tức làm đàn chiêu hồn người khuất mặt đem về nhà mà thờ Phụng nhang khói đều đặn, người luyện Thiên Linh không bao giờ có vợ được bởi khi lấy vợ thì lập tức sẽ bị Thiên Linh nó bẻ cổ hay vật học máu chết ngay. Có lẽ là ghen dùm mẹ nó cũng nên. Khi ông thầy nào mà có Thiên Linh rồi thì nổi tiếng lắm, chuyện gì nó cũng nhất báo bấm nhất, cho biết trước thành hay bại, lợi hay hại vv .... . Người ta thường thấy Lão nằm trên võng đu đưa mà miệng lâm bấm, thì thầm như đang nói chuyện một mình, đó là Lão đang trò chuyện cùng Thiên Linh cái vậy. Biết được điều đó nhưng ông Thầy Chàm Tây Ninh vẫn kiên nhẫn chờ đợi để có đủ chứng co đưa Lão ra Pháp luật. Nói không ai mà bây giờ thèm tin Lão. Cũng không phải chờ lâu, trong vùng lại xộn xao vì việc Lão thay Chà Và đã đánh tiếng xin cưới cô con gái của một điền chủ giầu có trong vùng. Cô này mới có 18 tuổi, tóc dài, da trắng, mình dây, luôn mặc bộ đồ bà ba màu sáng. Cô đang là mối quan tâm và là nguyên nhân nhiều đêm mất ngủ của trai tráng, chức sắc trong vùng. Khi biết tin Lão thay Chà chính thức cầu hôn, nhà cô gái vô cùng lo sợ và trai tráng trong vùng phần rất nộ. Nhiều lần họ tính tổ chức đốt nhà của lão hay tính kế giết hắn đi. Tuy nhiên, tất cả những cái tính toán đó đều thất bại thảm hại. Những người định đi đốt nhà thế nào mà bị lạc lối ngay tại xứ của mình, nhiều người còn bị dẫn tịt vào giữa bụi tre gai mà không biết đường ra tới sáng, có người tìm mới trở về được. Những người tính hại Lão thì tự nhiên cứ bị tai nạn liên tiếp, chỉ lo đối phó, sức đâu mà còn tính nổi chuyện hại Lão được. Cả một vùng, không khí như bị trầm lặng hẳn xuống, người ta còn e ngại cả ra đường khi trời tối khi mà trong khu vực có đến 3 người bị rắn Hổ sơn cắn chết tươi ngay trên đường lộ. Trong tình hình đó ông thay Chàm Tây Ninh quyết tâm theo dõi nhất cửa nhất động của Lão và âm thầm ra tay. Một cái lưới bịt bụng, Thiên la, Địa võng đã được giang ra chờ đón con Quỷ khát máu sa bẫy.
Tuy bên nhà gái cố gắng hết sức tìm kế hoàn binh, bài hát nào uy lực của các Pháp thuật của Chà Và thấy, cuối cùng cũng phải đến ngày đám cưới. Cô Lan, con gái của vị điền chủ nọ, không có cách nào khác ngoài những dòng nước mắt đã khô cạn, cũng đành phải nhắm mắt đưa chân. Từ sáng sớm, hàng trăm chiếc bàn tròn được kê la liệt từ trong nhà ra tới mấy cái rạp vải bố ngoài sân, kê tuột ra tận cây vú sữa ngoài vườn, Sabôchê, Xoài rưỡi mát. Vì cả hai nhà đều giầu có và có thế lực, mặt khác cũng là lần cuối tiễn con gái đi về nhà chồng, chưa biết sống chết ra sao, nên ông điền chủ cố làm thật Rinh rang, cho mát mặt đứa con gái cưng . Một dàn nhạc sống được đưa từ tỉnh về làm náo loạn cả một vùng quê yên tĩnh bởi tiếng đàn, tiếng trống, tiếng ca. Hàng chức con bò, heo và hàng mấy trăm con gà, vịt được hóa kiếp trong đợt này. Một cái cổng chào bằng lá dừa nước, kết hoa lá rất đẹp, có trên bảng Quý Vũ, có hai con chim câu đang châu mỏ vào nhau. Ngoài bờ sông, ba cái tàu đò thật lớn, được chăng đèn kết hoa lộng lẫy. Hai nhà cách nhau có hơn 1 Km, nhưng để phô trương thanh thế nên lão Chà vẫn thuê tới ba chiếc tàu đò đó, rước cô dâu đi trong vòng vòng vùng Người ta. Đến tụ tập, ăn nhậu, cười nói âm vang. Khắp nơi, những chiếc chiếu được dải ra đất cho mọi người ăn xong rồi thì tiếp tục sát phạt đỏ đen. Lệ quê là như vậy, đám cưới nào cũng phải có cờ bạc đi liền họ mới chịu. Nhiều nhà, nghèo rớt mùng tơi, nhưng nếu trong xóm có đám là vẫn phải chạy đôn chạy đáo mấy chức để tàn cuộc nhậu là đánh bạc. Người ta nhậu suốt từ sáng sớm cho đến tối khuya. Lớp nọ vào thay thế lớp kia. Bàn tiệc này tàn, người ta lại tranh thủ Dọn đi mới bàn để lấy chỗ bày. Rượu trắng như nước chảy ra sông Hậu. Người ta uống, ca, nói và vạ vật kiếm chỗ nằm, có khi ngay bên cạnh chuồng heo vẫn cứ gáy Khò Khò. Lão Chà và đợt này chứng tỏ một sức mạnh về rượu thượng thừa. Dắt vợ đi chào từng bàn, mỗi bàn lão uống một ly xây chừng chúc mừng, vậy mà mấy chức ly rượu trong người Lão như hóa thành nước. Đúng giờ, Lão hô tất cả mọi người lên Tàu để rước dâu. Trên tàu, các món ăn cũng bày la liệt. Mọi người ăn, uống, ca hát, nói cười và hình như quên biến đi cái tai họa đang Rinh đầu trên rap. Ngồi ở chiếc bàn gần cuối Tàu, trong một góc khuất, ông thay Chàm Tây Ninh, vẫn trầm tư uống rượu, đốt thuốc. Hầu như mọi cái náo nhiệt của đám cưới chẳng ảnh hưởng gì đến ông cả.
Trong đêm trước ngày cưới của cô Lan, một cuộc họp tay ba tuyệt mật đã diễn ra tại nhà ông bà điền chủ. Tất cả những gì cần thiết cho thời gian tới của cô Lan tại nhà lão thay Chà đã được ông thay Chàm Tây Ninh, ông điền chủ và cô Lan tính toán và trù liệu cụ thể. Ông biết rằng thay Chàm, với những tính năng của Thiên Linh Cái của lão Chà thấy, mọi sự việc gần như đã bị báo trước và lão ta đã có sự đề phòng cẩn thận. Mặt khác, những môn phái của Lão thay Chà đã luyện đến mức độ thượng thừa như Chàkha, Năm Ông, các phép của Ấn Độ bí truyền ... thật khó cho những mưu toan che dấu được Lão. Tuy nhiên, bỏ vỏ dày - đã có móng tay nhọn. Phép thuật của dân tộc Chiêm Thành từ ngàn xưa cũng có những môn bí truyền cực kỳ lợi hại mà ông thay Chàm Tây Ninh là một truyền nhân. Tới cuối buổi gặp gỡ, ông thay Chàm Tây Ninh trao cho cô Lan một cái gói nhỏ và ghé tai dặn: cứ như thế ... như thế Thời gian. Thấm thoát thoi đưa, cái Thái trong bụng cô Lan đã ngoài ba tháng . Cái giờ phút kinh hoàng đã đến gần. Hàng ngày, lão thay Chà vẫn cứ lén lụt sang cái cồn đất nhỏ trên sông Hậu chuẩn bị làm cái thất mới. Có lúc lão bỏ đi đâu không rõ đến vài ba ngày, lúc về mang theo nhiều thứ cỏ trông giống như những vị thuốc Bắc. Dạo này lão tự nhiên cưng chiều cô Lan lạ lùng. Lão cô chăm sóc từng ly từng tý một, nếu người ngoài nhìn vô, tưởng rằng cuộc sống vợ chồng của cô hạnh phúc lắm. Không có cái gì ngon mà lão không mua cho cô ăn, có những lúc lão ôm về cho cô cả ôm quần áo, vải vóc, nữ trang Thời gian. Này lão cứ liên tục hỏi cô Lan: Em cho anh đưa con này nghe . Cô Lan cứ chỉ cười cười mà nói: Nó là con của em, khi nào nó lớn, em sẽ giao nó cho anh tập theo cha buôn bán. Một chút thoáng qua ánh mắt sa Sầm của lão hiện về như một đám mây đen. Rất nhanh rồi chợt hết liền Ngày thứ 99. Cái của Thái Lan trong bụng cô đã tới. Từ sáng sớm, người nhà của cô đã sang báo cấp: Một cô bị đau nặng, đang mê man tại nhà. Mặc dù hết sức khó chịu, song lão thay Chà vẫn phải cho cô về thăm mẹ, với lời dặn, bằng mọi giá đến tối phải về nhà. Ngay trong ngày hôm đó, Chà lão thay vào ngay trong mật thất thắp nhang khan khua liên tục. Không làm lão biết cái gì, nhưng cô Lan đang ngồi ăn cơm với cha mẹ bỗng hất lật đổ bát cơm và đật đổi về nhà chồng. Ông điền chủ vội cho người cấp báo với ông thay Chàm Tây Ninh đang trọ ở gần đó. Gần như ngay lập tức thay Chàm có mặt. Những cái cọc cao ngang tầm ngực được đóng la liệt theo một kiểu dáng lạ mắt ở khắp khu vườn. Hàng mấy chức cân tỏi và thuốc rê giã nhỏ, vắt nước được rầy từ khắp nơi trong nhà sa tới cuối mí vườn Sabo chê. Các loại Thần Sa, Chu Sa, Huỳnh Hoàng, muối hột được giã nhỏ rải khắp mọi nơi. Dọc theo những cây cọc, người ta giang những tấm lưới cá có bề rộng khoảng nửa thước với cọng to và dày. Một Đàn Trăng ngày được dựng lên cửa trước, lấp lánh những thanh đao thép, những tuổi kiếm trăm thanh gỗ dâu, những lá cờ đuôi nheo, hàng rổ những lá phù vàng, trắng, đỏ. Một cái lò đất nung bằng gạch Chăm Pa, được đốt lên ở Tràng Đàn ngay trước, khói nghi ngút và các loại Trầm Hương, Bạch đàn hương, các loại lá cây rừng bốc ra một mùi thật là đặc biệt. Cô Lan bị đóng góng cả tay lẫn chân bằng những cái mõ gỗ và đặt nằm trên bộ ngựa Gõ đen bóng. Càng ngày, cô càng gào thét dữ dội, cả người lăn lộn, mặc những cái mõ đã cột chặt vào thành ván. Cô ra sức chửi rửa những người trời cô, không từ cả cha mẹ, anh chị em đều bị cô chửi suốt lượt. Xung quanh bộ ván Gõ, ông thay Chàm Tây Ninh đã cho giang mấy lớp lưới cá đại mà người ta hay dùng bắt cá ngoài khơi, xung quanh đó dán đầy những lá Bua của người Chiêm Thành với những hình vẽ kỳ bí. Chiều dần dần xuống, mỗi lúc cô Lan lại càng làm dữ hơn. Gào khóc, chửi bới hầu như không biết mệt với cái thân hình nhỏ nhắn của cô. Ông thay Chàm Tây Ninh từ chiều đã cho Đun một cái VẠC để chứa đầy những loại lá rừng mà ông đã chuẩn bị từ trước. Thứ nước trong VẠC Đun mãi trở nên màu đen và sánh tựa như Hắc In. Cả cái VẠC bốc lên một cái mùi khen Khet, mà mùi trầm từ cái Lư ra trầm bốc cũng không át nổi. Mọi người trong nhà chức hơn cùng trai tráng trong thôn đến giúp, ông được dặn dò thay Chàm, phân công chu đáo . Mọi người tranh thủ ăn cơm sớm để phòng công việc bất ngờ đến. Khoảng 9 giờ tối, chợt có một luồng gió lạnh, mang theo mùi hôi tanh đến phát nôn phát mua xóc tới. Từ trong đêm tối, tiếng trống trận âm vang, tiếng lao xao, ru Rit của muôn sinh vật, tiếng than van, thở dài não nuốt, tiếng khóc than, ai oán ... Tất cả như một cơn thác, đổ về phía nhà ông điền chủ. Thầy Chàm Tây Ninh vội ngồi vào Đàn và tám thanh niên trai tráng vác đao đứng thành hình bát giác Đàn xung quanh. Bỗng một tiếng gầm vang ghê ron nổi lên, một đợt sóng mùi hôi tanh, Khet let xóc tới. Trong màn đêm qua những ánh được người ta chợt thấy, một đôi rắn màu vàng có mạo đỏ rực, cuốn cuộn lao tới. Hàng ngàn con rắn các loại như Hổ Sơn, Chàm Quạp lửa, Mái Gầm ..... lúc nhục xung quanh, tất cả cùng nhằm hướng Đàn Tràng của ông thay Chàm Tây Ninh lao tới.
Trên Đàn, ông thay Chàm Tây Ninh không hề biến sắc. Ông dùng lá cờ hiệu màu đỏ phất lên ra hiệu cho 8 người trong trận Bát Quái thay đổi vị trí. Từ Bát Quái Thiên Tiên, trận pháp lập tức trở về Hậu Thiên, với cửa Tử hướng về lũ quái vật đang ồ xông tới lúc. Lúc này, Trận đồ như một cái hom, úp về phía quân địch. Chúng muốn vào phá trận chỉ còn mỗi đường là vào cửa Tử của Trận đồ. Đôi Rắn Thân vừa lướt tới, gặp hơi của vị thuốc rê và tỏi trộn lẫn vội bốc ngay lên cao, tiếng nó hú vang lên còn hơn cả tiếng sáo diều. Chúng lồng lộn trên không trung, thấp thoáng trong ánh được, cảnh tượng thật ghê rộn. Lũ rắn con đi theo, lớp thì bị mắc vào những tấm lưới thả chung, càng quậy cửa, càng vương vào lưới và bị xiết lại; lớp thì làm mùi của thuốc rê và tỏi nên gục xuống, nằm la liệt từng đống trong vòng lưới vây. Tiếng trống trận của lão Chà thay càng ngày càng vang động, điểm thêm vào đó là những tiếng bi công cực kỳ ai. Hai con rắn Thần nhào xuống, thổi một làn hơi đen kit, mùi tanh hôi tưởng như không thể nào kể xiết. Hàng người trong Trận đồ Bát Quái lao đảo. Những lá cờ trận bị giật tung lên trời và rơi lả tả xuống. Thấy vậy, ông thay Chàm vội ra lệnh cho người đứng bên chảo thuốc đang sôi sùng sức, bưng nguyên một chậu bột thuốc chuẩn bị sẵn trút vào. Một làn khói màu nâu mit mù bốc lên, che kín cả đôi Rắn Thần. Ngay lập tức, chúng Bịch rớt xuống đất và lùi Tăm đi mất. Đây chính là một bài thuốc cổ truyền bắt rắn của người Chiêm Thành. Hàng nghìn năm trước, vì phải sinh sống trong khu vực núi non hiểm trở, rắn nhiều vô số, nên dân tộc Chàm đã có những bài thuốc bắt rắn và chữa rắn cắn cực hay Đôi Rắn. Thần đã đi mất, những làn khói cũng đã tan dần, trên chiến trường, hàng ngàn xác rắn các loại nằm la liệt. Phía bên kia, lão thay Chà chuyển sang thủ đoạn khác. Tiếng trống trận lúc này cũng chuyển sang một nhịp điệu khác với âm hưởng vô cùng trầm hùng. Người ta tưởng chừng như có hàng ngàn chiến xa đang lăn bánh tiến về phía Đàn Tràng. Âm lượng ngày càng lớn, nó như lời người vào những tim trong trận. Không gian lúc này tưởng như bị cô đặc lại, ngắt ngột, tức thở. Từ trên không, hàng trăm con quạ đen bay về phía Đàn Tràng. Chúng bay lượn đan qua đan lại, nhằm vào những người trong trận Bát Quái lao tới mổ, giật văng từng miếng thịt. Tay bắt quyết, miệng đọc chú, tay kia ông Chàm thay tung lên trên trời một nắm những lá Bua vàng. Những con quạ đen rớt lả tả xuống đất và hiện nguyên hình là những tấm giấy đen xếp lại. Tiếng trống và tiếng công ngày một tăng nội lực, nó như khoan xoáy vào không gian, khiển cho không gian như co lại, hạn hẹp hơn. Lần lượt từng người trong Trận Đồ Bát Quái gục xuống, miệng ua máu tươi. Trận Đồ Bát Quái đã bị phá vỡ .. .

Gần như ngay lúc đó hình bóng năm người đàn bà mặc áo dài trắng, theo gió lướt tới. Cách di chuyển của họ thật kỳ dị, hình như không phải đi mà chỉ như lướt qua các khóm cây, ngọn cỏ. Xung quanh năm hình người đàn bà đó là cả một bày Dơi đông vô kể cũng kéo đến vây xung quanh của Đàn Tràng thay Chàm Tây Ninh. Từ xa đã vang vọng tiếng của lão Chà Và đọc chú vọng đến một mon rõ: "Nam mô Tiên sư Lỗ Ban - Tiền Tổ Lỗ Ban - Hậu Tổ Lỗ ban - Sắc sắc - Chứng cho tôi đây là đệ tử Thái Tuệ - Nhật Mộc Thần phù Lỗ ban sát - Sai khiển Thiên Linh tùng chấp lệnh ....." "Thần cung cấp trợ oai linh - Tam Sát Phiên Thần - Nhân sát - Tài sát - Vật sát - Tam sát Phiên Thần - Cấp cấp như luật lệnh ...." ... Từ trên Đàn Tràng, thay Chàm Tây Ninh chợt phun ra một Ngum máu tươi, Lao đảo như muốn gục xuống. Cố hết sức bình sinh, thay đứng dậy, vung thanh Thất Tinh kiếm, nem tung lên trời một nắm Bua và cao giọng đọc chú: "Án Chỉ lâm Chỉ lâm - Bộ lâm - Bộ lâm - Phấn tra - Phấn tra - Đề Mục dạ - Ta bà ha - Sắc chuyển Luân Vương khuyết Ấn tuyệt ngũ phương - Thâu Thần Tiên giáng hạ - Thâu tay cầm Tam Muội Hỏa ...." Không thể đừng được nữa, Thầy bắt buộc phải đọc chú thâu tất cả các Phép thuật của Chà Và thay, không cho tác yêu tác quái nữa. Sau khi đọc đủ 21 biến - Tiếng niệm chú từ xa của thay Chà tự nhiên ngưng hẳn - Năm cái xác chết tự nhiên sinh thối, chảy nước vàng và ngả rạp xuống đất ngay trước cửa Đàn Tràng. Những Dơi con miệng đầy răng, nằm chết la liệt xung quanh Phía bên. Lão Chà Và thấy, nay bị thu hết pháp thuật, các câu chú đều mất hết sự Linh ứng. Lão ói ra một đống máu tươi, nằm ngất lim đi trong Tịnh thất của mình. Từ nay lão không còn tác yêu tác quái được nữa. Thời gian hòa bình ít nhất cũng được 10 năm Ngay trong. Đêm, ông thay Chàm Tây Ninh kêu mọi người thu Dọn chiến trường, vụt hết những cái xác súc vật xuống dòng sông Hậu, chôn lại 5 xác chết trên cù lao. Một chiếc xuồng gắn máy lớn cho thấy Chàm và cô Lan nhằm hướng Tây Ninh thẳng tiến.
Thay Bảy lại từ Tốn nói: Câu chuyện ta vừa kể cho các con nghe, đã xay ra cách đây hơn năm rồi chức. Sau trận chiến đó, lão Thay Chà và bỏ xứ đi đâu mất tiêu. Còn ông thay Chàm Tây Ninh cũng đưa cô Lan vào chân núi Cậu, ngoài tit bờ lòng hồ Dầu Tiếng để sinh đẻ. Chỉ tiếc rằng, cô Lan sau khi sinh được một thằng con trai thiếu tháng, lớp vì sức yếu, lớp vì những độc tố trong người làm lão thay Chà truyền sang, lớp vì cuộc sống ở rừng thôn thiếu quá, nên chỉ vài tháng sau cổ cũng mất. Tự nhiên ông thay Chàm Tây Ninh phải cái cảnh gà trống nuôi con - Mà lại là con của kẻ thù. Thật là cảnh chớ trêu. Cậu con trai của cô Lan và lão Chà thấy, chính là cậu bé vừa bị giết này đây. Việc ngày hôm ấy chỉ ra xay là những sự việc tiếp theo của câu chuyện mười mấy năm về trước. Ông Trời cũng thật chớ trêu-Cha tự tay giết con mà không hay - Pháp thuật tài giỏi làm chi mà không biết? Oán thù trùng trùng, điệp điệp, chừng nào mới nguôi đây? Có lẽ sau trận mất con đó mà ông thay Chàm Tây Ninh và ông thay Chà Và lại có trận quyết đấu lần ba bữa nay. Thôi, chúng bay chuẩn bị xe cho tao lên bệnh viện đa khoa Tây Ninh thăm lão và hỏi xem cơ sự ra sao. Tôi vội nói: - Thưa Thầy, con để lấy xe đưa Thay đi cho lẹ. Một lúc sau, ông bà Bảy, tôi và hai cậu đệ tử ruột cùng lên cái xe Zeep lùn nhằm bệnh viện đa khoa Tây Ninh tốc hành.
Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tới Phòng cấp cứu của bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Dò hỏi mấy bác sĩ trực tại đó, chúng tôi được biết là ông thay Chàm Tây Ninh đang phải nằm trong phòng mổ để tháo khớp tay. Theo bác sĩ cho biết, mọi người đã cố gắng hết sức song không cứu được cánh tay cho ông thay Chàm. Chẳng hiểu nguyên nhân gì mà cánh tay bị chặt của lão chóng hoại tử nhanh đến thế. May mà đã được cầm máu kịp thời, chứ nếu như người khác chắc lão đã đi về chầu Tiên Tổ rồi. Khoảng hơn một tiếng sau, một chiếc băng ca có gắn 4 bánh được đẩy ra từ phòng mổ. Ông thay Chàm được phủ khăn trắng xóa chỉ còn hở cho xanh gương mặt, đang Thiêm thiếp vì thuốc mê được đưa ra phòng hồi sức. Nhìn hình dáng Tiều tụy của lão, chúng tôi không ai không khỏi Chanh Long. Có lẽ từ nay ông thay Chàm chỉ còn có một tay sẽ khó mà biểu diễn võ thuật được nữa. Than ôi, đúng là Đại Bàng cánh gay. Một võ sư lừng danh thiên hạ, thân hình cao to lừng phổi, chiêng nói sang sáng giờ đây đang nằm Tiều tụy, thấy nhỏ bé quá. Lòng cảm thông dâng trào làm lũ chúng tôi không ai cầm được nước mắt. Buồn ơi, chào mi. Thay Bảy phân công mọi người ở lại chăm sóc ông thay Chàm và bảo tôi lấy xe chở ông đi công chuyện. Tôi đưa thay bảy lên xe, nhằm hướng chợ Sa Mát thẳng tiến. Tới chợ Sa Mát, ông bảo tôi chờ và rao bước vào trong chợ. Khoảng 30 phút sau, thay Bảy bước ra, trên vai đeo một cái ba lô cho đúng. Tới xe, thay xếp các thứ gọn gang lại, nhét vào ba lô chật cứng. Tôi nhìn chăm chú và thấy thật là lạ với những thứ mà Thầy mới mua tại chợ. Ngoài con dao gam lá liễu là vật bất ly thân bên hông đeo, tôi thấy Thầy mới mua thêm không lưỡi Mác chặt cây sáng quắc, ngoài ra còn thấy vô số mì ăn liền, bánh tráng, thuốc rê, tỏi, võng dù, màn tuyn và một đôi giày Bata màu xanh nữa. Khi chuẩn bị xong, Thầy hối tôi cho thấy lên cửa khẩu Sa Mát là cửa khẩu giữa Tây Ninh và Huyện Mi một cửa Miên. Huyện Mi một cửa Miên tiếp giáp với huyện Tân Biên của Việt Nam thông qua cửa khẩu Sa Mát. Khu vực Sa Mát chính là khu vực hồi chiến tranh, bộ chỉ huy miền Nam gọi tắt là R đóng quân. Cả một vùng cây um tùm Cối, ram còn rạp và cơ man nào bom mìn là từ hồi chiến tranh để lại. Vùng này đã có rất nhiều người và trâu bò khi rầy làm đi đã trúng bom, mìn phơi xác trên những ngọn cây Cày (Ko Nia). Công ty chúng tôi đang biến có kế hoạch vùng Sa Mát một thành lớn này Nông trường Cao su hàng ngàn ha và tiến sát Nông trường Cao su Mi Miên Một bên. Tuy nhiên, để làm được điều đó còn vô vàn khó khăn, tiền của và cả máu nữa. Cả vùng mang tiếng chợ cửa khẩu, song cũng chỉ có vài chức căn quán sơ sài bán các thứ vật dụng cần thiết cho vùng quanh bà con. Tuy nhiên, khu vực này lại là một cửa khẩu buôn bán thuốc lá lậu nên cánh buôn thuốc từ thành phố thường lên. Hàng thuốc lá thường là HERO, ZET, 555, APSARA .... Vùng Mi một con là một vùng chuyên trồng cây thuốc lá sợi vàng có tiếng ngon. Dân ở khu vực lẫn lộn cả người Việt và người Miên, do vậy chợ này dùng cả tiền Việt và tiền Ria của Miên, trao đổi cũng bằng cả hai thứ tiếng Việt - Miên. Chợ Sa Mát cũng còn là một nơi tụ tập của giới giang hồ, buôn lậu trước khi vượt biên giới bằng đường rừng sang Miên, Thái Lan ... Tới một con đường mòn sang Miên, người dân ở đây thường gọi là đường Tiểu ngạch, Thầy Bảy xuống xe và dặn tôi: Con về cơ quan đi, Thầy đi ít bữa sẽ về. Nhớ ghé qua bệnh viện thăm chừng con thay nghe Chàm. Nói rồi thay Bảy xóc ba lô nhằm hướng Mi Một tiến thẳng. Bóng chiều đã nhập nhoạng bên cửa rừng và chẳng mấy chốc bóng thay Bảy mất hút giữa rừng xanh Mi Mot.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:18 am


Tối đó, tôi lái xe về thẳng Công ty để ngày mai việc làm kịp. Suốt chặng đường hơn 50 Km, từng câu hỏi cứ chập chờn trong đầu. Việc ông Thầy Chàm thì cũng tương đối rõ rồi, chắc chắn là cuộc huyết chiến lần thứ 3 giữa ông lão Chàm Tây Ninh, thay vì thay Chà đã nổ ra. Sự việc cụ thể như thế nào thì phải chờ câu trả lời của chính ông thay Chàm Tây Ninh. Chỉ tội giờ này chỉ còn có một tay, công lực lại mất hết, không biết ống ấy sẽ tiếp tục sống ra sao. Còn lão thay Chà số phận bây giờ ra sao cũng đành phải chờ đợi câu trả lời của thay Chàm Tây Ninh, tuy nhiên tôi có thể biết chắc một điều là số phận của lão cũng không hơn gì ông thay Chàm. Một điều tôi biên của cải đo, lo ngại nhất chính là thái độ và cuộc vượt biên bất thính linh của ông thay Bảy. Chỉ cần để ý một chút, đằng sau cái vẻ mặt lạnh băng và thái độ câm lặng của ông là cả một núi lửa đang phun trào dòng nham thạch nóng bỏng. Cái im lặng chết người của ông, khiển tôi thấy lo lắng và Ron Ron trên suốt dọc đường về Công ty. Dạo này, Công ty chúng tôi đang tổ chức lại làm con đường của Trần Lê XUÂN ngày trước đã làm, qua cơn binh lửa chiến tranh đã thành hư hỏng nặng. Từ Thị trấn Đồn Pal, con đường rải đất đỏ vòng Veo lên tới Kà Tum, Bổ Túc, Thanh Niên, Suối Ngô, 95, bang qua một cái cầu lên tận Sóc Con Trăn. Con đường đi người đàn ông tiếp theo lòng hồ Dầu Tiếng và sang tới tận Sông Bé. Đây chính là con đường ngày xưa Trần Lệ Xuân cho làm để có thể khai thác và vận chuyển gỗ về Sài Gòn. Dọc hai bên đường lau nói um tùm, cây Cối mọc chen ra có chỗ tới gần hết đường. Hàng nghìn ổ voi, ổ gà do cánh xe Be chở gỗ tạo nên, khiển con đường này hầu như không thể hoạt động được. Trên mỗi Km đường, ngày xưa hết quân Sài Gòn lẫn quân Cách mạng đã vui chôn hàng trăm trái mìn, lưu đạn .... Nhiều chiếc máy ủi của Công ty chúng tôi đã nổ tung làm chạm phải những trái bom, mìn còn sót lại, một số khiển anh em lái xe hoảng sợ, bỏ Công ty về nhà, không việc làm chịu. Có chỗ đã qua hàng chức lần san ủi, trồng Cao su lên tới 3 tầng lá rồi mà công nhân đi làm vẫn cỏ chạm phải mìn tan xác như ở Nông trường Bổ Túc. Chúng tôi phải quyết định tháo bỏ Ca bin các xe để có bề gì tài xe không chết vì đầu đập vào thành Ca bin. Tuy vậy, vẫn có cậu lái khi chạm phải bom, văng lên cao hàng mét chức, rớt xuống chạy điên không dám về đơn vị. Chúng tôi huy động tất cả thợ trong Công ty lao vào sửa chữa, thay thế những chiếc xe hư hỏng. Chiều chiều, ngồi quay quần nhậu bên đống lửa, chúng tôi vẫn phải cố cười nói, la hét cho qua cái sợ ăn mìn. Được cái ở rừng nên mồi nhậu thật là dồi dao. Chỉ một buổi sáng máy ủi, ủi gốc le, gò mối là chúng tôi có hàng chức Trút con, thứ mồi nhậu còn thơm và ngon hơn thịt gà. Ngoài ra còn có rất nhiều Nhím, Don, Nai, Hoàng, gà rừng. Rượu thì chúng tôi không thiếu, mang dầu máy ra Sóc Miên đổi là ba thiên. Công việc cứ thế cuốn hút tôi cho tới gần chức một ngày sau tôi mới trở lại Bệnh viện Đa Khoa Tây Ninh thăm ông thay Chàm được Sau khi bố. Trí việc ở công sở, tôi lại lấy chiếc ZEEP lùn phóng thẳng xuống Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh. Vào đến nơi mới biết thay Bảy đã đón ông thay Chàm về nhà trị thương được hai bữa. Từ Thị xã Tây Ninh, tôi lại tiếp tục cuộc hành trình lên Phước Vinh là nơi ở của thay Bảy. Qua chợ Long Hoa giờ này đã vắng bóng của hai cha con Chàm thay ông, tôi vào mua một ít thực phẩm, thuốc và đồ nhậu lên làm quà cho bà Bảy. Loay hoay thế nào, tới gần trưa tôi mới đến được Phước Vinh. Vào đến nhà Thầy Bảy, thấy các sư huynh đệ tụ tập đông đủ cả. Tôi vào trong nhà thấy thay Bảy đang ngồi uống trà ở bộ ngựa và ông thay Chàm đang nằm bên cạnh, hai người đang ri RAM để nhỏ. Thấy tôi đến, thay Bảy kêu tôi lại ngồi uống trà. Tôi xin phép lên bàn thờ Tổ thắp nhang xong xuôi mới ra hầu chuyện hai thay. Trong khi ngồi uống trà, thay Bảy từ từ kể cho tôi nghe câu chuyện mấy bữa trước mà tôi vẫn đoán già đoán non. Chuyện đó xảy ra như sau:
Kể từ chuyện tranh hùng lần trước, khiển cho đứa con nuôi của thay Chàm (mà cũng là con đẻ của lão thay Chà) bị giết chết, lão thay Chà biệt tích giang hồ, còn thay Chàm trở lại núi Cậu Tây Ninh trị thương và tìm cách trả thù. Sau một thời gian trị thương và cho cái đau mất đứa con nuôi nguôi ngoai dần đi, thay Chàm Tây Ninh quyết định về lại Tháp Chàm - Phan Rang cầu thay Tổ của mình. Thầy Tổ của ông thay Chàm năm đó cỡ khoảng ngoài 90 tuổi, nhà nằm gần tháp Chàm POKLONG Garai Tháp Po. Klaong Garai ở thôn Đô Vĩnh. Đây là khu tháp đại diện cho phong cách muộn (đầu thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII) là các tháp Poklong Gairai, tháp Pôrôme. Tháp PôKlông Garai gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau, nhưng lại hiện nay còn 3 ngôi xây bằng gạch. Đó là tháp Cổng (cao 8,56 m), tháp Lửa (cao 9,31 m) và tháp Chính - tháp thờ vua PôKlông Garai - (cao 21,59 m, mỗi cạnh rộng hơn 10phút). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công trình kiến trúc nghệ thuật. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được trang trí bằng gốm các hoạ tiết, đá với đủ loại hình người, hình đuôi rồng, hình lá, hình cả thần.Tất bò trợ công trình trạm, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm. Vùng này là một khu vực núi đá hoang vu, các đền đài từ nay ngày xưa đã từng là Kinh đô của Vương Quốc Chiêm Thành lừng lẫy, đã mấy lần đem quân vào đánh chiếm Thăng Long. Người Chăm ở Ninh Thuận sống quay quần thành một đại gia đình và vẫn còn theo chế độ mẫu hệ. Tuy đàn ông thực tế đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nhưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo họ mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở tái nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn hơn các chị.Về mặt sinh hoạt, mỗi nhà trong khuôn viên có tổ chức mặt bằng khác nhau. Song, đồng bào cho rằng nhà thang yo là kiểu nhà cổ nhất. Đó là nhà sản, nhưng nay sàn rất thấp gần sát mặt đất. Đầu hồi bên trái và một phần của mặt nhỏ dành cho khách, chủ nhà, kho đựng lương thực và dụng cụ. Người Chăm ở Ninh Thuận có khoảng 60% theo đạo bà La Môn, 40% còn lại theo đạo Hồi Giáo (ISLAM). Thầy Tổ của ông thay Chàm là người theo phái Bà La môn, một Đạo giáo có từ rất xa xưa. Người Bà La Môn từ ngàn xưa do cuộc sống khắc nghiet luôn phải đối đầu với kẻ thù và thú dữ đã mang trong huyết quản dân tộc mình một dòng máu cần cù chịu khó và một phương pháp Huyền thuật rất giỏi. Với tư cách là tôn giáo cổ nhất Ấn Độ với Thánh điển còn lưu lại, Ấn giáo Phê-đà (Vệ Đà tôn giáo) giữ một vai trò đặc biệt trong tôn giáo của Ấn Độ. Đó chính là gốc gác thay Tổ của ông thay Chàm. Khi về đến thôn Đô Vĩnh bái kiến thay Tổ, Thầy Chàm Tây Ninh ở lại gần một năm để bổ xung thêm pháp thuật. Hàng ngày, thay Chàm cùng bạn Đạo lên tháp PO Klaong Garai cầu đảo Thần linh. Các vị thần Phê-đà như Mật-đa-la (密 多 罗, sa Người cộng tác)., Phát-lâu-na (zh. 伐 楼 那, sa Varuna)., Nhân-đà-la (zh. 因陀罗, sa. Indra) và các Mã Đồng (zh. 马 童, sa aśvin). là những đang tối cao về họ của tâm linh. Người thực hiện cầu đảo Thần linh bằng một bài tán tụng. Đàn tế lễ được lập một cách nghiêm trang với ba loại lửa, việc tế lễ được thực hiện bởi nhiều Tế sư khác nhau cùng với các bài kệ tụng (sa. RC), ca Vinh (sa. saman), câu tế đảo ( sa. yajus), và các chân ngôn (sa. mantra). Vật tế lễ là Tô-ma (zh. 苏摩, lúc soma)., Thú vật, bơ lỏng, ngũ cốc và thực phẩm đã được nấu chín. Tổ tiên (sa. pitṛ) cũng được cúng tế. Trong những đêm lạnh giá của Ninh Thuận, thay Chàm vẫn khoác bộ quần áo dân tộc của mình chạy nhay băng băng qua các sườn núi đá để luyện pháp thuật dùng cho công việc mai trả hận nay. Sau khi được thay Tổ truyền cho đủ ngón nghề tuyệt mật, thay Chàm lại từ biệt thay Tổ mình, nai khoác tay nhằm hướng Tây Ninh thẳng tiến.
Về tới đất Tây Ninh, ông quyết định thay Chàm lấy khu vực Ngã Ba Vì - Thuộc huyện Châu thành làm đại bản doanh để định đoạt công việc tiếp theo của mình. Sở dĩ ông chọn khu vực này bởi vì đây là một khu vực còn khá nhiều rừng già. Ngày xưa đây cũng chính là khu vực căn cứ Đồng Dù của Mỹ đóng quân, có những con đường mòn đi sang Miên rất gần và thuận tiện. Mặt khác khu vực này giờ đây người ta lấy làm trường bắn những kẻ phạm tội tử hình và chôn tại một nghĩa địa bên cạnh trường bắn. Chỉ nghe cái tên Ngã ba Vì vậy, không thôi cũng khiển nhiều kẻ rợ tóc gáy, không dám đi qua khu vực này ngay cả ban ngày. Toàn khu vực chỉ có leo tèo vài chiếc chơi canh rầy của những người trồng mỳ và một vài lò đốt than cày của Tiều phu. Chiều đến, mới chỉ khoảng 3-4 giờ là khu vực này đã chìm vào trong hoang vắng, lạnh lùng. Ở đây, người ta chỉ còn thấy cây Cối xanh um, gió đưa xào xạc và oan hồn, tử khí của những kẻ bị bắn làm chủ không gian. Ông thay Chàm lui lầm chặt một cây tự làm mình chiếc chơi nhỏ trong đám rầy mì, ngay bên cạnh một con suối nhỏ. Từ đây đi tắt sang nhà ông thay Bảy cũng không quá xa, nên lâu lâu, ông thay Bảy cùng đám học trò cũng qua phụ hồ việc nhà dựng cho ông thay Chàm, hay ông thay Chàm lúc rảnh cũng qua tất thay Bảy uống trà , trao đổi dăm ba câu chuyện. Ngày tháng qua lại, khu vực nhà của ông thay Chàm đã dần dần có dáng dập của một căn nhà thực thụ. Ngoài đám mì và đám rầy trồng lúa để lấy lương thực, một khoảng đất lớn đến gần nửa công đất sau nhà kéo tới bờ suối được ông thay Chàm trồng cơ man nào là các loại Ngãi. Thôi thì đủ loại từ những loại Ngãi hiền để ăn nói, cầu tài, đổi nợ như Nàng Thăm, Nàng Môn, Nàng Mới, Nàng hách ... (Những thứ này thay dùng để giúp người ta làm ăn, lấy tiền độ nhật ngày qua), ngoài ra còn vô số các loại ngai độc khác Mai Lai Ngãi, Ô Rạch mặt, Bo GEC, Bạch Đại Ngãi, Huyết Nhân Ngãi ... nghe nói thay đã dùng pháp thuật trục từ Cao Miên và Xiêm La về. Những buổi tối chang vàng, thay Chàm thắp hương đỏ ối cả bờ suối để luyện Ngãi, từng hàng chú trục Ngãi ơi hội lạnh trong không gian vắng nghe thật là ghê rộn. Ngoài vườn Ngãi khổng lồ đó, trong một góc Buồng, ông thay Chàm còn lập một bàn thờ Tổ, trên bày la liệt những lá Sắc của nhiều môn phái khác nhau. Tầng dưới cùng là một hàng hũ sành bịt khăn đỏ kín mít, chứa bên trong có những gì thì có lẽ chỉ mình ông thay Chàm mới biết mà thôi Hàng đêm., Ông thay Chàm luôn nai nịt gọn gang, đem theo một chiếc túi vải nhỏ lầm lui đi về phía nghĩa địa bên cạnh trường bắn ở Ngã ba So. (Đoạn này tôi được thay Bảy kể lại). Trong những khoảng khắc giao thời giữa đêm và ngày của giờ Tý, ông Thầy Chàm lần lượt thắp nhang trên những nấm mộ của những người tử tù và lầm ram đọc chú. Thông thường, những người tử tù này vì chưa muốn chết nên ước vọng cuộc sống rất lớn của họ. Khi chết đi, họ vẫn không hề nghĩ là mình đã chết, nên chứng nào tật đó vẫn ra sức tác yêu tác quái. Thắng có những Linh hồn nào đã biết mình chết rồi thì họ luôn oán thán đủ thứ và thèm khát được trả hận. Chính vì vậy, khi ông thay Chàm sử dụng một pháp môn tối cổ của dân tộc mình điều khiển họ thì các Vong hồn đó trở thành một thứ vũ khí giết người từ xa thật là ghê ron. Tuy nhiên, để có thể điều khiển được những Âm binh khát máu đó, ông thay đổi hỏi phải có một sự quyết tâm ghê gớm thuật và một pháp thật cao cường. Sở xây chỉ một chút thôi là ông Thầy chính là vật đầu tiên hy sinh cho các Vong hồn đó trả hận. Trong vòng 100 ngày, ông thấy không được tắm rửa, Gianh cái hơi của mình cho các Vong Linh đó quen dần với mình. Ngoài ra, tuyệt đối ông thấy không được gần đàn bà và không được để bất cứ một người đàn bà nào đang bẩn mình heo lánh đến khi vực Đàn pháp cả. Cứ liên tục hàng đêm, đúng giờ Tý, khu vực nghĩa trang tử tù lại đỏ ối các đám nhang thắp theo những hình thù kỳ quái. Mùi trầm hương thơm nực loại tốt, bay xa tới tận ngoài đường lộ đá đỏ. Thời gian Chầm chậm trôi qua và ngày thành công đã gần kề. Tới ngày cuối cùng, ông thay Chàm đích thân mang mâm xôi gà sang nhà ông bà Bảy để cúng của Tổ thay Bảy, xin Tổ cho ông bà Bảy sang trợ giúp khi Pháp Đàn viên mãn Đêm hôm. Đó, một Đàn Tràng lớn nhất từ xưa đến nay được lập tại nghĩa địa những người tử tù. Trầm, hương, đèn, nến, trâu, cau, rượu, thuốc, bông, trái cây, gạo, muối, trứng vịt, tôm khô, thịt heo luộc, cháo trắng, giấy tiền vàng bạc ... được bày kín cả một cái bàn lớn cao ngang bụng. Hai bên Đàn Tràng, hai cây Thất tinh kiếm dựng đứng loa sáng. Cạnh hai cây kiếm là hai bó tre được ngâm tẩm nhựa cháy đúng đúng soi sáng rực rỡ cả một khu nghĩa địa vốn âm u lạnh leo. Vòng xung quanh Đàn trang, theo phương vị của Tiên thiên và Hậu thiên Bát Quái, người ta dựng những cây cột tre, trên có treo rất nhiều đạo Bua kỳ bí viết bằng Châu sa trên những tấm lụa vàng. Trên đỉnh mỗi cây cột tre là một dải lụa chiêu hồn bay pháp phối.
Đúng 12 giờ đêm, một hồi 3 tiếng công vang vọng, trầm hùng khắp không gian. Ông bà Bảy, ông thay Chàm ngồi thành một tam giác xung quanh Đàn pháp, mỗi người tùy theo bản lãnh của mình mà tác pháp. Tuy 3 người thuộc ba pháp môn rất khác nhau, nhưng mọi người đều là những cao thủ trong Huyền môn, do vậy Ma Su phối hợp của họ chính xác như những bánh xe trong chiếc đồng hồ. Trên chiếc bàn, trầm hương thơm ngào ngắt, xua đi cái lạnh về đêm và cái âm u huyền bí của vùng nghĩa địa. Hàng được sáng bắp bụng, soi tỏ khuôn mặt của từng người. Ông Bảy ngồi lặng lẽ, chap tay theo ấn Liên Hoa, bà Bảy lại ngồi theo kiểu bán già, hai ngón cái và ngón út của hai bàn tay chạm vào nhau, xòe ngửa lên trên theo Kim cang bộ ấn. Ông thay Chàm, hay tay cầm chặt 2 cây đoàn kiếm cổ, hướng thẳng lên không trung. Một hồi công nữa lại vang lên, ba người cùng đồng loạt phát công vào khoảng không phía trên Đàn Tràng. Một tiếng bức, trầm đục vang lên, một quả cầu năng lượng vàng xanh, trắng đỏ quan lấy nhau dần, các màu đan xen vào nhau, quan quit nhau và cuối cùng hòa vào nhau thành một quả cầu ngũ sắc, xoay chuyển ngày càng nhanh ở trên Đàn Tràng. Bên này bà Bảy đang niệm: "Xưa xua ơ Nhâm - Lắc hay hay - Ru han cốc - Xu lây thu - Xu lu pic - Lu lu nữa ..... A LA HÀNG RU TAI PA MAC - LAI DU CÔ RU CỐC BI XÔ - XA XU XI MAC ĐẶC LU TÔN - NHAC MAY - PÀ Ta XÀ ĐỨC - XÀ Đốm - MÔ PHẮC ... "Bên kia ông Bảy dùng chú Mật tông:" Ngọc bảng tùng thư trấn Cửu thiên - Tam Đồ xả thính giải oan Khiêm - Viên âm phổ biến thập phương giới - Bồ Tát Long Thần thị chứng minh - NAM MÔ - XU Xịt ĐI Ô MOM - RI TA RI - MAN ĐA - MAN ĐA - HÀ Xóa "Ông thay Chàm giơ cao. hai thanh kiếm lên không trung miệng niệm: "BAC MAY - BAC MU - XA PHAC - XU LAI - HUM MAY TU LAY - TU LUC CA - XU XU - Lo PA - MA no - XO RU - XO RAM - KHO LAC - TU HA -- TU HAY HAY .... Án Lôi cấp giáng - Long Hổ chi oai - Nhật Nguyệt minh chiếu - Ngộ Chơn mạng - Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ ....." Cả một vùng không gian như cổ đông lại, không khí ngột ngắt như chuẩn bị tâm bão vào. Bỗng trong không trung một luồng gió tanh hôi, lạnh leo ào Trần đến vây kín Đàn Tràng và quả cầu ngũ sắc đang xoay. Gần như cùng một lúc cả ba người phóng chưởng vào quả cầu và hô: Mau. Ngay lập tức, quả cầu ánh sáng ngũ sắc quay theo chiều ngược lại nhanh, ngày càng. Những ánh sáng xanh, tím từ quả cầu phát ra đan thành một cái lưới vây kín khu vực Đàn Tràng. Hàng chức trắng bóng mờ ảo rồi rõ dần, rõ dần hiện ra trong khói nhang, trầm và ánh lửa bắp bụng. Thầy Chàm lập tức ra lệnh: "Nhất chuyển thể Khôn Thiên Địa hội - Nhị chuyển thất thập nhị Huyền công - Tam chuyển Phật tổ Lỗ bang y tốc giáng ...." Những bóng ma kia lập tức hiện rõ dần và xà xuống , nằm phủ phục dưới chân Đàn Tràng như chờ lệnh. Chỉ chờ có vậy, thay Chàm nhưng tụ chân khí và thổi vào họ một làn hơi trắng. Làn hơi này quy tụ đủ 108 thứ ngai mà thay đã luyện qua trong suốt 100 ngày. Thiên Linh tử tù cộng thêm thiên Linh Ngãi quen hòa vào nhau, tăng sức cho nhau trở thành một thứ vũ khí khủng khiếp nhất mà con người ta có thể luyện được. Bà Bảy dùng nhang lên khoán hình bóng của các Vong tử tù một hàng Sắc lệnh. Hàng Sắc lệnh này sẽ chính là một cái dây cương, khiển cho các Thiên linh phải ngoan ngoan nghe lời người điều khiển. Từ nay, ông thay Chàm đã là tổng chỉ huy một đội quân Thiên Linh tử tù hòa quyền Thiên Linh Ngãi tuyệt đối trung thành. Ba trăm năm nay, lần đầu tiên, pháp môn cổ quái này đã được ông thay Chàm luyện thành công.
Sáu ngày luyện thành công Pháp môn mới, Thầy Chàm lửa phóng hỏa thiêu toàn bộ trang trại của mình, sang tạm biệt vợ chồng ông thay Bảy và các học trò, một mình lên đường đi tìm lão thay Chà và để rửa hận. Tất cả hành trang của ông lão chỉ bao gồm một tay nai đựng quần áo, vật dụng, chút tiền độ đường và cặp đoàn cổ kiếm bất ly thân. Dĩ nhiên, khuất vô hình đi cùng với ông là hơn một chức Đệ tử mới, có khả năng thật kinh hoàng (Phần sau này, chính ông thay. Chàm kể lại cho tôi và vợ chồng thay Bảy nghe về chuyến đi của mình) . Sau khi tạm biệt mọi người, ông thay Chàm liền đi viếng mộ của mẹ con cô Lan ở chân núi Cậu. Hai ngôi mộ được chôn sát nhau, dựa đầu vào chân núi Cậu, chân đạp ra phía lòng hồ Dầu Tiếng. Thấm thoát từ khi cậu con trai chết cũng đã mấy năm trôi qua, vẻ hoang vắng đìu hiu của khung cảnh càng làm cho trái tim của lão nhức nhồi. Cẩn thận bày bông, nhang, trái cây, giấy tiền vàng bạc, một xấp bánh tráng lên mộ của hai mẹ con, ông thay Chàm thì thầm một mình khan khua, cặp mắt của ông lúc này vừa hào hùng, vừa bi ai, vừa căm phần. Tàn nhang, lão đốt tiền vàng bạc cho hai mẹ con, và tưới cả một chai rượu đế lên đám tro, vải vải mấy hai mẹ con, lão lầm lùi cất bước lên đường. Gần một năm, lăn lộn khắp Sài Gòn, Lục tỉnh, rồi tiến dần lên miệt Châu đốc, Sóc Trăng, An Giang, tới tận mũi Năm Căn, hình bóng của lão thay Chà và vẫn bat vô âm tín. Đã rất nhiều lần, lão phái đám Thiên Linh đi lùng kiếm khắp các ngõ ngách, nơi mình đi qua, vẫn không thấy gì cả. Một ngày, Lão dừng chân tại đỉnh núi Két của Châu Đốc. Nơi đây là một nơi hội tụ của rất nhiều thầy bà về tu tập, luyện phép. Trên đỉnh núi Két, có một vuông đất khoảng hơn trăm m2, tục gọi là Sân Tiên. Tương truyền ông Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (Phật Thầy Tây An), đức Huỳnh Phú Sổ và một vài vị tiếng Tăm khác cũng thành chánh quả tại sân Tiên này. Gần sân Tiên còn có giếng Tiên, là một học đá trận đỉnh núi nhưng không bao giờ cạn nước. Từ khi lên núi Két, hàng ngày lão lê la đi khắp các hang động của các vị tu Tiên, tu Núi hỏi thăm về tung tích lão Chà Và. Thời gian này, hầu như tất cả các hang động trên núi Két đều có chủ, thôi thì đủ các môn phái, đủ các pháp môn. Ở lưng chừng núi có một ngôi chùa nhỏ do một vị sư già trụ trì. Nói là chùa, song thực chất cũng chỉ là một hang đá được tạo bởi một tấm đá cực lớn nằm gác lên mấy viên đá khác, tạo thành một mái hiên khoảng 50 m2. Nhà sư trụ trì dùng đá và xi măng xây một bức tường ở phía sau và một bàn thờ Tam Bảo dựa vào vách núi. Giường ngủ của nhà sư là một viên đá lớn bằng một manh chiếu, bằng phẳng và mát lạnh (Thời gian sau này, tôi và Thanh Pali có tới nơi này ghé thăm, nhưng vị sư đó đã mất, chỉ còn một Vị Đệ tử ruột khoảng gần 60 tuổi trị trì thay Thầy, mộ vị sư già được táng ngay bên cạnh chùa). Chùa tuy ở lưng chừng núi nhưng không hề thiếu nước, bởi có một mu đường ống dẫn nước từ đỉnh núi xuống một bể chứa tha hồ dùng. Vị sư trụ trì vốn theo dòng cổ Mật, lúc đó cũng khoảng trên 80 tuổi. Nơi này chỉ có sư trụ trì và một người Đệ tử ở cùng hàng ngày trì chú, kinh kệ. Một bữa, thay Chàm ghé thăm chùa và được sư trụ trì đãi cơm chay và đàm đạo suốt một ngày. Nhân đó, ông thay Chàm mới kể cho Trụ trì nghe về câu chuyện đời của mình và mục đích công việc tìm kiếm đang. Trầm ngâm hồi lâu, nhà sư già mới bảo thay Chàm: "Bần Đạo có thể giúp thầy tìm được tung tích ông Chà thấy, cái đó khó gì, song bản đào nhìn vào ánh mắt của Thầy, bản đào thấy sát khí bốc ngùn ngụt Bần Đạo. cũng nhìn thấy ánh mắt sau đó một cuộc huyết chiến kinh Thiên động Địa, tai kiếp, tai kiếp ... Hận thù nên cởi chứ không nên Gút lại làm chi Nghiệp báo. trùng trùng biết khi nào dừng ". Nghe vậy, thay Chàm vội Quỳ xuống chap tay xá vị sư và nói: "Bạch Thầy, gần một năm nay, con lặn lội khắp nơi để tìm tung tích Lão ta mà vẫn biệt tam. Con vẫn biết hận thù nên cởi chứ không nên Gút lại, song con đã thề trước vong linh hai mẹ con cô Lan, với Thầy Tổ quyết trừ hại cho dân, tiêu diệt lão thay Chà nên mới có ngày hôm nay Trước bàn thờ Tam Bảo,. con xin phát nguyện khi con làm xong việc lớn rồi, sẽ nguyện làm Bồ Tát Đạo, cứu giúp chúng sinh đến hơi thở cuối cùng Nhà con có nghề thuốc rất hay,. con sẽ dùng nghề thuốc để cứu dân chúng Thay tin. ở con đi "Ngô đậm. đậm vào mắt thay Chàm, nhà sư thở dài và nói: "Thôi, âu cũng là duyên nghiệp, tối nay, đúng giờ Tý, Thầy lại đây tôi sẽ giúp cho." Thầy Chàm vội phủ phục xuống đa tạ nhà sư. Ngoài kia, xa tit cánh đồng lúa của vùng Bảy Núi, chợt như ứng hồng và đó đây phảng phất một mùi hương cốm mới.
Suốt buổi chiều ngày hôm ấy, thay Chàm tranh thủ đi thăm các hang động có các vị Thầy đang tu luyện trên núi Két. Ngọn núi này từ chân lên tới đỉnh chỉ vài trăm mét, nhưng chứa đựng rất nhiều hang động to nhỏ đủ cỡ. Đặc biệt là trong các đám rạp ram cây mọc trên núi, có vô số các loại cây Ngãi, mọc um tùm. Ngọn núi này cũng có nhiều loại Ngãi khó kiếm ở nơi khác, là có lẽ do khí hậu thích hợp và ngọn núi rất dốc nên ít có người qua lại hay làm trên núi rầy. Trong các hang động, thay Chàm đã gặp được một vài người bạn học từ thời thanh niên, tưởng như không bao giờ có thể gặp mặt được nữa. Đặc biệt trong chuyến đi ngao du chiều nay, thay Chàm lại được gặp một vị Sư Huynh từ hơn 30 năm trước. Đang mải mê ngắm đám cúc Vạn thọ vàng rực trước cửa một khe núi hẹp, bỗng nghe tiếng kêu mừng rỡ gọi tên mình, thay Chàm ngước lên và nhận ra vị Sư Huynh của mình. Người này đang theo phép tu Tiên ở trên núi Két, sống hoàn toàn bằng nước suối và những bông cúc Vạn thọ. Nhìn hình dáng mình mai, sương hạc với bộ râu quá cảm của Sư Huynh, thay Chàm không khỏi bồi hồi, bất chợt thở dài. Mới nhiêu đó đã ngoài 30 năm có lẻ. Hai huynh đệ kéo nhau vào trong một cái hang khá rộng ngồi tâm sự chuyện đời. Nguyên do người Sư Huynh của thay Chàm, từ khi bị phạm tội và bị đuổi ra khỏi bon môn, đã lưu lạc lên miệt Thất Sơn - Châu Đốc này. Sau nhiều ngày dai dau với cuộc sống cùng cực, Sư Huynh được một vị Tiên Ông trên Núi Ông Cấm chỉ dạy phép tu Tiên và đã chọn làm nơi này noi tu luyện. Cũng rất có thể Ma Su Huynh vừa qua thời gian bế môn nên hai huynh đệ mới có dịp gặp nhau tại nơi này. Hai huynh đệ mải mê nói chuyện tới khi trời tối hẳn lúc nào không hay. Một cây đèn chai được thắp lên, ánh lửa nhỏ xíu chỉ đủ soi sáng cái mặt bàn bằng đá hơn một thước vuông. Sư Huynh cho thấy Chàm biết một bí mật của vùng núi này, một sự thật mà chỉ những người tu non tu núi này ở vùng mới biết lâu năm. Đó là bí mật về sự trợ giúp của các Thầy Tổ vô hình trên Tây An cổ tự. Từ thị xã Châu Đốc nhìn về hướng Tây thấy một ngọn núi cao khoảng 248 m gọi là núi Sam cách thị xã 5 km. Đến chân núi Sam, nhìn lên chân núi là thấy một ngôi chùa mang dáng dập của những ngôi chùa Ấn Độ có kiến trúc hài hòa với cảnh tríí thiên nhiên, tạo một vẻ đẹp lộng lẫy đó là chùa Tây An Cổ Tự. Chùa Tây An cổ tự do một vị Quán Triều Nguyễn đời Minh Mạng (1820) là Tổng đốc Nguyễn Nhật An xây dựng theo lời nguyện của ông khi được Triều đình phái đi Cao Miên. Theo lời nguyện này, nếu ông đi thành công, khi về sẽ dựng một ngôi chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Cất chùa xong, ông thỉnh vị hòa thượng đầu tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tịnh đến trụ trì. Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), chùa lại thỉnh thêm một vị hòa thượng nữa tên là Đoàn Minh Huyền, pháp hiệu là Pháp Tang đến trụ trì. Vị hòa thượng sau này ngoài việc tu hành còn có tài làm thuốc trị bệnh cho nhân dân rất hiệu quả nên sau khi ông mất, đồng bào suy tôn hòa thượng với danh hiệu là Phật thầy Tây An và danh hiệu này vẫn được gọi đến ngày nay. Phật Thầy tây An chính là người cho ra đời Đạo phái Bửu Sơn Kỳ Hương nực tiếng cả miền Nam thừa trước. Điều đặc biệt là hệ thống các bàn thờ Tổ các môn phái được bố trí thành một vòng tròn khép kín, chỉ những bậc tu hành trên núi mới biết được sự Linh ứng và dòng khí rất mạnh của từng ban thờ. Trong Tây Am Cổ tự có hầu hết tất cả những Tổ của Huyền Môn viền Đông Nam Á này. Khi viếng thăm, các Thầy thường phải đi theo đúng một quy luật nhất định và hầu hết được Tổ về chứng. (Dienbatn đã được huynh Thanh Pali hướng dẫn tỉ mi, và sau khoảng 30 phút ngồi Thiền tại đây, đã thấy được vô số điều lạ).
Thấm thoát đã bước vào 11 giờ đêm. Núi Két im lim phủ bụi trong màn sương. Cái lạnh thấm dần vào từng thịt thơ. Bốn phía xung quanh chỉ có màn sương trắng và hình chiếc mỏ Két lừng phổi giữa trời cao. Ông thay Chàm đề khí, phóng như bay giữa các bậc đá hiểm trở tiến về phía ngôi chùa. Lúc này trong chùa, chỉ còn vài ngọn đèn để cho cây leo, và bóng ông thay Chùa núi im lim trên vách.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:18 am


Trước mặt thay Chùa là một tấm gương đồng sáng lóng lánh, những ánh đèn chiếu vào tạo nên bóng như những người đang nhay múa. Thầy Chùa ra hiệu cho ông thay Chàm vào thắp hương Tổ thay cung thỉnh. Sau những lễ nghi của bản môn cung thỉnh Tổ thấy, cung thỉnh "Tây phương Phật Tổ Thích Như Lai, Bồ đề Tổ sư, 36 vị Lục Tổ Lục cụ, Chuẩn Đề, tật bồ Quan Âm, Già Lam chân Đế, 9 phương Trời, 10 phương Phật, Tả Quan Châu - Hữu Quan Bình, Đấu chiến Thắng Phật, Bạch Hổ sơn động ... Ngọc Hoàng Thượng Đế, chư vị Phật tổ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Nguyên Nhung chúa Tướng, Cửu Thiên Huyền Nữ , Cửu vị Tiên nương, ba ông Quốc Vương Đại Thần ...." , Thay bằng sap Chàm ngồi bên ông thay Chùa Thầy Chùa. Sơ giảng cho ông thay Chàm về tấm gương đồng: "Đây chính là một chiếc Kính Đàn, quà tặng của Tổ thay ta. Nó có nguồn gốc từ tận Tây Tạng xa xôi Nếu chỉ. luyện để thay Đàn trang, người luyện chỉ cần luyện trong vòng 49 ngày với chú Chuẩn Đề là thành công Riêng chiếc Kính Đàn này,. ta đã luyện liên tục rộng rã 1000 ngày. Nguyên tắc của luyện Kính đàn là trong thời gian luyện, không được rời khỏi nơi tu luyện và không để bất cứ ai nhìn vào Kính Đàn Khi luyện. xong, hàng ngày phải dùng bao vải đỏ bao kín và không được xê dịch Kính Đàn. Vì lý một bất cứ làm gì phải rời chỗ luyện đi qua đêm là phải làm lại từ đầu Chính vì. vậy, trong gần 3 năm qua, ta không hề bước chân khỏi chùa này. Ngày nay, thành tựu viên mãn, ta lần đầu xử dụng để giúp thay. Việc tìm kiếm kẻ thù hay bất cứ một người nào đối với Kính Đàn này chỉ là rất nhỏ một tác dụng so với toàn bộ công dụng của nó Tuy nhiên., tôi cũng cần phải nói trước với Thầy rằng cuộc đời của Thầy sẽ thay đổi rất nhiều sau khi nhìn vào Kính Đàn này Thay suy nghĩ kỹ chưa. Thầy Chàm vội? phủ phục xuống tạ ơn thầy Chùa và hứa rằng có không ân hận gì cả, mọi việc đã suy nghĩ kín kê lắm rồi. Nghe xong, thay Chùa gật đầu lặng lẽ và tới bàn thờ Gióng lên một hồi chuông Tiếng chuông âm vang, ngân xa trong mà đêm tĩnh mich.. Ngồi xuống theo Kiệt Già, thay Chùa bắt ấn và bắt đầu đọc Đà Ra Ni. Cứ sau mỗi câu chú là một lần thay đổi thế kiết Ấn thay Khoảng 30 phút sau Chùa mới vào bài chú chính: CHUẨN ĐỀ. Sáu. khoảng 3 chuỗi Chuẩn Đề, trên mặt Kính đàn bắt đầu xuất hiện những ảnh hình của một vùng xa lạ Lúc này thay Chàm dùng hết. tinh lực nhìn vào Kính đàn và chẳng mấy chốc hình bóng lão thay Chà hiện ra rõ dần, rõ dần. Ông lão thay Chà thấy thay Chàm đang ngồi luyện công bên một đầm nước lớn, hai bên có cặp rắn vàng có mạo đỏ hộ đàn Xung quanh. chỗ Lão ngồi là vô số cây cột, treo lung lang những đạo Phù ẩn thân cực lớn - Thảm nào mà kể cả Thiên Linh Tử tù của ông thay Chà cũng không thể phát hiện ra Nhìn kỹ. địa hình xung quanh một lúc lâu, ông thay Chàm đã nhận biết được vị trí của khu vực đó, một khu vực quen thuộc, Lão đã từng đi qua tại Tây Ninh. Lão chợt cười khan một mình. Tiếng tụng Đà Bởi ra nhỏ dần và ông thay Chùa đã sang phần hồi hướng công đức Hình ảnh trên Kính Đàm mờ dần,. mờ dần rồi từ từ biến mất.
Một hồi chuông nữa lại ngân lên vang vọng trong đêm thanh vắng, tiếng chuông như xoáy tròn và ngân dài, vang xa, thành những đợt sóng tập tit xa. Tiếng chuông này không rời thành tiếng mà liên tục, trầm hùng, đợt sóng âm này đè lên đợt sóng âm kia, làm cho ta có cảm giác như đứng trước biển đang có hàng ngàn đợt sóng trào dâng. Thầy Chàm vội ngẩng nhìn lên, thấy ông thay Chùa chỉ dùng dui chuông, xoay quanh miệng lớn một chiếc chuông. Tay của ông cầm và xoay rất nhẹ nhàng, nhưng muôn ngàn đợt sóng âm thanh từ chiếc chuông cứ vang mãi, ngân xa. Tiếng tụng chú Dược sư lại cất lên trầm hùng: Namo Bhagavate Bhaisajya-guru-vaidurya-Prabha-rajaya Tathagataya Arhate. Samyak-sambuddhaya. Tadyatha, Om Bhaisajye Bhaisajye Bhaisajya samudgate Svaha. Trên Kính Đàn lúc này hiện lên hình ảnh của ông đang thay Chàm ngồi phủ phục. Nhìn kỹ hình ảnh của mình, ông thấy thay Chàm ở trước vùng bụng của mình có một quảng Lè ánh sáng xanh, chiếm hầu như hết cả khoang bụng. Ngạc nhiên, ông quay sang thay Chùa có ý dò hỏi. Như một vị bác sĩ thuần thục, thay Chùa cầm một cành trúc, chỉ vào khoang bụng của thay Chàm trên gương và nói: Đây chính là vùng hai lá gan của Thầy. Hiện tượng có ánh sáng xanh như thế này chứng tỏ rằng đã thay vào gần cuối giai đoạn 3 của bệnh ung thư gan. Có lễ thời gian gần đây, Thầy bắt đầu hay có những cơn đau ở khu vực này không phải? Thầy Chàm vội phủ phục xuống đất và nói: Bạch Thầy, đúng là khoảng gần 2 tháng gần đây, tôi thường có những đợt nhồi đau tại vùng bụng. Nhưng cũng chỉ là nghĩ làm những Tổn thương do tuổi tác và những cuộc đấu võ mà ra, ai dè ... Tôi vẫn viết sống chết có số, nhưng tâm nguyện của tôi chưa hoàn thành, tôi không thể nào nhắm mắt được. Thay xem có cách gì cứu giúp cho tôi được không Thầy Chùa trầm ngâm một hồi lâu và rằng: Lẽ ra tôi cũng chẳng muốn nói với Thầy làm chi, nhưng đêm qua,? có hai mẹ con người đàn bà đến cầu xin cứu Thay lúc tôi đang tụng kinh. Mà lạ quá, đứa con trai là một vong hồn không đầu, còn người đàn bà xưng tên là Lan. Họ nan nỉ, khóc lóc dữ quá nên tôi đã siêu lòng, nhận lời chữa trị cho thấy. Muốn chữa khỏi bệnh của Thầy, tôi phải dùng lực của công chức mấy năm tu luyện để hóa giải. E rằng sau này, chân Khí của tôi cũng Tổn hao rất nhiều. Cứu một người bằng xây mười tòa tháp. Lại VA, tôi đã được sự đồng ý của đang Vô Vi rồi. Thầy phải ở lại trên núi này 100 ngày, tôi cam đoan với Thầy sẽ hết sạch bệnh. Thầy Chàm vội Quỳ xuống Chùa định thay lay, nhưng ông thay Chùa vội đỡ dạy mà rằng: Tôi với Thầy âu cũng là duyên nghiệp, đừng cảm ơn tôi làm chi. Có cảm ơn thì hãy cảm ơn các đang Vô Vi trên sân Tiên kia kìa. Thầy Chàm ngước mắt lên nhìn về phía sân Tiên trên đỉnh núi, những đám mây mờ đục đang trôi qua, bỗng như có muôn ngàn ánh sáng rực rỡ, huy hoàng.
Từ đêm đáng nhớ đó, thay Chàm ở lại trên núi Két để thay Chùa chữa bệnh ung thư cho mình. Hàng ngày, những lúc rảnh roi, hai Thầy thường lùng sức trong núi tìm những vị dùng thuốc để chữa bệnh ung thư. Chùa Thầy cho thấy Chàm uống thay nước liên tục 2 bài thuốc trục nọc độc trong cơ thể ra. Bài thứ nhất gồm 2 vị: BÁCH HOA XÀ + BÁN LIÊN CHI. Bài thứ 2 chỉ có một vị thuốc duy nhất là: Xa ĐEN. Ngoài uống thuốc, hàng ngày là 2 lần thay Chùa dùng công lực của mình kích thích tất cả những đường Kinh mạch, Huyet lạc trong cơ thể thay Chàm. Mỗi lần thay Chùa truyền năng lượng vào người, thay Chàm thấy toàn bộ các đường Kinh nóng của mình chạy, chạy chạy chạy khắp cơ thể. Những lúc như vậy, thay Chàm tập trung ý nghĩ, đưa các luồng hỏa hầu đi khắp các Huyet vị trong cơ thể và tập trung vào phá khối ung thư ở vùng bụng. Trong lúc điều trị, thay Chùa từ từ chỉ dẫn cho thấy Chàm nghệ thuật chữa các căn bệnh ung thư. Theo thay Chùa, muốn chữa được bệnh ung thư bất kỳ loại gì phải đảm bảo được các yếu tố sau:



Một là: Cả Thầy trị bệnh và con bệnh phải có một ý chí quyết tâm thật cao, tin tưởng sẽ thành công trong điều trị. Không có gì làm cho người bệnh chết nhanh hơn là mất ý chí chiến đấu chống bệnh tật. Điều đó giải thích được lý do, chính những bác sĩ, khi bị mắc bệnh ung thư thường chết nhanh hơn người bình thường. Có lẽ, các bác sĩ thường biết rõ về căn bệnh của mình hơn là người bình thường (hay bị người nhà dấu nguyên nhân bệnh). Ngày nay, các bác sĩ khi khám và điều trị ung thư thường quên mất điều này, tuyên bố người mắc bệnh ung thư có nghĩa là tuyên án tử hình người bệnh, làm cho người bệnh suy sup tinh thần, dẫn đến chán nản, Bường rơi điều trị.


Hai là: Việc ăn uống của người bệnh phải khiêng Khem hết sức cẩn thận. Tuyệt đối không uống rượu, bia, hút thuốc và cố gắng ăn chay càng nhiều càng tốt. Đừng nghĩ rằng, ăn chay không đủ chất như ăn mặn, thậm chí hiện nay người ta đã chứng minh rằng, trong đậu nành, đậu phộng, mè lại có độ đạm cao hơn cả thịt bò. Ngoài ra nên uống thay nước bằng hai thứ nước của 2 bài thuốc trên.


Ba là: Cần cải thiện môi trường sống, tốt nhất, khi bị ung thư nên chọn những vùng núi cao, sống ở đó mà điều trị. Khí hậu trong lành yên tĩnh và, giúp con người ta chiến thắng bệnh tật tốt hơn.


Bốn là: phải thực hiện đúng câu, Âm phù - Dương trợ, nghĩa là vừa dùng thuốc, vừa dùng chú DƯỢC SƯ và TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG đọc vào thuốc hàng ngày. Uy lực của những câu chú sẽ tăng hiệu lực của thuốc. Như vậy, hiệu quả chữa bệnh sẽ chắc chắn và nhanh hơn nhiều. Ngoài ra, những trường hợp bất khả kháng vì bệnh đã quá nặng, hoặc người bệnh hết số thì những điều trên cũng giúp cho người bệnh ra đi nhẹ nhàng và ít đau đớn hơn.


Tháng ngày thấm thoát trôi đi, 100 ngày trên núi đã đi đến những ngày cuối cùng, căn bệnh ung thư của thay Chàm biến mất như chưa bao giờ xuất hiện, thậm chí thay Chàm còn đỏ da, tham thịt và cường tráng hơn hẳn so với lúc chưa bị bệnh.


Đêm cuối cùng ở trên núi Két, thay Chùa căn dặn thay Chàm lần cuối: Từ nay Thầy phải phát nguyện hành Bồ Tát Đạo, thấy ai có duyên thì chữa trị cho họ và quan trọng là Thầy cô gắng kiềm chế mối hận thù. Oán thù chỉ nên cởi chứ đừng cố buộc làm gì. Ngày mai Thầy phải xuống núi, lần này có lẽ là lần cuối chúng mình gặp nhau. Chúc Thầy thượng lộ bình an và cố gắng hành thiện cứu đời.


Thầy Chàm Quỳ xuống Lạy tạ ơn cứu tử của Thầy Chùa rồi khoác tay nai xuống núi, nhằm hướng Tây Ninh rao bước. Đằng sau, mỏ của ngọn núi Két như lúc lắc lên xuống chào thay. Một trang mới lại bắt đầu trong cuộc đời giang hồ của ông thay Chàm.



Về đến Tây Ninh lúc này đã vào giữa mùa khô. Chút hơi lạnh từ phía lòng hồ Dầu Tiếng thổi về như báo hiệu thêm một cái Tết đến gần. Những vườn Điều chi chít quả đã chín vàng óng trên cành, phô ra bên ngoài những hạt Điều nâu sam. Những Vườn Xoài cũng mang nặng những quả lúc Liu, thôi thì quả chín, quả Hường vàng như muốn trả công một nắng hai sương cho người chăm sóc. Cả Tây Ninh giờ này trông thật là sung túc. Người ta có thể chạy xe hàng giờ cũng không hết những động mía, động mì, những vườn Xoài, nhãn tiêu da bò, vườn Điều, tiêu. Tại những xóm nhỏ ven đường, có nhà trồng hàng ngàn nọc tiêu, những thân cây khô làm nọc cho tiêu leo được quan một tấm áo choàng xanh mướt sung sung xếp hàng vươn lên trời xanh. Dân Tây Ninh có một cái lạ là hay làm theo phong trào, nếu thứ cây nào có giá là đua nhau trồng, không hề nghĩ đến đầu ra cho sản phẩm. Chính vì vậy mà người dân Tây Ninh hết khổ vì mì, mía đến tiêu, điều vì lý do bội thu. Thường cứ 3 năm lại có một đợt giá cao, bài hát tiếp đến 2 năm mất giá. Nhiều nhà dở khóc, dở cười, thậm chí ngồi nghiệp cũng vì làm ra sản phẩm không có nơi tiêu thụ.



Thầy Chàm trở lại vùng chân Núi Cậu, ven lòng hồ Dầu Tiếng. Việc đầu tiên của ông là ra thắp hương trên phần mộ của hai mẹ con cô Lan. Lần này, ông ngồi rất lâu trước hai ngôi mộ, tay lần nhổ từng cọng cỏ đến khi sạch bóng, sau đó ông lại lui cui dùng xẻng đắp cẩn thận từng xẻng đất lên mộ cho tròn đầy. Khác hẳn với những lần trước sức sôi căm hận vì ý định trả thù, lần này trông ông bình thản, nhẹ nhàng, âu yếm xúc từng xẻng đất đắp mộ, nhận nha như một người không còn vương bận với ngày tháng. Chiều xuống, ông giang võng ngay gần hai ngôi mộ. Một đĩa cá khô sắc, một cút rượu đế Gò Đen ông mua khi đi qua vùng này được bày ra, một đống than hồng được đốt lên. Đêm nay, ông quyết ở lại tâm sự với Linh hồn hai mẹ con cô Lan. Treo tay nai và đôi kiếm cổ trên một cây chắc nơi mắc võng, ông ung dung ngồi nhậu một mình, chốc chốc lại sốt rượu xuống đất mời vong linh hai mẹ con, ông một bấm Lâm Minh nói chuyện với các vong. Từ chập tối, ông đã ra lệnh cho các Thiên Linh Tử tù đi lùng sức khu vực ông đã thuộc nằm lòng trong suốt thời gian qua trên Núi két. Vì khu vực đó nằm tại Bến Trường - Châu Thành là nơi gần Ngã ba Vì vậy, nên ông cũng đã cho phép đám Thiên Linh về lại thăm nơi chôn cất thân xác của chúng. Chắc chắn, trước khi trời sáng ông sẽ biết rõ sự tình. Đêm nay, ông Gianh trọn thời gian cho mẹ con cô Lan. Lâu lâu, ông lại tới đốt thêm nhang cắm lên hai phần mộ, ánh nhang trên mộ sáng lập loe cùng bụng bắp ánh lửa, ông thay bóng Chàm ngồi nhậu ung dung, khiển người ta phải liên tưởng như đang ở một cõi u linh nào đó. Khoảng hai canh, khi cút rượu cũng vừa cạn, một luồng gió lạnh bất chợt nổi lên, cuốn tung đi những tàn lửa đỏ Vút lên bầu Trời đen đặc, ông thay Chàm vội ngồi ngay ngắn lại: Ông biết Vong Linh, con của mẹ cô Lan Đã về.


Từ trong màn đêm mờ ảo hơi sương, khói, bóng hình hai mẹ con cô Lan từ từ hiện ra, rõ dần, rõ dần. Cô Lan vẫn mặc bộ đồ bà ba trắng như ngày nào, dắt thằng bé cụt đầu đến phủ phục ngay cạnh ông. Tiếng rút ram khóc, ai oán đến xé lòng của hai mẹ con, ông khiển thay Chàm cũng không ngăn được dòng lệ. Sau một thời gian rất lâu mới ngưng được tiếng khóc, cô Lan cho ông biết tình hình của lão Thay Chà lúc này. Theo cô, đúng như ông đã từng thấy trên Kính Đàn, lão Thay Chà đang luyện công tại một khu rừng chơi ngay tại Bến Trường, cách Ngã Ba Vì vậy, khoảng vài Km. Sở dĩ lũ Thiên Linh tử tù không phát hiện được ra Lão vì Lão đã sử dụng một thuật bí truyền của Huyền Môn để ẩn thân. Thời gian vừa qua, Lão đã luyện thành công được khá nhiều pháp môn của các môn phái khác nhau. Mặt khác, hỏa hầu của Lão hiện nay cũng đang vô cùng sung mãn. Đặc biệt, lão đã luyện thành công một pháp môn tối cổ của người Thái không biết lão học được của ai, để có thể sai lưỡi khiển ngay guom của địch thủ đang cầm trên tay. Lúc Lão đọc Chú, lưỡi guom đó sẽ quay lại bất ngờ giết chết chính chủ nhân của nó chỉ trong gang tac. Ngoài ra, Lão cũng đã luyện thành công cặp Rắn Thần vẫn theo Lão từ bao lâu nay thành một thứ Vũ khí giết người từ xa hữu hiệu. Hai mẹ con cô Lan rất lo ngại cho thấy Chàm trong cuộc quyết chiến sắp tới. Hai mẹ con thề với thay Chàm sẽ quyết tâm theo dõi tìm những yếu điểm của lão Chà thấy, giúp thay Chàm thành công trong thời gian tới. Cô nhắc thay Chàm nên liên kết với vợ chồng ông thay Bảy Tây Ninh mới co cơ thắng được trận này.


Ba người cứ thế cùng nhau tâm sự, chút hết những nhớ nhung, oan ức trong lòng tới gần canh tư lúc nào hay không. Bỗng nhiên, từ không xuất hiện trong trung mấy bóng trắng từ từ hạ xuống cùng với mùi tanh hôi khủng khiếp, lan tỏa nhanh hơn trong màn đêm lạnh. Thứ mùi này, người ta liên tưởng tới ngay mùi mà ta hay gặp ở những nhà quan xác người chết - Lũ Thiên Linh Tử tù đã về.



Khi lũ Thiên linh tử tù vừa hạ xuống trước mặt ba người (đúng ra chỉ có 1 người và 2 hồn Ma), chúng đã vội tranh nhau kể chuyện. Vì đứa nào cũng muốn tranh công nên chúng làm ồn cả lên, khiển chẳng ai nghe được gì, chỉ đến lúc ông thay Chàm nat nộ chúng, chúng mới chịu yên lặng. Đại khái, chúng kể về những thay vòng rào tâm linh được lão Chà dựng lên xung quanh khu vực lão luyện công. Từ ngoài vào đến chỗ Lão Chà luyện công có đến ba hàng rào Tâm linh cực kỳ hiệu quả và ác độc. Vòng ngoài cùng được bảo vệ, tuần tiêu bởi lũ âm binh giấy, được Lão thay Chàm cắt bằng hình nhân giấy và tập luyện rất công phu. Vòng thứ hai là vòng bảo vệ của các loại Thiên linh Thai nhi, Thiên linh sọ người, Thiên linh chuối hột, Thiên Linh mèo, rắn. Vòng trong cùng là nơi kiểm soát của cặp Rắn Thần vẫn luôn cùng Lão bao lâu nay. Ngoài ra, khỏang cách giữa hai vòng rào là những chiếc bẫy bằng Trận đồ hình mạng nhện, chúng hình dạng như một cái Xá Đốm cá, mà ở phần cuối là những chiếc Hồ Lô sành có dán đầy Bua, dùng để thu phục, bắt nhớt các Thiên Linh của đối phương. Khi những Linh hồn Ma hay Thiên Linh cái không may mắc vào Trận đồ này lập tức bị cuốn vào cuối trận và nhiều vào trong Hồ Lô; Lúc này, chúng bị các lá Bua tấn công làm cho hồn siêu Phách lạc, khó có thể đầu Thái Lan sang kiếp khác được nữa. Trận đồ này thật là tàn độc, đến nỗi có một Thiên Linh tử tù mới đến ở khỏang cách khá xa, chút nữa là bị cuốn vào Trận đồ, cho tới tận lúc này hắn sợ vẫn còn chạy.



Nghe chúng kể xong, tất cả đều lặng thinh. Thật là một vùng đất Thiên La - Địa võng, khó mà công phá được. Ông thay Chàm lo lắng ra mặt, lặng thinh củi đầu suy nghĩ. Duy chỉ có hồn cô Lan từ đầu đến giờ vẫn yên lặng, bây giờ mới nói với Thầy Chàm: "Vẫn biết là lão thay Chà có đề phòng, ai dè hệ thống phòng ngủ của Lão ta quá tàn độc Tuy vậy., Không phải là không có chỗ hở. Tôi thấy rằng, Lão Thay Chà không lưu ý tới khúc sông Vàm Cỏ Đông chảy ngay sau lưng Khúc sông này hàng trăm thước rộng, sâu hơn chức thước, nước chảy siết vô cùng., thuyền bè đi qua khúc này thường bị đắm là do dòng xoáy nước có nhiều Tại khúc sông chỗ khu vực Bến Lở, ngày xưa có một chiếc tàu chiến của Pháp bị đánh đắm., bùn đất tụ lại tạo thành những nhiệm vũng xoáy rất nguy. Chính vì có dòng sông nguy hiểm như vậy mà phía này Lão Thay Chà chủ quan ít đề phòng nên tấn. Ta công vào hướng này từ Mặt khác, Thầy nên sang nhà Thầy Bảy Tây Ninh nhờ hai vợ chồng Thầy Bảy trợ giúp.. Tôi nghĩ, nếu có sự trợ giúp của vợ chồng thay Bảy và lũ Đệ tử, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng Chà thay Riêng hai. mẹ con chúng tôi xin đảm nhận trinh sát phía bờ sông Vàm Cỏ Đông. "


Thầy Chàm gật đầu đồng ý và phân công lũ Thiên linh tử tù tiếp tục theo dõi mọi động thái của lão Thay Chà. Lúc này đã gần sáng, hai mẹ con cô Lan và lũ Thiên Linh tử tù lập tức biến mắt, thay Chà nai tay chuẩn bị, sáng nay sẽ hát cho thấy Bảy Tây Ninh nhờ trợ giúp. Từ phía núi Cậu, những tia sáng sớm buổi đã bắt đầu lên hung, chiếu sáng cảnh bờ hồ Dầu Tiếng ướt đẫm sương đêm, làn hơi trắng đục mờ mit dải trên mặt hồ như những cánh màn giang, tạo nên một vẻ đẹp thê lương não lòng đến. Một ngày mới lại bắt đầu trên lòng hồ Dầu Tiếng.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:19 am


Ngay trong ngày hôm đó, khi thay Chàm đến cầu viện, vợ chồng ông Thầy Bảy đã cho triệu tập tất cả các đệ tử trong môn phái của mình về cấp tốc. Cách của ông kêu đệ tử về cũng lạ. Chẳng cần cho người đi gọi, vì thực tế, nếu có đi gọi thì cũng chẳng biết họ ở đâu mà lần. Chỉ thấy thay Bảy đốt một Lư trầm trên bàn thờ Tổ, thắp 7 cây nến xếp theo hình chòm sao Bắc đâu. Sau đó ông lên Đàn lầm ram đọc chú. Chỉ đơn sơ có vậy mà từ trưa tới chiều tối, hầu hết các đệ tử ở đẳng cấp cao đã có mặt tại nhà thay. Buổi tối hôm đó, thay Bảy triệu tập một cuộc họp bất thường về công việc của ông thay Chàm. Sau khi nghe Thầy Chàm kể về những gì mình đã biết về khu vực cũng như những cách thức phòng Ngự của lão Chà thấy, tất cả đều thinh lặng, củi đầu suy nghĩ. Ông Bảy cũng lắm phổi suy nghĩ, tạm thời mọi người chưa tính ra được kế gì khả dĩ có thể đột nhập vào nơi đó. Nếu tấn công trực diện, không thể nào tránh được Tôn Thất về nhân mạng, điều đó cả thay Chàm và vợ chồng ông thay Bảy đều không muốn. Còn để đảm bảo không có Tôn Thất mà có thể thắng được lão thay Chà thì chưa có một phương pháp nào khả dĩ. Bàn cai mãi tới nửa đêm chưa ngã ngũ, một nồi cháo gà to tướng được bưng ra chiêu đãi thay Chàm và các chư huynh đệ. Mọi người ai cũng thấy ngọt bụng nên chẳng mấy chốc nồi cháo gà đã hết Veo. Bà Bảy từ tối đến giờ vẫn yên lặng chỉ huy con cháu nấu nướng, Dọn dẹp, bây giờ mới thong thả hướng về ông Bảy lên tiếng. Bà nói: "Ngày xưa, khi chúng tôi còn học phép tại Tà Lơn, Sư Tổ có lần bàn về cách thức giải phá trận đồ kiểu này Chắc ông Bảy còn. Nhớ buổi dạy của Sư Tổ bữa đó Đây là một? Phép? phá trận được lưu truyền bí mật trong bản môn, chỉ được truyền lại cho những người trưởng Tràng để tiếp nối cho đời sau Hồi đó., ông Bảy là một thanh niên thông minh, nhanh nhẹn và rất từ bi nên Sư Tổ chỉ định Ông dạy cho một mình, hy vọng sau này ông sẽ thế chức Trưởng môn phái tại Tà Lơn Tuy nhiên., vì ông Bảy còn mẹ già ở bên Việt Nam, không thể ở mãi bên Tà Lơn được, nên ông đã từ chơi học , Nhường cho người bạn thân của mình là vị Trưởng môn đời thứ 7 hiện nay ở Tà Lơn. Sau này, ông Bảy và Bà Bảy được chính Sư Tổ kết duyên cho hai người và để về Việt Nam sinh sống như nguyện vọng của thay Bảy Trước khi cho hai người xuống. núi về quê, Sư Tổ âm thầm tặng cho bà Bảy cuốn bí kíp về cách thức phá trận đồ, dặn phải học cho nhuần nhuyễn để lúc hữu dụng, có thể trợ giúp cho thấy Bảy. Đây chính là một đặc ân của Sư Tổ dành riêng cho hai vợ chồng ông bà Bảy Đây cũng chính là kỳ vọng Ma Su Tổ đặt lên vai ông chồng vợ,. hy vọng sau này môn phái được phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Thay Bảy ngạc nhiên qua đời, vì hai vợ chồng về Việt Nam đã mấy năm chức, bữa nay bà Bảy mới nói ra chuyện này Nhưng ông. cũng đã hiểu tính của bà Bảy, cái gì cần đến thì lúc đó bà mới chỉ bảo, không bao giờ nói trước điều gì cả Có lẽ bà Bảy vẫn còn chưa tha cho ông Bảy câu nói ngày xưa,. khi ông chú thấy bà chăm chỉ vào học các môn thư, yếm nên đã có nói - Không khéo bà sa vào Tà Lúc đó đạo. bà Bảy chỉ im lặng, nhìn trân ông trời và cười nhạt Cho đến. mãi về sau ông mới hiểu rằng, không có những kiến thức về Thư, Yếm của bà Bảy thì giờ này ông cũng xanh cỏ nhiều lần rồi .
Bà Bảy từ Tốn kể tiếp cho mọi người nghe về phương pháp dựng đồ và phá trận. Theo truyền thuyết kể lại, phương pháp này Khổng Minh - Gia Cát Lượng học được chính từ vợ của mình. Vợ Khổng Minh tuy hình thể rất xấu, vừa lùn lại vừa hoa ro về nhân tướng nhưng lại là một hình thể cực tốt. Bà là người tinh thông nhiều môn như Thái Ất, Đơn Giáp, Tử Vi và là một đệ tử chân truyền của một cao nhân ẩn sĩ vùng Động Đình Hồ. Chính vị này đã chỉ dạy cho bà cách dựng và phá những Trận đồ ngày ấy. Sau này, bà truyền lại cho Khổng Minh và những Trận pháp do Khổng Minh dựng vang tiếng cả ngàn năm. Thực sự việc xây dựng một TRẬN ĐỒ vì mục đích gì đi chăng nữa, người Chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp. Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyet kết ở đâu, hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa, Thiên Môn - Địa hộ ở đâu, Tính chất Âm - Dương, Ngũ hành của Khí Huyet như thế nào, người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long (Phận biệt các loại Khí Hỏa Khánh, Không hư, Bảo Châu), phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân, Lộc, Mã, Quý, Tứ cát, Tam Kỳ , Bát Môn, an các Thiên Can, Địa Chi lên Bát Quái Đồ Thiên Hớn. Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất, Đơn Giáp.



Việc xác định được cửa SINH của BAT QUAI ĐỒ, tuy khó khăn nhưng chưa thấm vào đâu so với việc tính toán thời gian Huyet mở của tại cửa SINH. Việc này ngày xưa các cụ tính rất giỏi nay tiếc rằng đã thất truyền. Hiện nay chỉ còn nguyên lý của nó thông qua việc tính toán THỜI CHAM - ty NGO Lưu Trữ VÀ LINH QUY BÁT PHÁP.


Tuy nhiên theo nguyên lý "Nhất Bon tán Vạn thù - vạn thù quy nhất và bon '" Đời - Đạo, ÂM - DƯƠNG ĐỒNG NHẤT LÝ "Chúng ta. Hoàn toàn có thể dùng thời châm để tính thời gian Huyet mở.


Ví dụ: Ty - Ngô LƯU CHÚ là hai tự trong 12 Địa Chi, chỉ về Thời gian. Hàm ý quá trình ÂM - DƯƠNG biến hóa, tiêu, trưởng của Thời gian. Trong một ngày thì giờ Tý (23 - 1g) ở nửa đêm là lúc Âm thịnh nhất (cũng là lúc Dương bắt đầu được sinh ra Giờ Ngọ. (11-13 g) vào lúc giữa trưa, lúc Dương thịnh nhất (Cũng là Âm lúc mới sinh ra).


Trong một năm thì tháng Tý (Theo Dan âm lịch kiến hiện nay là tháng 11) là tiết Đông Chí, là thời kỳ Âm thịnh nhất nhưng cũng là thời kỳ Dương được sinh ra. Tháng Ngọ (Tháng 5 Âm lịch) chứa tiết Hạ Chí là thời khí Dương cực thịnh, nhưng đồng thời cũng là thời kỳ "Nhất Âm sinh".


Hải từ LƯU - CHÚ có nghĩa là chỉ vào sự chu lưu, tưới rót của Khí trong các Kinh, Mạch.


Thuật ngữ TY - Ngô LƯU CHÚ có hàm nghĩa: Khí thịnh, suy, lưu động trong các Kinh mạch (Hay Long mạch cũng vậy) theo nhịp điệu của thời gian chuyển biến. TY - Ngô LƯU CHÚ PHÁP là một phép Thời châm, chọn Huyet Khai, Mở theo giờ thịnh, suy (Huyet mở hay đóng) của Khí trong Kinh mạch (Hay Long mạch). Nó sử dụng 66 Huyet Ngũ du của 12 chính Kinh làm Huyet chủ.


Phép TY - Ngô LƯU CHÚ cũng như các phép LINH QUY BÁT PHÁP, PHI ĐẰNG PHÁP đều là những phép THỜI ĐIỀU TRỊ từ thời cổ xưa. Người xưa cho rằng, nắm được các phương pháp này thì nghệ thuật chữa bệnh hay làm Phong thủy, dựng trận được nâng cao bậc tốt, có hiệu quả hơn hẳn, tác dụng nhanh và chính xác hơn, ví như chèo thuyền gặp nước xuôi .. nhất là với những ca cấp tính.


Trong bài "Luận về phép Tý Ngọ Lưu Chú" - Từ Văn Bá (Từ Thị) viết: "Nói phép Tý - Ngọ Lưu Chú là nói cương nhu tương phối, Âm - Dương tương hợp, Khí Huyết tuần hoàn, giờ Huyet mở , đóng "(Theo Châm cứu Đại thành của DƯƠNG KẾ CHÂU).


Cương, nhu ở đây là nói về Tạng phủ, Kinh mạch. Âm - Dương ở đây là nói về Can - Chi phối với Âm - Dương. Nội dung chủ yếu của phép Thời châm này bao quát: Thiên Can, Địa Chi, Âm Dương, Ngũ Hành, Tạng phủ, Kinh lạc cho đến các Huyet Tỉnh, Vinh, Du, Nguyên, Kinh, Hợp ....


Ngày phối Kinh, giờ phối Huyet. Mỗi ngày (có thể) có một đường Kinh chủ đạo đồng tính Âm Dương - Ngũ hành với nó. Ngày Kinh chủ đạo bắt đầu và kết thúc vào giờ đồng Can với ngày lịch. Dương Kinh dẫn Khí đi trước, Âm Kinh dẫn Huyết đi trước. Ngày Dương (Can, Chi), giờ Dương Khai (mở) huyết dưỡng. Ngày Âm, giờ Âm Khai Huyet Âm vì Dương gặp Âm thì đóng lại. Gặp các trường hợp này thì dùng nguyên tắc tương hợp như Giáp (1) hợp Kỷ (6) .... và nguyên tắc "Bổ tả Huyet con Mẹ" để giải quyết. Phần lý thuyết tuy đơn giản như vậy, song khi bước vào thực tế thật là vô cùng nguy hiểm. Tuy khó khăn như vậy, nhưng chiếc khóa nào cũng có chia để mở cả. Chúng ta chỉ cần tra chia đúng là chiếc khóa dù phức tạp đến mấy cũng sẽ nhẹ nhàng mở ra. Theo tôi, trận của Lão thay Chà tuy có vẻ hiểm học, song Lão ta dù học được một ít về Trận pháp, song vì không hiểu được Quái lý, nên trong Trận pháp này bày ra nhiều điểm yếu. Chúng ta hoàn toàn có thể phá trận này một cách dễ dàng


DIENBATN THĂM BÀ TRÚC LÂM NUONG.



Ông Bảy từ nay đến giờ vẫn hết nhìn bà Bảy lại nhìn sang ông thay Chàm vẻ như là làm, bỗng ông nói buột miệng: "Tôi cũng có được nghe giảng qua về trận đồ Bát Quái trong Huyền môn Thậm chí. Khi biến trận , nó có thể xoay theo 360 độ số Trời, lúc đó có hằng hà sa số kiểu trận biến thiên không ngừng theo tháng năm, ngày giờ Ngoài ra. vì có hai vòng thuận nghịch theo chiều của Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái, nên nó giống như hai bánh xe quay ngược chiều nhau, lúc đó vào được cửa Sinh chẳng khác nào ta phải bắn một mũi tên xuyên qua các cây nan hoa của hai bánh xe quay ngược chiều nhau Khi dựng. trận kiểu này, cũng phải cần đến 20 người có công lực thâm hậu nữa, trong mỗi vị trí của các phương Bát Quái, phải có một người ngồi trụ, như vậy hai vòng Tiên Thiên và Hậu Thiên hết 18 người, ngoài ra, còn phải có hai người bên ngoài chỉ huy trận và phát công khởi động Trận đồ nữa Việc này khó kiếm, quá ta đâu ra người cho đủ đây.. "


Bà Bảy từ Tốn nói: "Ông thật khéo lo xa. Việc tính toán thời gian mở cửa Sinh của trận, tôi đã có sẵn một bụng đây rồi (Ông Bảy nhìn sang cái bụng lép kẹp của bà Bảy bật cười) Việc khó. nữa là kiếm người có nội công thâm hậu, đủ sức chịu dựng sự vận động của Trận đồ cũng có cách rồi, ông quên những người bạn của chúng ta rồi sao? ".


Ông Bảy nghe như vậy chợt trút được gánh nặng trên vai, thay Chàm cũng vẻ mặt rạng ngòi. Nguyên là vùng đất Tây Ninh này là nơi xuất phát của Cao Đài Đại Đạo chức từ mấy năm trước, các cao thủ tụ về đầu quân rất nhiều. Tuy nhiên vì một lý do riêng, chỉ có phái THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO là có khả năng bày bố những trận kiểu đồ này, họ đã tổ chức những cuộc đi hành hóa giải khai Huyet đạo ở rất nhiều nơi. Ngoài ra còn một số môn phái khác như: Tân Chiếu Minh, Tổ Tiên Chính Giáo, Vô Vi pháp, Ayasanta, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa .... cũng có rất nhiều các cao thủ tu tập ở trên núi Bà, núi Heo, núi Phụng, núi Cậu. Ông bà Bảy đều có những mối quan hệ thân thiết với các nhóm đó. Nhanh nhẹn, ông Bảy phân công thay, Ông và thay Chàm lần lượt đi đến các giáo phái nhờ giúp đỡ (tất nhiên là với tư cách cá nhân), bà Bảy ở lại nhà trông coi lũ đệ tử và tính toán Trận đồ. Bây giờ muộn rồi, mai hai người sẽ đi sớm. Một nồi cháo nhím được Dọn ra, thịt nhím trắng và thơm hơn cả thịt gà, ngọt ngay. Vừa ăn, vừa khe khà chén rượu, cả nhà vui như vừa vượt qua được một thử thách khó khăn. Màn đêm đen kit bao phủ khắp nơi, lai vãng từ xa xa tiếng chó sửa vu vơ ma.





TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG.



Trong suốt gần một tháng sau đó, Thầy Bảy và Thầy Chàm lần lượt đi viếng thăm các Đạo hữu thân thiết mà từ lâu lắm rồi họ không gặp được. Đầu tiên hai ông tìm đến thăm người bạn thâm giao nhất của hai ông là một người theo phái THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO của Giáo phái Cao Đài. Phái THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO là một nhánh của Giáo phái CAO ĐÀI, nhóm này thường rất giỏi về nhận Điển và bày bố TRẬN PHÁP. Người bạn của hai ông là một chưởng quản của NAM THÀNH THÁNH THẤT. Đây là một người đàn ông cao lớn, có khuôn mặt hết sức cởi mở, cuốn hút. Vừa bước vào Thánh Thất, hai ông nghe một giọng đọc thơ Điển vang vọng:

" Tâm sẵn Ngọc minh há kiếm ngoài,


Chuyển luân Hoàng đạo Cao Đài hiện.


Chơn truyền Thượng hạ ban từ thử,


Sự nghiệp Đế Thiên đã định bày ".


Thầy Chàm chợt buột miệng: Hay, trong Tâm đã sẵn có Ngọc, lẽ nào lại phải đi tìm kiếm Ngọc quý ở ngoài thân. Tìm cầu chánh giác phải quay về nội Tâm. Như vậy, bài Điển của Ngọc Hoàng Thượng Đế ta vừa nghe, như muốn khuyến cáo cho chúng ta nghĩ lại, cái gì nên bỏ và cái gì nên mang theo cho cuộc hành trình sắp tới. Thật ra, đời sống của con người ở cõi tạm cái này, xét lại một kiếp người thì đâu còn được gì? Thật sự, lẽ cùng cực của Đạo là mức tuyệt đối. Mà thật là lạ - Ông tuyệt đối thì không còn nói gì đến những điều thương, sự ghét. Nhưng cũng phải thấy rằng, cuộc sống trong thế gian này chỉ là trường đối đãi, do vậy sự từ bi, bác ái được nêu lên chỉ là việc thường để chạy lòng. Ông Thầy Bảy cũng buột miệng nói: lạ ghê, chúng ta chưa hề nói mục đích của chúng ta đến đây mà ngài chưởng quản NAM THÀNH THÁNH THẤT như đọc thấu ý nghĩ của chúng ta.


Từ trong Thất, một bài thơ nữa La Vang ra:

" Nhìn xem mấy bài phù vân,


Chợt tan, chợt tụ, bao lần tụ tan.


Xuân qua, Xuân lại Trần gian,


Chỉ người giác ngộ huy hoàng đón Xuân.


Dầu trong cõi tạm Hồng trần,


Trọn gìn Tâm Đạo thì Xuân vĩnh tồn ".


Ông Thầy Chàm lại hơn nho nhỏ: Sao mấy bài thơ này giống Điển những lời vị sư già trên Núi Két ta dạy thế nhỉ. Hai người dom định bước tiến về phía Thất thì một chú Đồng tử mặc đồ trắng cầm một tờ giấy ra đưa cho hai người và bảo: Thầy dặn tôi trao cho hai vị tờ giấy này, bởi Thầy tôi đã nhập Thất, không thể tiếp các vị được.


Trên tờ giấy trắng là một bài thơ viết bằng mực Tàu, chữ như Rồng bay - Phượng múa:

" Đời thấm thoát qua cuộc bể dâu,


Ham vui chỉ chước cuộc mua sầu.


Lập thân muốn tránh đường mưa gió.


Tìm Đạo nương mình vững nhiếp sau.



Rừng Thiền trở gót mới ung dung,


Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.


Lao lực thế tình chi xạo sự.


Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.


Cung đàn chờ khách cận song thu,


Năng mến Đạo màu chí Trương Phú.


Biển khổ VOT người thuyền gặp lúc,


Đeo đai Thế sự chỉ mua sầu.


Tách bến sông mê thuyền tất sóng.


Lọc lừa nghiệp quả kẻ có duyên.


Trương buồm Hạnh - Đức xuôi chiều gió,


Đưa khách phởn hoa lánh nèo phiền ".
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:19 am


Ông Bảy hơn rằng: Có lẽ sư huynh này muốn ta dẹp bỏ thù hận đây? Ý ông như thế nào. Thầy Chàm ngo mông lung ra phía cánh rừng xanh thăm thẳm phía trước mà không trả lời.
Một hồi rất lâu sau, hai ông đành tạm biệt NAM THÀNH THÁNH THẤT lần ra ngoài đường. Bóng chiều đã dần Bường trên những cánh rừng. Từng đàn trâu đeo mõ lốc cốc đi về chuồng. Ngoài đằng kia, nhà nào đốt rơm đuổi muối cho trâu, hương vị của khói rơm nao nao trong lòng người xa xứ. Tìm mãi mới được một quán cóc còn bán hàng, hai ông lần vào trong, gọi hai xị rượu đế với một miếng khô cá đuối nướng Nhâm nhi ngồi, nghĩ tới công việc ngày mai.



Nhớ lại những bài thơ buổi trưa, ông Thầy Bảy chợt cất giọng ngâm theo điệu Nam ai:

" Mê đắm tình đời luống khổ Tâm,


Muôn Thu chịu mãi bước sai lầm.


Xa đường Thiên Đạo không trông thoát,


Nhơn dục cháy bừng đốt tri Tâm ... "


Rồi quay sang ông Thầy Chàm cung cách ly và đánh hỏi nhỏ: - Bây giờ ông tính sao?


Từ nay đến giờ, ông Thầy Chàm ngồi bó gối im ru, mắt ông uốn ướt, đầy vẻ thê lương. Mãi một hồi lâu sau ông mới cất tiếng: - Anh Bảy ơi! Sao tôi khổ Tâm quá. Việc của mẹ con cô Lan, ông đã biết rồi, không trả thù thì tôi đâu còn mặt mũi nào nhìn họ nữa. Nhưng nghĩ đi cũng phải suy lại, từ vị sư già trên Núi Két cho tới vị chưởng quản NAM THÀNH THÁNH THẤT đều có ý khuyên chúng ta nên bỏ ý định trả thù. Tôi hoang mang quá anh Bảy ơi.


Ông Bảy cũng trầm ngâm, rồi ôm vai người bạn già đau khổ mà nói: Thôi thế này, ngày mai chúng ta thử đến chi nhánh của các Giáo phái Tân Chiếu Minh, Tổ Tiên Chính Giáo, Vô Vi pháp, Ayasanta gần đây xem sao. Tôi nghĩ với tình thâm giao mấy năm trời chức, lẽ nào họ lại không giúp chúng ta, nếu trường hợp tất cả cùng chơi từ, thì âu cũng là mệnh Trời. Bây giờ phải kêu thêm hai gói mỳ tôm đánh bụng để mai có sức đi tiếp. Đêm hôm đó, hai vị Thầy giang hai cánh võng nhờ cột của quán nằm đốt thuốc mông lung. Suốt đêm đó, không ai ngủ được, mọi việc được quay lại như một cuốn phim Chầm chậm. Thấm thoát đã hơn một năm từ ngày cái đầu lâu mất tích. Từ đó bao nhiêu biến cố đã xảy ra, đẩy hai ông bạn già, hai vị Thầy cao tay Khet tiếng xứ Tây Ninh này phải vạ vật nơi đây. Lâu lâu, trong đêm thanh vắng, tiếng chó tru từng hồi dài như muốn báo hiệu một kết cục không lấy gì tốt đẹp. Mãi gần sáng, hai ông mới chớp mắt được đôi chút. Trong giấc ngủ mộng mị, hai ông như con thấy mẹ cô Lan và lũ Thiên Linh tử tù quần đảo khắp xung quanh, canh gác cho hai ông ngủ. Một ngày mới lại bắt đầu ...



Ngày hôm sau, hai Thầy lại tiếp tục lên đường trở về chợ Long Hòa. Lúc đi qua ngôi tháp Bát quái cạnh chợ, họ dừng lại thắp vài nén nhang, tưởng nhớ đứa con đã mất và trận chiến bi hùng năm trước. Tây Ninh trời vẫn xanh ngăn ngắt một màu, những hàng cây chò chỉ vẫn oai phong vương lên Trời cao như những người lính xếp hàng. Chợ Long Hòa vẫn tập nap kẻ mua, người bán, dòng đời hối hả như đã quên lãng hai vị thay. Qua chợ Long Hoa, họ đi về phía núi Bà Đen. Từ xa, ngọn núi Bà cao Vút, trong bóng hình trên nền Trời xanh và mặt nước của hồ Dầu Tiếng cũng ngăn ngắt xanh. Gọi một con đò ngang, họ tiến về một cù lao nổi lên ở giữa hồ. Nơi đây có một Thất của phái Tân Chiếu Minh do một người bạn cũ của họ làm chưởng quản. Phái Tân Chiếu Minh làm ngài Ngô Minh Chiêu sáng lập, vị tiền bối khai Đạo và cũng là vị Giáo Tông Anh Cả đầu tiên trong nền Tôn Giáo Cao Đài, tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài sinh ngày mùng 7 tháng Giêng năm Mậu dần, nhằm ngày 28-02-1878 tại Quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn. Liễu Đạo ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Thân, nhằm 18-04-1932 tại Cần Thơ hưởng dương được 54 tuổi vì được bon Đạo Chiếu-Minh xây tháp tại nghĩa-địa Chiếu-Minh trước Thánh Đức Tổ Đình cách Châu Thành Cần - Thơ lối 3 cây số.



Ngài có lập gia đình với bà Bùi Thị Thân và sanh được 9 người con, mất hết 2 còn 7 người, 2 và 5 trai gái. Cha mẹ là công nhân nghèo làm việc tại nhà máy Bình Tây Chợ-lớn, vì phải theo chủ đi ra Hà Nội Bắc Việt, nên gởi lại con cho người em gái nuôi. Ngài xa tình thương rất sớm phụ mẫu từ lúc mới lên 7 tuổi và được người cô dưỡng nuôi cho đi học tại trường Mỹ Tho. Sau được học bổng lên học tại trường Trung Học Chasseloup-Laubat ở Sàigòn và đỗ được bằng thành chung năm 21 tuổi. Được bổ làm việc; trước tại sở Tân Đào (sở di trú) ngày 31/12/1902, sau tại Dinh Thượng Thơ ở Sàigòn. Dời về làm việc tại Tòa Bố tỉnh Tân An ngày 05 Tháng 1 năm 1909 và thi đỗ tri huyện năm 1917. Sau vì buồn mẹ mất và không muốn liên có thể đến làm việc không liêm chính của một số đồng Liêu, Ngài xin đổi ra Hà Tiên một tỉnh xa xôi gần biên giới Cao Miên và bờ biển Vịnh Thái Lan.


Chính nhờ cảnh trí xinh đẹp Trời nước mênh mông và núi non thanh lịch khêu gợi, nên Ngài hay đến Thạch Động để cầu Tiên và được các Đăng thiêng Liềng dẫn dắt đưa về neo Đạo huyền vi. Đến khi ra Nhậm quận trấn Dương Đông ngoài đảo Phú Quốc, trong Vịnh Xiêm La, Ngài mới ngộ được Đạo Trời và được đức Cao Đài Tiên Ông trực tiếp truyền trao bí pháp tu luyện cho đến khi đắc Đạo. Chính tại quận đường, ban ngày Ngài đã tận mắt thấy "Thiên Nhãn" hiện ra hai lần với hào quang rực rỡ chơi loa khiển để Ngài dùng làm biểu tượng mà thờ đức Chí Tôn Thượng Đế mở Đạo kỳ ba để độ Tân Nhơn loại , là Giáo Chủ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài, Ngài là vị môn đồ đầu tiên được đức Cao Đài Thượng Đế phong chức Giáo Tông, là người Anh Cả để dẫn dắt các em trở về với Đại Từ Phụ.


Đêm qua đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mùng 9 tháng Giêng năm Bình Dân (21-2-26). Ngài Ngô Minh Chiêu mới xin đức Cao Đài Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử đầu tiên đề cho một bài thi kỷ niệm. Thượng Đế có cho 4 câu như vầy:

CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,


BẢN đạo khai SANG QUI GIẢNG thanh,


Hậu Đức tắc Cư Thiên Địa cảnh,


Huon Minh Mân đáo thủ đái danh.
(12 chữ lớn ghi trong bài thi là tên 12 vị đệ tử đầu tiên, còn ba tên chót Huon Minh Mân là 3 vị hầu đàn)


Vâng lệnh Đức Chí Tôn, ngày 13 tháng 8 năm Bình Dân (29/6/26), ông Lê Văn Trung hiệp cùng 247 môn đệ đức Cao Đài đứng tên lập tờ khai Đạo gởi đến Chánh Phủ Pháp qua ông Thống Đốc Nam Kỳ Ông là Lê fol (trao toàn quyền Pasquier vào ngày 7/10/26).


Đến đây Ngài Ngô Minh Chiêu nhận thấy đã xong nhiệm vụ xây dựng nền tảng cho cơ Phổ Độ, Nhường lại cho quí ông Trung, tiếp tục và xin trở về ẩn tu để tịnh luyện cho được thành công viên mãn và mở cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi. Để dẫn độ một số người đại nguyên căn, quyết cầu tu giải thoát hầu tu chứng tại tiền cho Nhơn sanh tin tưởng nơi Tân Pháp Cao Đài do đức Thượng Đế truyền trao cho Ngài hồi ở Dương Đông Phú Quốc năm Tân Dậu (1920) .


Phương châm tu hành của phái Chiếu Minh Tâm thanh vô vi:


Đệ tử Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thuộc Cao Đài Đại Đạo cần phải Tuân hành những lời dạy của đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, như dưới đây:


Thập thanh điều:


1 / Không nên thâu dụng của Tánh bộ,


2 / Không nên dự vào việc Quốc chánh,


3 / Không nên thốt đến Đạo nào,


4 / Không nên niệm chú thư phù và chắc thói tà mị.


5 / Không nên bưởi móc việc quay và che lấp việc phải của người.


6 / Không nên Bường Tánh phổi tự, phải xét những việc tội lỗi mà chừa.


7 / Không nên gần kẻ bạo ngược, hung hăng. Phải ẩn dat lo tu.


8 / Không nên tham luyến hồng trần, vinh hoa phú quí.


9 / Không nên coi người giàu sang hơn người nghèo hẹn.


10 / Phải giữ đạo đức, hiếu nghĩa, trung tín, liêm sĩ, tiết trinh, từ bi Chơn chánh. Thập thanh điều:


Một khuyên giảm khẩu con bo,


Hai khuyên chánh kỷ cho tròn hóa Nhơn.


Bà khuyên giảm Tánh giận hờn,


Bốn khuyên giữ lễ Chợ Lớn oai Tiên.


Năm khuyên kính mến người hiền,


Sáu khuyên đậy mắt lánh miền thị phi.


Bảy khuyên học chữ Từ Bi,


Tám khuyên hành đạo kịp kỳ Long Hoa.


Chín khuyên suy xét gần xa,


Mười khuyên lập nét ôn hòa độ dân.

Mỗi người đạo hữu nào muốn vào cầu Đạo tu theo Phái Đại Thừa Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, đức Ngô có căn dặn cặn kẻ, trước tiên phải suy nghĩ chính chắn liệu chở nổi cái Đạo hay không rồi sẽ bước tới, vì tu theo Đạo của Ngài phải chịu khổ sở lắm và phải vui vẻ chấp nhận mọi thử thách khảo đảo.


"Vậy Thầy dạy cho các con biết Đạo Thầy rất khó, muốn tu Đặng Thanh vị phải vào tử ra sanh, chịu trăm ngàn cay đắng, khổ hạnh muôn vàn xét Côn. Thử, người mà muốn tạo một địa vị khả quan nơi cõi tạm này, còn phải hao Tốn biết bao sức lực khó khăn, lựa là tạo một ngôi bầu ở chốn thông thả muôn năm, ngàn kiếp Thanh Nhàn Vậy con bình tâm suy xét cho kỹ càng., liệu lấy sức mình trước khi Nguyễn , rồi Thầy sẽ định đoạt.


"Đạo Thầy thiệt rất khó ngộ, nhưng cũng dễ tìm, vì Thầy tùy duyên hóa độ, kẻ có căn dễ gặp, người vô phước khó tri ..".


Muốn thọ Pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, người cầu Đạo phải đã thọ trường trai ít lắm 100 ngày trước đó và được hai bạn đạo tiến dẫn vào một đàn nào đó. Sau khi được người chủ đàn cho biết rõ điều kiện như đã kể ở đoạn trên và đọc Thánh Huấn vừa rồi để tự xét nét lấy, coi có theo nổi không.


Nếu nhận thấy được, xin các thỉnh keo, xin keo được rồi thì sẽ được cho hầu đàn dự cúng lễ theo các đạo hữu. Nếu muốn theo thì thỉnh kinh về học cho thuộc và lo sắp đặt bàn thờ Thầy theo đúng nghi thức đã qui định của qui điều nội lệ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.


Sau khi xét nét tự kiểm điểm kỹ càng có thể theo nổi đến ngày cuối cùng đời mình, thì trở lại để được hầu đàn cơ cho ơn Trên dạy. Nếu được chấp thuận chủ đàn thì lựa ngày nào tốt như ngày rằm, đến đàn xin keo để đốt hồng VA sẽ có người hướng dẫn Đạo Pháp, công phu tứ thời mỗi ngày và chỉ cách thức giữ gìn qui giới, từ cách sanh sống, ăn uống, ngủ nghê, không bỏ sót chi tiết nào. Người chỉ Đạo có phận sự hướng dẫn tận tình cho người thọ pháp. Người thọ pháp phải tôn kính người đó mà Tuân theo, vì người đó thay Thầy để truyền Đạo cho mình, cùng đồng chịu trách nhiệm chung như nhau trước thiêng Liềng. Học Sư bất như học hữu; Đạo Vô Vi, Sư Vô Vi trên có Thầy, đức Cao Đài Tiên Ông bố hóa, dưới có bạn hiền hướng dẫn, chỉ cần đương sự quyết tâm cầu tu giải thoát, siêu đóa tự mình, pháp Đạo dầu có linh đến đâu mà người thọ pháp không cần chuyên, chịu cực khổ sớm trưa chiều khuya, tứ thời công phu tịnh luyện thì Pháp Đạo vẫn không cứu được mình.Chính mình phải tự giải thoát lấy mình, chớ Thầy không bồng ẵm mình được.
Vào tới Thất, hai Thay lập tức được mời vào uống trà đàm Đạo cùng Đàn chủ. Mùi trà sen thanh khiết, hòa trong gió của hồ Dầu Tiếng, hòa lẫn với những tiếng chim hót Veo von trên cành, tưởng như đang ngồi ở một động Tiên.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:20 am


Lên tới lưng chừng núi theo con đường độc đạo vòng qua Veo những bãi đá mồ côi khổng lồ. Có hai con đường lên đỉnh núi: Một đường mòn nằm sau lưng chùa Bà, đường xấu này, khó đi. Một đường mòn khác bắt đầu từ đài Liệt sĩ đi men theo các trụ điện lên thẳng đỉnh núi. Ngày xưa chưa có con đường qua đài Liệt sĩ này. Hàng gió hay giếng Tiên là tên gọi của một cái hang sâu thẳm sau lưng thăm chua Hang. Ngày xưa, miệng hang còn để hoang hoặc, phủ đầy dây leo, nước ướt đẫm. Sau này để tránh nguy hiểm, người ta mới dùng xi măng xây thu miệng hang lại. Hai ông Thầy tiến tới miệng hang nhìn xuống, một hố đen thăm thẳm ở trước mặt hai người. Không gian thinh lặng, chỉ thỉnh thoảng có vài tiếng rực nho nhỏ của bọn hơn lan núi. Ngẩng nhìn lên bầu trời trong xanh vời với, một cánh chim nhỏ đang nhồi bắp bệnh trong gió ngàn. Buộc chặt hai đầu hai cuộn dây dù to tướng vào một gốc cây ở cửa hang, hai ông Thầy mỉm môi tut theo cuộn dây lần từ từ xuống miệng hang. Vừa qua khỏi miệng hang độ vài thước, một làn gió lạnh buốt từ bên dưới thổi lên khiển cả hai ông Thầy phải rung mình. Đó đây, trong màn đen bao phủ, tiếng nước nhỏ tí tách hòa chung với tiếng gió nghe như một bản hợp ca buồn bã. Hải Thay vội vàng Khí chân đề, đưa dòng Khí từ Đan điền theo dòng Đại Châu Thiên bao phủ, hộ vệ khắp người. Đến bây giờ họ mới hiểu được tại sao bao nhiêu trai tráng trong vùng ranh rap chinh phục Hang này đều một đi không trở lại. Cái Sơn lam, chướng của Khí hang Gió này thật là độc. Mặc dù được của chân Khí vòng Đại Châu Thiên che chắn, song hai ông Thầy vẫn thấy cái lạnh từ từ xam nhập vào lục phủ ngũ tạng. Một sợi dây bám tay, một tay 3 soi ngọn đèn pin cực sáng, dưới chiếu xuống, ông Thầy Chàm tut lần lần xuống trước, kế bên ông Thầy Bảy cũng xuống theo ánh sáng của ngọn đèn. Bên ngoài, ngọn đèn pin 3 sáng là thế mà vào trong hang, ánh sáng như bị ép nhỏ lại, chỉ soi mờ mờ vài mét trước mặt. Xuống được chừng 30 m, bắt đầu nghe rõ tiếng thở dốc của từng người.



Kia rồi, Thầy Chàm chợt kêu lên, dưới chân hai người, cách khoảng 15 m, có một cửa hang nằm ngang với đường ăn thông từ trên xuống. Mừng rỡ, hai Thay tut vội vàng xuống nhanh cho. Bỗng nghe một tiếng soát lớn thật, trong ánh đèn mờ mờ, hai ông Thầy chợt thấy một con Dơi cực lớn lao vào và tiếp sau đó là một loạt tiếng vang, sáng sáng như nghe tiếng sôi cơm. Một đàn Dơi khổng lồ, có sai cánh tới hàng mét, sáng sáng lao tới. Pháp, Pháp ... những cái mỏ nhọn hoạt của chúng cắm vào da thịt hai ông Thầy, như những gam con dao đâm vào. Rụng rời chân tay, hai ông Thay chỉ la Trời lên được một tiếng và phải Bường tay, rơi tự do trong màn đêm thăm thẳm của Âm Ty - địa ngục.


Trong màn đêm đen hun hút, trong cái thăm thẳm đến buồn nôn của trạng thái rơi tự do, mất trọng lượng, hai ông Thầy đã không là hơn thể làm gì nhảm trong đầu cầu khẩn QUÁN THẾ ÂM Bộ tắt: "NAM MÔ CỨU NAN CỨU KHỔ QUÁN THẾ ÂM Bộ tật ". Thời gian tưởng chừng như ngưng động, cô đặc đặt lại, Thần Chết như đang cầm lưỡi hái bổ xuống. Bỗng nhiên, như từ cõi hư vô, một Tràng hạt chuỗi bằng đá lớn cực, quận xoay tròn dưới chân hai người. Chuỗi đá xoay tit, xoay tit, luồng khí làm chuỗi đá gây ra như quan nhẹ nhàng lấy hai ông thay vì như một vòi rồng từ từ cuốn hai ông Thầy lên cao. Một giọng hát sáng đầy oai hùng bỗng cất lên:



"THÁP bat bo ĐỀ LIÊN CHỦNG CHỦNG,


LIÊN HOA KHAI THỦ DIỆU TRUNG Trung.


CHUYỂN CHUYỂN, LUẬN LUẬN La Hán TƯỚNG,


Thien long bat bo HỘ VÔ CÙNG "HÀ HÀ!! HÀ! HÀ!

Đinh Thần lại, hai Thầy thấy dưới chân mình là một chuỗi hạt bằng đá màu xanh lá mạ như có chất lân tinh lập loe. Đó là một chuỗi hạt có 18 viên đá to bằng quả cam đang xoay tit, tạo ra một sức phản lực từ từ đưa hai Thay bay là là vào một cái hang nằm ngang. Tit mãi ở trên cao, bầu Trời bằng một cái đĩa thấp thoáng doi lòng ánh sáng mờ mờ vào hang. Khi vừa đặt chân lại trên nền hang, vừa trụ tấn, hai Thầy đã thấy trước mặt mình một quái nhân đang cười sang sáng và cười như chưa bao giờ được cười: HÀ HÀ HÀ HÀ HÀ ......






MỘT SỐ BẢN VIẾT CHỮ THIÊN PHẢI VÔ VI.

Sau khi được phép, hai Thay mới ngồi xuống một tảng đá vuông xanh vực như cái bàn cạnh chỗ Quái nhân ngồi. Vừa ngồi xuống, hai ông Thầy vội bật dậy như chạm phải gai. Thì ra, tấm đá lạnh buốt như băng giá. Thấy vậy, Quái nhân lại bật lên một Tràng cười đầy sáng khoái: HA HA HA HA ... Lạ một cái là ông ta cứ cười như thể chưa bao giờ được cười vậy. Hai ông Thầy thấy thế cũng bật cười làm cho cái hang rung động bởi những trận cười như bắn súng: HÀ HÀ HÀ HÀ HÀ ...


Cười mãi đến sặc xưa, cả 3 người mới chịu thôi. Lúc này hai ông thầy mới để ý đến cái hang động mà mình đang đứng. Đây là một cái hang được hình thành do dòng chảy mạnh mẽ của dòng sông ngầm trong lòng núi. Trần hang rất cao, có lẽ đến 6-7 mét, hai bên thành hang khá rộng đầy những nhũ đá tua tua và có ánh sáng xanh lân tinh như. Có lẽ chuỗi hạt nhân của Quái cũng làm bằng loại đá như thế này đây. Quái nhân ngồi trên một phiến đá vuông vắn có màu xanh đen. Có lẽ phiến đá đó cũng lạnh buốt như phiến đá mà hai ông vừa ngồi ban nay. Vách đá đằng sau Quái nhân là một bức tường thẳng tập mà trên đó khắc chi chít những dòng chữ lạ lùng mà hai ông chưa bao giờ nhìn thấy. Đó không phải chữ Hán, cũng không phải chữ Quốc ngữ đang dùng. Nó hao hao giống như những loại chữ Phù của Pali, nhưng cũng không phải loại chữ đó. Hai người chỉ biết được có chữ Vạn ở đầu mỗi trang viết. Thấy hai người mải mê nhìn, Quái nhân buột nói: Chữ Thiên đó, hai nhà người có biết không? Hai ông? Thay đều? Nói không và lại này một lần Trang cuối sáng khoái nữa lại vang vọng không gian.


Thấy hai ông Thay Đừng lo vì thế, Quái nhân liền nói: "Ta đã cứu hai cái mạng chúng bay, lẽ ra giờ này chúng bay đã là hai đám bột nhào dưới tận cùng đáy hang kia rồi. Hôm nay ta vô cùng sáng khoái , đã lâu lắm rồi ta mới được trận cười thỏa chí đến như vậy Có lẽ. đã 30 năm có lẻ, ta mới thấy lại cái giống người, được nói tiếng loài người Ta khai. cho hai nhà ngươi một đặc ân - Không mau mà bái kiến Sư phụ đi. "


Hai ông Thầy nhìn nhau và đồng loạt xuống Quỳ khấu đầu làm lễ: Chúng con xin bái Sư phụ. Vẻ hài lòng hiện rõ trong con mắt sáng quắc của Quái nhân.


Tới trước vách đá, ông ta đột nhiên thốt lên một loạt những tiếng lạ tai mà hai ông Thầy cũng chưa bao giờ được nghe. Khoảng 30 phút sau, ông ta mới quay lại và nói: Hai chúng bay ra bái Tổ - Thầy đi. Hai ông Thầy liền ra đứng trước vách đá chap tay lại. Lạ thay, một luồng chân khí từ dưới đất bốc lên, thấm vào khắp lục phủ - Ngũ tạng của hai người. Chất Khí đó làm cho hai người nóng bừng bừng, mồ hôi đổ ra như tắm. Chưa bao giờ hai ông Thầy lại thấy sáng khoái và mạnh mẽ như lúc này. Khí chất đó thấm sâu dần và dần dần tràn ngập một niềm vui khó tả trong tim, óc hai người. Ngoài kia, chắc mặt trời đã lặn, chỉ có các vách đá xanh sáng lên như những sắc cầu vồng.


Buổi tối hôm đó, Quái nhân đãi hai ông Thay một bữa cơm kỳ lạ. Bữa cơm chỉ có mấy cành lá mọc trong lòng hang, mấy hòn đất trăng trắng mà Quái nhân vừa lạnh bới trong một đống đất ở góc hang vò và một nước. Lần đầu tiên phải ăn thứ đất đó, hai ông thầy cảm thấy quái lạ. Song khi nhìn Quái nhân đất nhai ngon lành, hai ông Thầy cũng thử ăn theo. Lạ thay, miếng đất đó đưa vào miệng có mùi thơm nhè nhẹ và có vị như ta đang ăn một miếng bánh khảo. Loại lá cây mà Quái chiêu đãi nhân giống như một loại Dương XI, nhưng khi nhai, một vị thơm ngát, bùi, béo tràn đầy khoang miệng.


Sau bữa cơm, Quái nhân và hai ông thầy ngồi trò chuyện trong ánh sáng của vách đá xanh. Cuộc đời của Quái nhân quả thực là một pho tiểu thuyết thật ly kỳ. Ngày xưa, ông là một nông dân nghèo tại vùng Đồng Tháp Mười Vùng Đồng. Tháp Mười nơi ông sinh sống ở phía Bắc sông Tiền. Đến khu vực Đồng Tháp Mười, người ta sẽ bắt gặp những cánh rừng bạt ngàn Trâm, những hồ sen, đầm súng, những vườn cò, sân chim mênh mông và hoang sơ không phải nơi nào cũng có. Nhà ông ở ngay tại Tràm Chim, là khu rừng Tràm có vô vàn loài chim đến cư ngụ. Đây là một khu vực thuộc Huyện Tam Nông - Tỉnh Đồng Tháp Tràm Chim. Chịu ảnh hưởng của văn thủy vùng châu thổ sông MeKong, nhận nguồn nước trực tiếp từ sông MeKong thông qua hệ thống kinh thủy lợi (kênh Hồng Ngự-Long An , Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp) tràn vào nội đồng và bị ngập lũ hàng năm từ tháng 8 đến tháng 12. Ngày xưa, gia đình ông có một sân chim nhỏ khoảng hơn một mẫu. Cả gia đình cũng tạm đủ ăn nhờ những thực lợi từ sân chim. Sự việc đau thương xảy ra cũng bắt nguồn từ sân chim đó. Một tên Hương quản, nhờ có thế lực của Pháp, đã cố tình chiếm đoạt sân chim của gia đình ông. Mặc cho những lời doa nat, mua chước của tên Hương quản, gia đình ông vẫn cương quyết không dời bỏ sân chim. Một bữa, tên Hương quản đưa một toán lính Pháp tới sân chim của ông. Chúng đưa ra một tấm lang ngoằng giấy viết chữ Pháp và có con mộc đồ chơi, nói rằng, sân chim vùng đất đã là của Hương quản, gia đình ông ở đây là bất hợp pháp. Tên hương quản tự tay bật lửa thiêu đốt căn nhà mà gia đình ông đang ở. Chịu không nổi, ông cầm và cậu con trai Mác chúng Chém xông vào. Chỉ ngay nhát Mác đầu tiên, đầu tên Hương quản đã lia khỏi thân. Cậu con trai của ông lao vào Chém GÃY tay một tên lính Pháp, bài hát ngay lập tức bị một phát súng Mút cơ tông của mấy tên còn lại bắn chết. Chúng trời thúc Khuu tay ông lại và chuyển lên Sài Gòn, nhớt vào Khám Chí Hòa. Trong phiên tòa Đại hình tại chợ Lớn, nhà cầm quyền Pháp tuyên bố tử hình ông vì tội cố sát người Pháp. Chúng đem ông vào nhớt tại Xà lim tử tù tại Khám Chí Hòa. Thời gian chờ lên máy Chém gian nam thật là khủng khiếp đối với những người như ông. Mỗi khi nghe tiếng loãng xoảng mở khóa cửa, là ông lại chuẩn bị cho việc lên máy Chem. Thường những cuộc xử án tử hình vào khoảng tang tảng sáng. Chính vì thế, những tử tù như ông thường phải lấy đêm làm ngày, còn ban đêm thường thức trắng, Pháp phồng chờ giây phút bọn lính đến lôi đi. Thời gian chờ đợi lên máy Chém còn đáng sợ hơn cả cái chết, nó làm cho con người ta mềm nhún tinh thần cả, lo âu, thấp thơm, ăn không ngon, ngủ không yên.


Mãi đến gần sáu tháng sau ngày tòa tuyên án tử hình, một buổi sáng nghe tiếng loãng xoảng lạnh người của cánh cửa sắt mở ra, ông bị hai tên Mã Tà tay công ra khỏi giải Đề Lào. Lên tới một căn phòng rộng, đã thấy bốn người bạn tử tù như ông đang ngồi dưới đất. Cạnh một cái bàn có một người Việt nhỏ bé và một ông Tây mũi lo, tóc xoắn đang chấm chấm nhìn họ. Họ xi lô, xi la cái gì đó mà ông không hiểu, cuối cùng người Việt tay kia bắt ông Tây và từng ra lệnh tù ngươi điểm chỉ vào một tờ giấy có đóng mộc đỏ. Chúng dồn mọi người ra một cái xe bịt bụng và nổ máy phóng đi. Qua một lỗ ở vách thùng xe, ông và những người tử tù thấy chiếc xe đang lao nhanh về hướng Tây Ninh. Hóc Môn, Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu ... lần lượt hiện ra qua lỗ nhỏ ở vách xe. Mọi người vô cùng thắc mắc về chuyến đi này. Thông thường, nếu bị xử Chém, chúng đâu cần đưa đi đâu xa. Từ Khám Chí Hòa lên tới Bình Hưng Hòa chỉ có vài Km đường. Không hiểu chúng có âm mưu gì mà lại đưa họ lên tận Tây Ninh. Cuối cùng, chuyến xe cũng dừng lại và họ bị xô xe xuống. Ngẩng đầu nhìn lên, ngọn núi Bà Đen cao thăm thẳm lừng phổi họ ngay trước mặt.


Đến lúc này, người Việt nhỏ bé kia mới quay ra nói với năm người tử tù. Tôi là một nhà Địa chất chuyên các thám hiểm hang động ở khắp đất Đông Dương này. Bữa nay tôi xin được với Chính phủ Pháp một đặc ân cho các ông. Tôi cần các ông cùng tôi xuống thám hiểm của Hang Gió núi Bà Đen này. Công việc rất khó khăn và nguy hiểm. Nếu thành công, các ông được hoàn toàn tự do và được xóa bỏ án tử hình. Còn nếu thất bại .... .... thì âu cũng là tại số phận của các ông. Thôi thì đằng nào cũng chết cả, nhưng làm cho tôi, nếu phải chết thì cái chết của các ông sẽ là có ích cho dân tộc Việt Nam.



Ngay lập tức, những cái mõ gỗ trích nặng được cởi bỏ. Năm người tử tù vươn vai hít thở không khí tự do tưởng đã vĩnh viễn mất đi.


Tiếp theo những ngày sau đó, họ tập trung hết không có lực để tiến hành thám hiểm cái hang không đáy này. Một cái rộng roc bằng gỗ có một sợi dây dù rất to, nối liền với một cái giỏ mây để có gắn đèn pha sử dụng ac quy được đặt trên miệng hang. Người ta trang bị cả dao Gấm, súng Mút Cơ Tông với đầy đủ đạn dược cho những người thám hiểm. Ngày cuối cùng, sau khi mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất, viên Kỹ sư Địa chất tổ chức khao quân ngay tại miệng hang. Một bữa tiệc lớn được tổ chức có đủ rượu NAPOLEON, thịt thú rừng và cả những món hải sản nữa. Đã từ lâu những người tử tù mới được một bữa không nói đến như vậy. Vì vậy, với những bữa tiệc cuối cùng trong cuộc đời tử tù thì đây quả là một Thiên Đàng. Ít nhiều, họ vẫn còn cái cơ thể được sống và trở về với gia đình, dù cơ thể đó vô cùng nhỏ nhồi.
Ngày hôm sau, từ sáng sớm, viên Kỹ sư Địa chất đã kêu mọi người ăn no, nai nịt gọn gang xuống để treo. Mọi phương án bất trắc đã được tính toán kỹ từ hôm qua, bây giờ chỉ còn phụ thuộc vào mỗi ... ý Trời. Năm người tử tù được phân ra làm ba hàng đầu. Hai người xuống trước, hai người ở miệng hang rộng để quay roc, một người nữa và viên Kỹ sư sẽ xuống sau. Quái nhân lần này may mắn là được tháp tùng viên Kỹ sư xuống hang lần thứ hai. Sau khi viên Kỹ sư chúc phúc cho hai người tử tù đầu tiên xuống hang, họ ngồi vào trong cái giỏ mây và rộng roc được thả xuống. Một không khí im lặng bao chùm không gian, tiếng hơi thở gấp khoảng cách của hai người điều khiển rộng roc nghe rõ một mon. Ánh sáng của ngọn đèn ắc quy cứ mờ dần, mờ dần theo từng mét dây được thả xuống. 10 mét, 20 mét, 30 mét, cái trục tới cứ từ từ nhả ra từng mét một dây trong im lặng đến rộn người. 40 mét rồi 50 mét. Bỗng nhiên từ dưới hang vọng lên một tiếng thét rộn cả tóc gáy, rồi tất cả im bat lại. Dây tới tự nhiên nhẹ bỗng. Kỹ sư viên vội thúc hai người phụ trách tới quay, kéo giỏ lên cho nhanh. Khi giỏ mây kéo lên đến nơi, người ta thấy một đám máu loãng Lổ khắp cả thành giỏ - Hai người tử tù đã biến mất Tăm ...
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:20 am


Nét thất thần hiện rõ trên gương mặt viên Kỹ sư và những người tử tù còn lại.


Là một con người sắt đá, viên Kỹ sư quyết không bỏ giữa chừng cuộc. Uy tín và danh dự của một nhà chuyên về Địa chất hang động không cho phép ông được bỏ cuộc. Sau khi nạp đạn và lên cò sẵn hai khẩu Mút Cơ Tông, viên Kỹ sư cùng Quái nhân lại bước vào giỏ mây và hành trình đến với Thần Chết lại được bắt đầu.


Từng mét dây trục tới lại được thả ra, cái giỏ lại từ từ chìm vào màn đen của hang động. 40 mét, 50 mét. Kỹ sư viên giật dây ra hiệu cho bên trên dừng lại. Ánh đèn ắc quy mờ mờ, ảo ảo soi vào thành hang ẩm ướt. Tay lăm lăm khẩu súng đạn đã lên, hai người cố căng mắt nhìn vào bóng tối mờ ảo. Một sự im lặng đến rộn người trùm kín hai người. Ra hiệu cho bên trên thả tiếp. Cái giỏ mây lại từ từ trôi xuống trong cái lạnh giá và tối Tăm của Âm Ty - Địa ngục.
Bỗng nhiên từ hai phía thành hang, có tiếng hức lên và một cơn cuồng phong ào lúc thổi tới. Trong ánh đèn mờ mờ, hai người thấy một cặp mãng xà cực lớn đang trườn tới. Đuôi của chúng cuốn chặt vào một doi đá nhô ra, hai cái đầu to tướng há ngoác phun nọc Phi Phi. Điều lạ là trên đầu chúng có cặp mao mao đỏ như gà trống. Máu trong huyết quản hai người như đông cứng lại cả, chân tay như bị tê liệt. Khẩu súng trong tay viên Kỹ sư bất thần nhả đạn. Viên đạn bay vào vách đá văng lại trúng vào một con thân mãng xà. Nổi điên, con mãng xà văng người cuốn tròn lấy cái giỏ mây có hai người ở trong xiết chặt. Tiếng súng như làm cho Quái nhân chợt bừng tỉnh. Ông ta cầm chắc khẩu súng nhằm thẳng vào cái miệng đang há ra Đốp viên Kỹ sư và nổ súng. Một tiếng súng chát chúa vang lên, cái đầu con mãng xà Lặc lia, nhưng chết trong cơn dãy, nó cuốn mình xiết chặt cái giỏ và bất thần cái đuôi của nó như một cơn lốc đập vào cái giỏ mây một phát trời giáng. Cái giỏ mây lộn tùng phèo trên không trung, tất cả hắt văng xuống phía dưới. Kỹ sư viên cắm đầu, rơi tự do vào khoảng không tối đen mù mit cùng với xác con rắn. Quái nhân cũng bị hất tung lên cực mạnh bắn về một bên thành hang, nơi đây có một nhánh nằm ngang ăn thông với lòng hang. Cú rơi cực mạnh làm Quái nhân đập đầu vào đá bất tỉnh. Ở trên kia, nghe tiếng súng và thấy cái giỏ mây nhẹ bỗng, hai tử tù còn lại vội vàng cắm đầu chạy xuống núi. Không gian yên tĩnh trở lại như núi Bà Đen luôn trầm mặc trước mọi thăng trầm của con người.
Tỉnh dậy, Quái nhân thấy xung quanh mình một thứ ánh sáng dịu xanh đang bao trùm. Một sự yên tĩnh kỳ lạ trùm khắp không gian. Tit trên nóc hang, những nhũ đá rũ xuống cũng sáng xanh như đèn neon. Cái cảm giác đau đớn hoàn toàn biến mất. Lạ thay, sau cú va chạm khủng khiếp như vậy, tưởng rằng sẽ thương tích đầy mình. Lão đưa tay rà khắp thân thể - Thật là kỳ diệu, không có đến cả một vết bấm tím. Thấy đói bụng, Lão đi vòng quanh hang để tìm kiếm thức ăn. Thật là xui xẻo, khắp hang, Lão chỉ tìm được một nắm lá cây có dạng như Dương XI, nhưng khi ăn có một vị bùi, béo vô cùng. Hết nằm lại ngồi. Lão suy nghĩ tìm đường ra khỏi hang. Theo đường miệng hang mà lão rơi xuống thì không thể trở lại được nữa rồi. Chỉ còn con đường duy nhất là lần theo đường hang nằm ngang xem sao. Tản mạn, lão vớ một cục đất thành trăng trắng ngay bên hang đưa vào miệng nhai nhai cho đỡ buồn. Lạ thay, khi vừa đưa vào miệng, một mùi thơm phảng phất như mùi bánh khảo. Nhai thêm một chút, có vị bùi bùi như ăn gan lợn. Thấy hay hay Lão nhai và nuốt liên tục đến khi không căng. Lần ra dòng nước nhỏ trong vắt chảy trong lòng hang, lão thêm mấy hum uống nước coi như xong bữa cơm thịnh soạn. Việc phát hiện ra thứ đất ăn được, khiển lão thêm yên lòng, chờ cơ hội thoát ra khỏi hang. (Thực ra với giới khoa học, hiện tượng này đã được biết tới từ lâu và không phải là hiếm ở nước ta cũng như trên thế giới Theo số liệu điều tra tại Kenya thì trong 285 học sinh, có đến 73% các em. đất nghiện, tỷ lệ đó ở phụ nữ mang Thái Lan là 56% Tại Anh., khoảng 3,000 phụ nữ thú nhận đã ăn gạch và đất vì quá thèm khi Thái NGHÉN Ở đấy người ta phải nhập khẩu đất. từ Bengal, Ấn Độ,, chế biến thành thời gọi là "Sikor" bán cho phụ nữ và trẻ em Ở Đức. cũng thấy bày bán loại "đất chữa bệnh" (Healing soil) trong các cửa hàng.



Theo ông Trần Văn Tân, cán bộ Viện nghiên cứu Địa chất và khoáng sản thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, thói quen ăn đất cũng có ở các loài động vật. Ở Ruwanda có giống khỉ gorila rất thích ăn loại đất sét giống caolin. Còn Hắc tinh tinh lại ưa món đặc sản đất U mối. Ở núi Elgun trên biên giới Kenya-Uganda có mỏ calcit-zeolit là khoáng vật được nhiều loài ưa thích, đặc biệt là voi châu Phi. Loài này thường đến đào đất bới để ăn, lâu ngày tạo thành hang ngầm dưới đất.


Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của tiến sĩ Lê Nhâm Tuyết, tục ăn đất có từ phong tục hôn "việc nhân lấy gói đất làm đầu" thuở Hùng Vương dựng nước. Nó không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng bởi đất vốn là nguồn sống của các cư dân nông nghiệp, mà còn bắt nguồn từ thực tiễn. Bà Tuyết cho biết từ xa xưa, đồng bào Kháng ở vùng Thuận Châu, Sơn La vẫn phơi đất trên gác bếp rồi lấy xuống ăn. Người Bana cũng có tục ăn đất là lớp bùn non đông lại trên mặt đất sau mưa. Riêng ở huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, người ta không chỉ ăn đất sống mà còn hun, nướng các cục đá non. Thậm chí, có rất nhiều người nghiện món ăn này. Có nhiều gia đình còn sống bằng nghề bán đất cho người ta ăn. - Theo Vnexpress - dienbatn).


Sau khi no nê, Quái nhân leo lên một phiến đá phẳng tính ngủ một lúc. Lão khi vừa đặt lưng xuống, giống như đụng phải ổ kiến lửa phải bật ngay dậy. Thì ra viên đá đó lạnh ngắt như một tảng băng. Xem xét kỹ viên đá, lão nhận ra đây là một viên đá Thạch Anh tím cực kỳ lớn. Một điều khiển Lão vô cùng phân vân, hình như viên đá này không phải có sẵn ở nơi này mà có nguồn gốc ở chỗ khác bở hình thể và tính chất của viên đá không giống như các loại đá ở hang.


Không thể nằm trên mấy phiến đá đen đó được, Quái nhân phổi thùng ra phía một vách hang thẳng đứng phía trước. Thật là kỳ diệu, trên vách hang, qua ánh sáng của đá xanh, Quái nhân phát hiện những dòng chữ vô cùng lạ lùng. Những dòng chữ này không phải khắc trên đá mà như ẩn trong đá chìm, thật thật, hư hư. Đến gần vách đá và chăm chú nhìn kỹ những hàng chữ, Quái nhân vô cùng kinh ngạc - Chẳng lẽ ngày xưa nơi đây đã có người ở? Ngay tại chân vách đá, có một viên đá hình trụ giống như một cái Cối xay lúa. Quái nhân bước lên để xem những hàng chữ cho rõ hơn. Lại một bất ngờ nữa xảy ra trong thân thể ông. Từ lúc bước lên cái Cối đá đó, Quái nhân cảm thấy trong người có một nguồn Sinh lực cực kỳ mạnh, thấm nhanh vào lục phủ ngũ tạng. Càng ngày, Khí lực ngam vào thân thể càng mạnh. Một sự sáng khoái vô cùng vô tận tràn ngập thân thể Quái nhân. Nhớ lại cách một ông sư ngày xưa ở gần nhà vẫn ngồi - Lão bắt chiếc ngồi thử kiểu Kiệt già. Loay mãi hoay, hết kéo chân nọ gác lên chân kia đau điếng, cuối cùng sau rất nhiều không có lực, Lão đã có thể ngồi Kiệt già trên cái Cối đá đó. Gần như vô thức hay có một sự chỉ dẫn của các đang vô hình, Quái nhân bắt đầu vận khí theo vòng Nhị Thiên, Tam Thiên di chuyển.Cụ thể, ví như vòng Nhị Thiên, đầu tiên quán tưởng cho hơi thở (gọi là Minh châu) nơi Huyet Huê quang.Bắt đầu hít vô chuyển cho Minh châu lên Thượng đài, chạy vòng xuống Huyet rồi chấm Ngọc xuống Huyet Giáp tích.Ngưng lại nơi đây, nuốt tân dịch từ từ cho rơi xuống Hạ điền (Ron ), nằm nơi đó, rồi bắt đầu chuyển từ Huyet Giáp tích xuống Huyet Vĩ Lư, tới Huyet Trường cường, sau đó tách ra làm hai bên và đi vòng xuống hai chân, ngưng nơi hai ngón chân cái rồi thở nhẹ ra (Quán tưởng đưa tất cả trần trước xuất ra ngoài 2 ngón chân cái).. Tiếp tục hít hơi vô, cảm thấy 2 làn Điển quang từ ngoài chạy vào 2 ngón chân cái (Cảm thấy mát lạnh), chạy trở lên Huyet Trường cường rồi đến Vĩ Lư, lên nữa cho đến Giáp tích đó và ngưng lại, nuốt Tân dịch lần nữa đưa về Hạ điền, nằm lại đó.Bắt đầu chuyển tiếp từ Giáp tích ra hai tay, chạy đến 2 ngón tay cái thì ngưng lại và thở nhẹ ra (Ý tưởng đưa tất cả trần trước xuất ra ngoài ngón tay cái) Sau đó. lại bắt đầu hít vô, cảm thấy có hai lan Điển chạy vào từ 2 ngón tay đến Giáp tích rồi lên Huyet Ngọc Chăm, đến Thượng đài rồi trở lại Huê quang.Như vậy là đã đi hết một vòng Châu thiên-Hành như vậy mỗi lần 36 vòng.


Từ khi bắt đầu các vòng Đại, Tiểu Châu Thiên vận chuyển trong người lão, hàng loạt Luân xa trong con người lão được khai mở. Khí lực trong con người Lão vô cùng sung mãn. Nhiều lúc, thấy thân thể quá nóng, Lão lại ra ngồi trên những phiến đá đen để điều hòa thân nhiệt.


Ta cũng cần phải nói thêm một chút về Huyet vị trên núi Bà Đen này.
"Khoa Địa lý dạy rằng: Ông một dòng sông bắt nguồn từ nơi đất địa linh hiển, núi cao không tới năm ngàn người ở, rừng ram ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng ngàn thu nghêng ngang không cạn, thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi Huyet "Long đánh", một địa linh rất Linh hiển, phi nhiêu về vật chất, cao siêu bội phần về tinh thần.Ngọn CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt oai nghiêm,, vừa tạo thành nên vóc VẠC hoàn toàn lối 100 năm nay.Liên kết với các núi, Cửu long giang xuất hiện ra 12 Huyet huyền diệu, chấm đậm nét hùng vĩ trên quả Địa cầu này.
"Bắt đầu khởi kết Từ nguồn khí âm dương xây nên Địa Huyet thứ nhất tại THẤT SƠN (Châu đốc) Chỗ ấy ba Huyet Tiên thiên hiệp lại làm Ne Huon cung,. Xuất hiện đúng ngày linh hiển TÂM HUẾ Tu Đánh mùi hương lạ kỳ-bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng.Chỗ ấy là cân não, tuy cốt của Cửu long.Tên nó được hưởng ứng theo luồng điện Thiên nhiên, oai nghiêm, từ bi, hùng vĩ, đời sau gọi là KIM THÀNH HUYỆT.Đó là huyết dưỡng đã xuất hiện, Cửu long kết lần với hai dãy núi âm phong cô độc, liên hiệp thành cặp mắt HÀ TIÊN và PHÚ QUỐC là THỦY TRUNG HUYỆT.TÂY Ninh, núi ĐIỆN BÀ là HUỲNH MÔN Huyet, hai đánh núi ấy thuộc về Âm kết Từ nguồn khí tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG Huyet (Dương) để khai mở luồng điển quang cho các Huyet kia vừa ngưng tại lối miệt Long xuyên, Bình mỹ (Một dãy dài cù lao lớn chạy từ Bình mỹ xuống gần đến Cần thơ).


Từ Kim thành Huyet phóng thẳng xuống mũi Cà mau và núi KỲ VÂN, hai huyết dưỡng nữa, thì bên một thành sống mũi Cửu long chấm đến Cà mau (Tức là LÂM HUYỀN Huyết), một bên thì Hàm Rồng tại KỲ VÂN (Tức NGỌC BÍCH Huyet) Đồng cân với hai Huyet âm (THỦY TRUNG Huyet VÀ HUỲNH MÔN Huyết)., hiện ra một Huyet thứ sáu (BÌNH NAM Huyết), tại núi Côn nôn là chót lưỡi của Cửu long.


Sáu Huyet âm dương vừa kết tụ, thì tại Trung ương Huyet, yết hầu Cửu long, vừa khai mở gần Cần thơ bây giờ, gọi là Trung ương CỬU LONG HUYỆT.Lần ba lần cửa mở ra: cửa Đại, Tiểu ... vv vừa thành tựu (Năm Nhâm Thìn 1892), khiển cho ba nguồn Thủy dựng tại Bình Nam châu chuyển động (Lưỡi Cửu long), làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm Cỏ, Gò công, Bến Tre và các cù lao nhỏ ...) ba ngày ba đêm.Đó là bảy Huyet Linh Thieng, CHÁNH GỐC của xứ VIỆT NAM mới ngưng kết được lối 100 năm nay.Đứng giữa Hoàn cầu, sự Linh thiêng tân tạo là đầu Cửu long giang, một nguồn Bảo giang Thiên cơ đã định phải chơi rạng sự Huyền diệu, nhút hạng khắp bốn bể, năm Châu.Vì Địa linh ấy mới sanh Nhơn kiệt, các vị Thánh tổ kim thời ông thuộc mạng âm thì phải xuất hiện ( chứ không phải Giáng sanh), dạy đời trong ba Huyet âm (THỦY TRUNG Huyet, HUỲNH MÔN Huyết và BÌNH NAM Huyết)., còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất sơn, KỲ VÂN và CÀ MAU (KIM THÀNH Huyet, BÍCH Huyết và NGỌC LÂM HUYỀN Huyết).


(Dat sĩ và NGUYỄN VĂN HẦU-THẤT SƠN MAU MHIỆM).


Cũng theo cuốn Thất sơn mầu nhiệm của Nguyễn Văn Hậu, thì: "Thất sơn nằm trên địa phận tỉnh Châu đốc và sông Cửu long này cũng chảy qua tỉnh.
Mà Thất sơn tức là Bửu sơn hay Bảo sơn, thì quý bầu vô ngần, hiển linh tốt bậc: Nơi đây đã có nhiều vị tu hành chứng quả PHẬT, TIÊN, THẦN, THÁNH.Chính phái BỬU SƠN KỲ HƯƠNG đã phát hiện tại vùng này.
Còn Cửu long hay còn gọi là Bửu giang Bảo giang.Con sông này được coi là con sông bầu quý, vì đó là con sông lớn nhất và dài nhất trên toàn cầu (hơn 4,500 cây số ngàn) Phát nguyên. Từ bên Tây tạng , nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp sơn cao nhất toàn cầu (8,840 th); Và là nơi đức Phật Thích ca đã đắc quả chánh đẳng - giác.Con chánh sông này chảy qua Việt nam, qua Nam Việt (Nhất là tỉnh Châu đốc), rồi tuôn ra biển Đại thanh với chín cửa biển (Cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Bà Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ chiên, cửa Cung hầu, cửa Định an, cửa Bách xác, cửa Tranh đề), vừa kết Từ nguồn khí, vừa phát hiện đủ thứ Địa hình.


Dom kỹ bản đồ Việt nam, thì ta thấy cù lao Kết (Từ Vàm nao đến Nam vang), giống hình một con Quý, mỏ day về Vàm nao.Mà con Quy đó đã nằm giữa Tiền giang và Hậu giang, lại ở vào khoảng giữa (Tức Trung ương) Thất sơn và Cửu long.Theo nguyên lý NAM THẤT NỮ CỬU thì Thất sơn thuộc dương, cửu long thuộc âm.Địa cuộc có âm dương tương hội thế ấy tất nhiên là Địa linh.Mà Địa linh tất sinh Nhơn kiệt.Sông thế ấy, núi thế kia phải đào tạo được những trang hào kiệt phi thường.


... Cụ Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm) lại nói rõ về nơi xuất hiện vị anh hùng dân tộc trong tương lai-Nhơn Một vị Thánh trong câu sấm:


"Bảo giang Thiên tử xuất,


Bất chiến tự nhiên thành. "


Dường như muốn cho người đời sau có thể tìm hiểu đâu là: "Thành Nhơn hương" (quê hương của vị Thành Nhơn), nên cụ Trạng lại nói thêm:


"Bắc hữu Kim Thanh Trang.


Nam Tọa NGỌC BÍCH THÀNH


Hòa thôn đa khuyến phê,


Mục giả, Giục Nhơn canh ".


Theo các tín đồ của đạo Hòa hảo, thì cho rằng người ứng vào câu nói đó là Đức Huỳnh giáo chủ, nhưng theo Thien Y của dienbatn phải không thì, mặc dù địa điểm đúng ở khu vực đó, lại thêm chữ HUỲNH là màu vàng.Xin được miễn bàn thêm về vấn đề này.


Như vậy chúng ta đã biết được 12 Huyet vị lớn của miền Nam Việt Nam như sau:


* Các Huyet 1,2,3 nằm ở Thất sơn có tên là KIM THÀNH Huyet.


* Huyet vị số 4 tại ĐIỆN BÀ TÂY NINH gọi là HUỲNH MÔN Huyet (Là Huyet vị Trung ương của miền Nam Vị trí cụ thể dienbatn sẽ nói rõ ở phần sau..


* Huyet vị số 5 tại HÀ TIÊN-PHÚ QUỐC có tên là THỦY CHUNG HUYỆT.Huyệt vị này còn có tên khác là THỦY MÔN Huyet.


* Huyet vị số 6 năm tại khu vực Long Xuyên-BÌNH MỸ (Một dãy Cù lao lớn chạy dài từ BÌNH MỸ xuống gần đến CẦN THƠ).


* Huyet vị số 7 nằm tại CÀ MAU tên là LÂM HUYỀN Huyet.


* Huyet vị số 8 nằm tại dãy núi KỲ VÂN (gần LONG HẢI-Thuộc tỉnh Bà Rịa) Huyet vị. Này có tên là NGỌC BÍCH Huyet hay KỲ VÂN Huyet.


* Huyet vị thứ 9 nằm tại CON LON có tên là BÌNH NAM Huyet.


* Huyet vị số 10,11,12 là Trung ương CỬU LONG Huyet nằm gần CẦN THƠ. "


(Trích: NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA KHAI THÔNG Huyet ĐẠO THỜI NAY-dienbatn)


Như vậy, làm một bí ẩn thiêng Liềng của tạo hóa, vô tình Quái nhân đã được hay bị?? xô đẩy vào cái bí ẩn tận cùng của Vũ trụ. Cái tận cùng bí ẩn mà con người vẫn mong ước vượt qua.



ĐIỆN BÀ TÂY NINH gọi là HUỲNH MÔN Huyet (Là Huyet vị Trung ương của miền Nam) - thuộc về Âm kết Từ nguồn khí tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG Huyet (Dương) để khai mở luồng điển quang cho các Huyet còn lại. Vẫn biết, trong cuộc đời này, ai cũng có một Thiên chức, một nhiệm vụ bất khả kháng của tạo hóa, để thực hiện cái quy luật biến dịch vô cùng, vô tận của Vũ trụ; Nhưng cái bí ẩn tận cùng xô đẩy Quái nhân bước vào thì thật là hy hữu Nguyên là. khoảng hơn 100 năm trước - HUỲNH MÔN Huyet, tức huyệt vị Trung ương làm CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt oai nghiêm,, vừa tạo thành. Huyệt vị này được gọi là Trung ương Huyet vì nó chi phối tất cả các Huyet vị khác của miền Nam tươi trẻ. Vì là những huyệt vị mới được kết phát, nên oai lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Cửu long hay còn gọi là Bửu giang Bảo giang.Con sông này được coi là con sông bầu quý, vì đó là con sông lớn nhất và dài nhất trên toàn cầu (hơn 4,500 cây số ngàn) Phát nguyên. Từ bên Tây tạng, nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp sơn cao nhất toàn cầu (8,840 th); Và là nơi đức Phật Thích ca đã đắc quả chánh đẳng - giác.Con chánh sông này chảy qua Việt nam, qua Nam Việt (Nhất là tỉnh Châu đốc), rồi tuôn ra biển Đại thanh với chín cửa biển (Cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Bà Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ chiên, cửa Cung hầu, cửa Định an, cửa Bách xác, cửa Tranh đề), vừa nguồn khí kết tụ, vừa phát hiện đủ thứ Địa hình. HUỲNH MÔN Huyet mang sức mạnh của của dòng sông Cửu Long lại được sự phù trợ của một vùng núi non trùng điệp của Tây Nguyên. Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nùng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 9-100 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam). Cái Khí lực đó vô cùng vô tận, hàng ngàn năm qua đã ngưng tụ thành những kết và Địa Huyet của miền Nam, đứng đầu là HUỲNH MÔN Huyet trên núi Bà - Tây Ninh.



Chính nhờ những kỳ duyên đó, Quái nhân đã hấp thụ được một sinh lực vô cùng xung mãn, đủ cả Âm - Dương. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Lão đã có một thành công lực bằng nhiều người tu luyện cả đời. Cho tới một ngày, khi đang ngồi nhập định, điều tiết cho dòng Khí trong người tuần hoàn theo Đại - Tiểu Châu Thiên, Lão bỗng nghe một tiếng nói vang vang bên tai: "Con hãy đọc theo ta". Ngạc nhiên, Lão ngo mông lung ra xung quanh xem ai nói, nhưng hang động tĩnh lặng vẫn không có một bóng người ngoài chính bản thân Lão. Ba ngày liên tiếp, giọng nói đó vẫn vang vọng bên tai: "Con hãy đọc theo ta - SI OP Ray - MI CA MI MIT, SI OP Ray - MI CA MI MIT, SI OP Ray - MI CA MI MIT, SI OP Ray - MI CA MI MIT ....." Lão gần như thụ động đọc theo, đọc mãi theo giọng nói kia: SI OP Ray - MI CA MI MIT, SI OP Ray - MI CA MI MIT, SI OP Ray - MI CA MI MIT .... Cho tới lúc đọc thật nhanh, lưỡi lão đã quíu cả lại và ngay lập tức, một Tràng tiếng lạ tai từ miệng Lão cũng tuôn ra như nước chảy mây trôi: SI OP Ray - MI CA MI MIT - LA TI SAT - CAT ĐÔ NA - PA RA TI - Chí CHA RA - NA TA LI ...... Lão cứ ngồi như vậy và miệng liên tục tuôn ra những câu chữ lạ mà bản thân Lão chẳng hiểu mô tê gì. Liên tục hơn mười ngày sau, giọng nói đó cứ khuyến khích, nhắc nhở Lão tiếp tục công việc đó. Những ngày cuối cùng, Lão đã dần dần hiểu được mình đang nói cái gì??? Ngày một tiến bộ, Lão đã có thể nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ lạ tai đó với giọng nói vô hình kia. Thì ra, người đó là Thầy Tổ nhiều đời, nhiều kiếp của Lão. Qua trao đổi với Thầy Tổ, Lão biết rằng trong nhiều kiếp trước, Lão đã từng theo học rất nhiều Thầy Tổ bằng nhiều loại ngôn ngữ khác nhau. Các Thầy Tổ cũng nhiều người hiện về, nói chuyện và dạy Lão những điều mà kiếp trước Lão đang học dở dang, kiếp này Lão chỉ là tiếp tục những gì đang dở học. Một thời gian ngắn sau nữa, Lão cũng đã đọc thông viết thạo được rất nhiều loại chữ Vô Vi (Loại chữ mà dienbatn đã Pot ở trên).


Chỉ sau một thời gian không lâu, Lão đã có một kho kiến thức mà những nhà nghiên cứu dành cả đời tâm huyết cũng không bằng một góc của Lão. Mỗi khi có vấn đề gì nam giải, Lão lại dùng các loại ngôn ngữ của Thầy Tổ để hỏi và câu trả lời thường là những bài giảng hết sức chính xác và súc tích. Có một điều lạ Lão nhận ra là: Có những chuyên môn rất xa lạ với cuộc sống bên kia sân chim trước, nhưng khi được nghe Thầy giảng giải Tổ, Lão hiểu và nhớ liền và lại cảm thấy thân thuộc rất. Lão cũng biết rằng Lão đang theo học các Thầy Tổ Vô Vi Phật Pháp. Vô vi nghĩa là không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra, đối nghĩa với vô vi là Hữu vi (有为, lúc saṃskṛta)., Cũng thường được hiểu là "Không làm". Trong Phật giáo nguyên thuỷ thì chỉ có niet-bàn được xếp vào hạng vô vi, tất cả các pháp còn lại đều là hữu vi. Quan niệm này được lưu lại trong Thượng toàn bộ (pi. theravādin) và Độc Tử bộ (sa. vātsīputrīya). Tất cả những bộ phái khác đều dần dần thay đổi cách sử dụng danh từ này.Đại chúng bộ chấp nhận 9 pháp vô vi, đó là hai cách Diệt độ (sa., pi nirodha)., Trong đó một loại (1. ) đạt được bằng sự phân biệt phân tích, gọi là Trạch diệt (sa. pratisaṃkhyā-nirodha), tương Ưng với niet-bàn. Loại Diệt thứ hai (2.) Không đạt được qua sự phân tích, phân biệt (phi Trạch), được gọi là Phi Trạch diệt (sa. apratisaṃkhyā-nirodha), liên hệ đến những lậu hoặc (ô nhiễm) mà một A -la-hán không còn vương mắc. Được xếp vào vô vi pháp nữa là Hư không (3), Không vô biên xứ (4.), Thức vô biên xứ (5.), Vô sở hữu xứ, tức là cái ". Không có gì" (6.) , Phi tưởng phi phi tưởng xứ (7.), nội dung của thuyết Duyên khởi (Cool và. Bát chính đạo (9.).


Thuyết nhất thiết hữu bộ công nhận ba pháp vô vi là Hư không và hai loại Diệt trên. Duy thức tông liệt kê thêm vào ba vô vi pháp này một loại Diệt bằng một trạng thái thiền định an vui bất động, sự chấm DUT suy nghĩ và cảm thụ của một A-la-hán và Chân như (sa. tathatā). Pháp Tạng bộ (sa. dharmaguptaka) xếp vào loại vô vi pháp Chân như và sự "Trường tồn của mọi pháp" Dưới "Trường tồn của mọi pháp" họ định nghĩa rằng cái đặc tính gì không biến đổi của nó (sự không. biến đổi của nó chính là sự biến đổi) và định luật nhân quả (Nghiệp) cũng như một vài trạng thái Định. Khi học theo Vô Vi Pháp, Lão đã trực tiếp liên hệ được với Thầy Tổ nhiều đời, nhiều kiếp mà Lão từng theo học và một Điếu đặc biệt hơn nữa, Lão đã tiếp cận được kho kiến thức khổng lồ của Vũ trụ mà không một thư viện nào của con người sánh được. Lão cũng nhận thấy rằng, bản thân những kiến thức về Quy Luật Vũ Trụ, tương tác đến đời sống con người, Tuân theo những quy luật và đơn giản tổng quát, nhưng vì con người không nắm được nên cứ càng ngày càng làm lại ram cho nó rối thêm lên. Kết quả là sai và đi quá xa những cái nguyên lý ban đầu. Cũng có lẽ vì lý do đó mà những kiến thức từ hàng ngàn năm trước lại chính xác và tinh tế hơn những gì mà loài người đang hiểu biết trong thời đại gọi là KHOA HỌC này.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:21 am


NHỮNG VŨ ĐIỆU VÔ VI.


Sau một thời gian, học nói và viết các chữ Vô vi, Quái nhân lại được Thầy Tổ dạy thêm về Pháp Thuật và Võ công. Cách học võ của Lão cũng vô cùng quái lạ. Sau khi ngồi Kiệt già, thiền định một lát là lại có giọng nói chỉ điểm: "Con hãy đọc theo ta, TRONG TA SI PHÉP MI, TẠI TA SI PHÉP MI, TẠI TA SI PHÉP MI, TẠI TA SI PHÉP MI .. .. " Lão lập tức làm theo, mới đọc được khoảng hơn 20 lần, tự nhiên thấy Lão tay, chân mình chuyển động nhịp nhàng như múa. Hai bàn tay của lão thay nhau phóng ra một dòng Khí mờ đục, liên miên bất tận. Những khi chuyển bộ theo những hình Lão chưa thấy bao giờ, bàn chân Lão thoăn thoát phóng ra những cú đá kinh thiên động địa TRONG TA SI PHÉP MI,. TRONG TA SI PHÉP MI, TẠI TA SI PHÉP MI ... PHỤNG THỊNH PHẬT KIM CANG - bat bo VẬN CHUYỂN - VẬN CHUYỂN TOÀN PHÁP - LINH LINH TÂM Hiền - KINH MINH KHAI TỐC - XUẤT HÓA HIỀN BÁ THIÊN - VẠN PHÁP Ta THẦN KINH - Bất NHÃ BA LA MẬT ĐA ... miệng đọc, tay múa quyền, chân chuyển động theo bộ pháp nhanh như gió cuốn mây trôi. Thỉnh thoảng hứng chí, Lão lại phát chưởng vào vách đá - Một tiếng nổ vang động, sáng, bụi đá bay ra trắng xóa như một cơn cuồng phong. Đắc chí, Lão cười phá lên vang động cả lòng hang: HA, HA, HA ... Thay Tổ còn chỉ thêm cho Lão biết rằng: Nếu Lão chỉ có tay không thì bài quyền trên đã là không có địch thủ rồi. Nếu Lão cầm trong tay một thanh gỗ, tưởng như thanh kiếm một thì những đường kiếm trác tuyệt sẽ tự động bung ra, ngay cả những Sa Mu Rai Nhật Bản cũng khó bì kịp lão. Ngược lại, chỉ cần lão tưởng đó là một ngọn giáo thì ngay lập tức những bài múa giáo cũng bung ra và trong thiên hạ, có lẽ chỉ thua ngọn giáo của Triệu Tử Long trong trận Tương Đương - Trường Bản. Phương pháp này hoàn toàn theo ý và theo những khẩu Quyết tự hiện ra trong đầu Lão. Dùng vô chiêu thắng hữu chiêu - Chính vì vậy kẻ địch không làm sao đoán được các thế tiếp theo. Những câu Quyết cứ tự động tuôn ra trong đầu Lão: NGŨ HÀNH CƯỜNG KHÍ - KIM MỘC THỦY Hoà Thọ CHUYỂN THÔNG - Aum Mani Padme Hum BRUM - NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT TỔ NHƯ LAI CHỨNG MINH - THỐNG NHẤT CHỈ THẦN CÔNG - GIẢI PHÁ TOÀN THÂN KHAI THÔNG BÁ MẠCH - KHÍ Huyet LƯU THÔNG - TAM HOA Tu ĐỈNH - NGŨ KHÍ TRIỀU NGUYÊN .....
Kể từ đó, hai ông Thầy (thay Bảy và Thầy Chàm), được sự giúp đỡ của Quái nhân trong hang động ra sức học tập. Hàng ngày vào đúng thời các TY - Ngô - Mao - Dầu, hai Thay ra ngồi luyện trước vách đá. Các vị Sư phụ của các kiếp trước lần lượt về để dạy cho họ những bài học khác nhau của Huyền môn Vô Vi và võ thuật. Cũng nhờ giao tiếp được với các Thầy Tổ, họ mới biết mình đã có khả năng giao tiếp được với những chiều không gian khác của Vũ trụ. Chiều không gian chúng ta đang sống là một hệ quy chiếu trong hệ Tọa độ Đề Các chỉ có 3 chiều. Một số nhà Ngoại cảm có thể giao tiếp được với chiều không gian thứ 4 là các hồn Vọng. Chính nhhờ giao tiếp được với chiều không gian thứ 4 này mà họ có thể nói chuyện với người âm, tìm được mồ mả bị thất lạc. Đây là chiều không gian đơn giản nhất mà con người không cần luyện tập vẫn có thể có được. Hiểu một cách đơn giản là các nhà Ngoại cảm, bình thường cũng như mọi người chúng ta, đều không được nhận tín hiệu từ những dòng tin truyền năng lượng của chiều không gian thứ 4. Nhưng làm một biến cố bất ngờ nào đó như bị chó dại cắn, chết lâm sàng (Trường hợp của Phan Thị Bích Hằng), bị điên (như trường hợp của cô Nguyệt, cô Mến và một vài người khác, bị điện giật. ..



Chính những biến cố đó đã làm sai lệch cấu trúc thần kinh của họ, khiển họ có thể nhận được những thông tin từ chiều không gian thứ 4 này. Nói một cách hình tượng: Chúng ta thường sử dụng đài thu thanh đài phát thanh, bình thường, đài chỉ thu được những tín hiệu vô tuyến, nhưng làm mộ sự cố nào đó, đài bị chập một vài mạch điện nên có thể bắt được các sóng vô tuyến khác như sóng điện thoại chẳng hạn. Hiện tượng đó là bản chất thực hiện tượng cộng hưởng nhưng chỉ khác là hiện tượng cộng hưởng này làm ảnh hưởng của Quy luật "Đồng thanh tương ứng-Đồng Khí cầu tương" hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic (tần số này bằng một số lần tần số kia). Thông thường, hiện tượng các nhà Ngoại cảm, tôi không phải luyện tập mà có khả năng đó nên các khả năng này không tồn trường. Chính vì vậy mà chúng ta thấy rất nhiều nhà Ngoại cảm nổi danh trước kia, nay không còn khả năng nữa cảm Ngoại.


Cũng cần nói thêm một chút về các trường Năng lượng tồn tại trong Vũ trụ và tác động trực tiếp lên Trái đất chúng ta. Theo thuyết CHỐNG CHẤT CỦA VÔ VI, có rất nhiều trường năng lượng khác nhau, có thể cùng tồn tại trong một khoảng không gian nhất định. Tương tự như hình ảnh của nhiều ánh sáng của các ngọn đèn, chiếu vào cùng một khoảng không gian. Như vậy sẽ dẫn đến một điều tất yếu là khoảng không gian nào tồn tại nhiều trường năng lượng cùng một lúc, sẽ có mật độ năng lượng dày đặc. Theo nhiều chiều không gian khác nhau, trường năng lượng này lan tỏa ra xung quanh theo những quy luật nhất định. Dòng năng lượng lan tỏa trong lòng đất, trong Địa Lý người ta gọi đó là những Long Mạch.


Những người tu luyện và ngồi Thiền, luyện Yoga là những người bằng việc tập luyện thường xuyên của mình, có thể giao tiếp được với nhiều chiều không gian thứ 4, 5, 6,7 .... khác. Đến bậc này, họ có thể giao tiếp và nhìn thấy được quá khứ và tương lai, biết được tiền các Kiếp, Kiếp hậu của mình. Việc này cũng chính là việc đi ngược hay đi xuôi theo dòng Thời gian mà thôi. Tại những chiều không gian lớn hơn 3, ý nghĩa về thời gian và không gian không còn tồn tại. Người ta có thể vượt hàng ngàn năm, băng qua hàng vạn Km chỉ trong khoảng khắc gần như tức thì. Chính vì vậy KHOA HỌC VÔ VI chỉ cho chúng ta biết rằng: "tốc độ của ánh sáng chưa phải là tốc độ lớn nhất trong những chiều không gian khác của vũ trụ".
NHẬP THẤT DUOI HAM SAU 7 M.




Các Thay Tổ VÔ VI còn cho biết rằng: Nguyên lý cơ bản của ÂM - DƯƠNG - NGŨ HÀNH, đã được Tổ tiên người Việt đúc kết và làm thăng hoa lên trong các THẾ VƯƠNG TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG. Đây chính là một CÔNG THỨC SIÊU VŨ TRỤ, có khả năng đồng thời lý giải được từ những quy luật từ Vĩ mô đến Vi mô, lại vừa có khả năng Tiên tri tuyệt vời. Đỉnh cao của nền Văn Hiến Lạc Việt chính là tác phẩm DỊCH HỒNG BÀNG, hiện nay chưa được lan truyền vì nguyên nhân Thời Vận chưa đến. Theo các Đăng Vô Vi, HỒNG BÀNG DỊCH có nguyên thủy tại vùng đất của nước XÍCH LONG (mà người Tàu gọi là XÍCH quý) Đây là. Chứng nghiệm sự thăng hoa và học thuyết ÂM - DƯƠNG - NGŨ HÀNH của KINH DƯƠNG VƯƠNG -- tổ tiên người Việt chúng ta. Từ trước đến nay, có rất nhiều học giả đã cảm nhận được KINH DỊCH không phải là của người Hoa, xong chưa có sự lý giải nào khả dĩ có thể thuyết phục. Để có thể lý giải được từ những quy luật của Vĩ mô và Vi mô, lại vừa có khả năng Tiên tri, và trong mọi chiều KHÔNG GIAN khác nhau, cần phải có một công thức SIÊU VŨ TRỤ, mà hiện nay tất cả các nhà Khoa học trên Thế giới đều thèm muốn và tìm tới. HỒNG BÀNG DỊCH, chính là kết quả của công thức đó. Khi ta muốn chứng minh một công thức nào đó, thì phải chứng minh được khi nó đúng với trường hợp n thì phải đúng với trường hợp n + 1. Theo tiết lộ của các đang Vô Vi, HỒNG BÀNG DỊCH có tới 40.230 đồ hình Bát quái của cả TIÊN THIÊN, TRUNG THIÊN VÀ HẬU THIÊN BAT QUÁI.Mặt khác khi HỒNG BÀNG DỊCH được tiết lộ, thì hệ quả của nó sẽ đảo lộn một cách cơ bản những gì mà chúng ta thường viết, trích dẫn như hiện nay của Kinh Dịch. KINH DỊCH hiện nay chỉ là một trường hợp của HỒNG BÀNG DỊCH, áp dụng của hệ trong không gian 3 chiều chúng ta đang sinh sống. Còn HỒNG BÀNG DỊCH là một nguyên lý có thể áp dụng cho tất cả mọi chiều Không gian khác nhau.



Khi chúng ta hiểu được HỒNG BÀNG DỊCH, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về những tương tác Vũ trụ đối với cuộc sống con người chúng ta, mặt khác, chúng ta có thể liên hệ với những chiều không gian khác mà chẳng cần đến những phương tiện thô sơ và chậm chạp như những Vệ tinh mà con người hiện nay đã và đang phóng vào Vũ trụ. Vũ trụ mà chúng ta đang nghiên cứu, theo kiến thức Vô Vi có hình số 8 xoắn ốc. Chính vì vậy mà trong lịch sử phát sinh phát triển trên Trái đất có những thời kỳ tương tự như nhau, nhưng ở những tầng cao hơn. Nếu con người chỉ cần quan sát chiều xoắn ốc khác nhau của các loại dây leo tại những khu vực khác nhau, họ sẽ trả lời được nhiều câu hỏi, kể cả về mật mã của sự sống là VÀ. Chính những đường xoắn ốc trong những lá Bua từ cổ xưa đã áp dụng triệt để hiện tượng này.


Một ví dụ cụ thể nhất là học thuyết Tiến hóa sinh vật của ĐẶC UYN.Theo học thuyết này, sinh vật phát triển theo quy luật từ thấp đến cao, và qua cuộc đấu tranh sinh tồn sẽ xuất hiện những loài mới.Nhưng từ khi học thuyết này ra đời cho tới nay loài vườn vẫn chỉ là loài vườn mà không tiến hoá thành người.Trong KHOA HỌC VÔ VI giải thích hiện tượng này khác hẳn. Một cách so sánh cho dễ hiểu, tuy hơi khắp khiễng, đó hiện tượng tương tự như quá trình Cracking dầu mỏ (chứng cất dầu mỏ) Trong quá trình chưng cất dầu thô khai thác được từ dưới lòng đất lên,. Trải qua nhiệt độ và dưới những áp suất nhất định, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều các sản phẩm khác nhau như ÉT xăng, dầu gazoline, dầu hỏa, nhựa đường (Hắc Ín ).... Như vậy không phải có những phản ứng hóa học sinh ra những loại hợp chất đó mà bản thân những chất đó đã có sẵn trong thành phần của dầu thô.Chỉ khi có những điều kiện khác nhau sẽ xuất hiện những chất khác nhau.Như vậy có thể lý giải một cách đơn giản sự Vận động của Vũ trụ mà tất cả những hình thái của Vũ trụ hiện nay đều có sẵn từ trước và tiềm ẩn dưới dạng Năng lượng trong Vũ trụ, trong các điều kiện khác nhau của sự vận động (Năng lượng) sẽ xuất hiện các dạng Vật chất và tinh thần khác nhau, bản thân tinh thần cũng là một dạng của Năng lượng và vận động theo Học thuyết Âm dương-Ngũ hành. Nguyên lý này được tóm tắt qua một câu đúc kết rất đơn giản từ xa xưa: NHẤT BON Tản văn thứ - VĂN THỤ QUY NHẤT bón.
MỘT SỐ CAO NHÂN PHẢI VÔ VI MẬT TỔNG DIENBATN ĐƯỢC DIỆN KIẾN.
BÀ TRÚC LÂM NUONG (Người hướng dẫn GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG VỀ VÔ VI ĐẠO PHÁP).


SƯ BÀ VÀ Rất nhiều Xá Lợi PHẬT DƯỢC LƯU Giữ TRỌNG ĐÀN.





KIM TỰ THÁP LUYỆN VÔ VI PHÁP.



PHẢI VÔ VI MẬT VÀ TỔNG Su Menh CỦA ĐỨC THÁNH Di Lạc PHẬT VƯƠNG.



Từ những hiểu biết được truyền dẫn qua những Thầy Tổ VÔ VI, Quái nhân giảng giải cho hai ông Thầy về PHẢI VÔ VI MẬT VÀ TỔNG Su Menh CỦA ĐỨC THÁNH Di Lạc PHẬT VƯƠNG như sau:


Khi đã hiểu được HỒNG BÀNG DỊCH, nghĩa là nắm được công thức bao quát toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ bao la, Khoa học tâm linh sẽ phát triển trong Thiên nhiên kỷ thứ 3 là thời của THÁNH ĐỨC Di Lạc PHẬT VƯƠNG. Một Khoa học như vậy, người bình thường khó có thể hiểu nổi nếu không có một sự chỉ đạo cơ bản của Trời - Đất (tức là của các Đăng VÔ VI), Một sự truyền năng lượng Siêu việt (giống như một đường truyền Intenet) và một tiềm năng trí tuệ hết sức đặc biệt (cái này để tu luyện mà có khả năng tải về giống như của máy Vi tính). Đối với những người nghiên cứu Khoa học Tâm linh, cách này là biên của cải cách đúng nhất để có thể sử dụng cho sự tiến bộ của Nhân loại, làm vinh quang cho đất nước Việt Nam và cho sư nghiệp của chính mình và con cháu mai sau. Xuất xứ từ các thông tin ghi nhận được từ Cõi Phật - Chòm sao Bắc Đầu - Quê hương của Nhân loại chúng ta - Những kiến thức này có được từ các Đăng Vô Vi - Là sách Trời, là ân huệ của HỒN Thieng song nui , cho Nhân loại và con cháu Hồng Bàng chúng ta. Đây thực sự là những kiến thức có tầm xa thời gian vài nghìn năm


VỀ NGUỒN COI.


PHẬT THUYẾT: THIÊN TRUNG BẮC Đâu có PHẬT TIÊU TAI DIÊN THỌ.


CHÚ SÁCH 3 NGHIỆP: UM SA PHA BA PHA - TRUẬT ĐÀ SA PHA - ĐẠT Ma SA PHA - BÀ PHA TRUẬT ĐỘ Ham.


ÔNG A NAN Kế: Đúng như thế này: Chính tôi được nghe, một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung tập hồ các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Tứ Hộ chúng đàm luận Pháp yếu.


Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng: Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hen, côn trùng xuân động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương , Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thay đều làm nơi Bắc Đầu Thất Nguyên Tĩnh làm chủ tế.


Vì có gì mà bảy sao bắc Đầu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?


Cui xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây đều hưởng quy thay.


Khi ấy Phật bảo Bồ Tát văn Thù và đại chúng rằng:


Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên nào để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của ba vì sao ấy, quyền phúc thí sinh, thí ân muôn cõi.


Ông Văn Thù này: khắp cõi Tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hen, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đầu Tinh Quân bản mệnh làm chủ.


Thiện nam hay nữ thiện, hàng năm cứ ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ Tát, tùy tâm cầu nguyện ...


Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tĩnh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, thủy tinh, dốc lòng cầu khẩn, lúc được như ý.


Rồi đức Thế tôn đọc câu Thần chú sau:
UM HAT NA - ĐÀN NA - CHA CHA ĐẾ - HÀ MA ĐẾ - SÁT CHA-SÁT CHA ĐẾ - HẠT BAT MA DO - SA BÀ HA. (3 lần)

7 VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN
1/VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ NHẤT: Đại Dương Minh Khôi Tham Lang Thái Tinh Quân. Cổ là Phật ở thế giới Tối Thắng Đông phương hiệu là Vận Ý Thông Chúng Như Lai ..
2 / VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ HAI: Đại Thước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh Quân. Là Cổ Phật ở Thế giới Diệu Bảo Đông phương. Hiệu là Quan Âm Tự Tại Như Lai.
3/VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ BA: Đại Chân Nhân Quyền Lộc Tồn Chính Tinh Quân. Là Cổ Phật ở Thế giới Viên Châu Đông phương, hiệu là Kim Sắc Thành tựu Như Lai.
4/VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ TƯ: Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Tinh Quân nữa. Là Cổ Phật ở Thế giới Vô Ưu Đông phương. Hiệu là Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
5/VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ NĂM: Đại tất Đan Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh Quân. Là Cổ Phật ở Thế giới Tĩnh Trụ Đông phương. Hiệu là Quảng Đạt Trí Hiện Như Lai.
6/VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ SÁU: Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân. Là Cổ Phật ở Thế giới Pháp ý Đông phương. Hiệu là Pháp hải Du Hí Như lai.
7 / VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN Thứ bảy: Phiêu Nhiên Quán Phá Quan Quan Tinh Quân. Là Cổ Phật ở Thế giới Mãn nguyện Đông phương. Hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có:
8/VỊ BẮC ĐẦU THỨ TAM TINH QUÂN: Đông Minh Quân Ngoại Phù Tĩnh. Là Bồ Tát ở thế giới Diệu Hỷ Tây phương. Hiệu là Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
9 / VỊ BẮC ĐẦU TINH QUÂN THỨ CHIN: Ẩn Quan Nội Quân bật Tĩnh. Là Bồ Tát ở thế giới Diệu Viên tây phương. Hiệu là An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:22 am


VỀ CON ĐƯỜNG PHẬT ĐẠO - KỶ NGUYÊN DI Lạc Dương Minh THÁNH ĐỨC.

1 / SÁCH MẬT TỔNG NGUYÊN LÝ Chẹp rằng: Khi đức Phật Thích ca viên tịch, đệ tử của ngài là A NAM ĐÀ rơi luy mà rằng: Khi Thế tôn nhập niet bàn rồi thì ai sẽ dạy bảo các con.


Đức Thích ca đáp: "Ta chẳng phải vị Phật đầu tiên, hay cuối cùng ... Sẽ có một khác đang xuất hiệncứu đời.


* Một Đăng Chí Thánh.


* Một Đăng Đại Giác cực kỳ cao thượng.


* Một Đăng dẫn Đạo vô song.


* Một Đăng là Chúa Tể của các Thánh Thần và loài người.


Đăng ấy sẽ truyền dạy cho các con một Đạo:


* Vĩnh Diệu Buổi Sơ Khai.


* Vĩnh Diệu Buổi thịnh hành.


* Vĩnh Diệu Buổi kết cục.


Đăng ấy sẽ xướng một Đời sống Đạo đức khiết thanh hoàn toàn.


2 / SÁCH CỔ BYAMS-PA (tiếng skt) ghi:


Di Lặc-"LOVE":


COME TO THE Phật, WHO WILL CẢI CÁCH nhân loại, QUA Power Divine LOVE.
ĐỨC Di Lạc - Di Lặc - TÌNH THƯƠNG: VỊ PHẬT SE Giang, SE CAI TẠO LOẠI NGƯỜI, QUA SỨC MẠNH TÌNH Thượng Thanh ĐỨC.
Đức Di Lặc ngụ tại phương Đông của Ngũ Trí Như Lai.


Hàng ngày Ngài ban phước cho thế gian khi mặt trời lặn (18 h).


Hào quang Ngài trong suốt phát từ TÂM.
Lão Quái nhân tiếp tục giảng cho hai vị Thầy biết về MỘT KỶ NGUYÊN MỚI HÒA NHẬP VÀ HƯỚNG THIỆN .. các người phải biết rằng: "Nhân loại đang chuyển dần sang một Kỷ nguyên mới, và đồng thời sang một Thiên niên kỷ mới Lịch sử. đã sang một trang điểm DUT cách Nếu các ngươi đã thấy rằng:. Thiên niên kỷ 2 là một Thiên niên kỷ đầy Ap tranh chấp vật chất và đa dạng hóa, trên nguyên lý THIÊN - ĐỊA - NHÂN hợp nhất, thì trái lại, Thiên niên kỷ 3 lại là một Thiên niên kỷ Thiên - Nhân hợp nhất Loài người. sẽ quay về sự đơn nhất và sự hòa nhập Hòa nhập. với Thiên để đi tìm Cội nguồn của Minh Triết, Ven bức màn bí ẩn của Sinh - Tử, tìm bản thể của 9 phương Trời - 10 phương Phật, của Không gian và Thời gian , của Tiên tri. Hòa nhập Đông - Tây, thống nhất tư tưởng của Đông - Tây, thống nhất Duy Minh với triết lý, theo chương trình của đức Bàn Cổ Manou, Thánh sư Morya, Đức Phật Di Lặc, Thánh sư Kot Houmi , Đức Văn minh Đại đế Mahachohan, sư Thánh Chúa Giêsu Chúng ta. đang đi dần từ Kỷ nguyên Thái Âm đầy bóng tối vào Dương Minh Kỷ nguyên của ánh sáng, Di Lạc KỶ NGUYÊN THÁNH ĐỨC. Trong cái tuần hoàn của Vũ trụ, đó là điều tất yếu Để thực. hiện được điều đó thì nền Khoa học phải bao gồm cả Vật cả Tâm "Nhất. Âm - Nhất Dương chi vi Đạo" đó các người.

Tạ từ ngày rơi xuống hang thấm thoát đã hơn 20 năm. Qua các Pháp Vô Vi ngươi như chúng đang học, ta phải thực hiện một sứ mệnh nặng nề, đó chính là: BẢO VỆ ĐỊA Huyet HUỲNH MÔN Huyet - LÀ ĐỊA Huyet TRUNG TÂM CỦA CẢ MIỀN Năm nay .. Xứ mệnh đó do chính HỒNG BÀNG TIÊN MẪU trao cho ta. Theo như cơ Vô Vi đã viết, theo cuốn HUYỀN DIỆU THIÊN THƯ của một dị nhân ẩn danh vùng Thất sơn.
"Khoa Địa lý dạy rằng: Ông một dòng sông bắt nguồn từ nơi đất địa linh hiển, núi cao không tới năm ngàn người ở, rừng ram ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng ngàn thu nghêng ngang không cạn, thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi Huyet "Long đánh", một địa linh rất Linh hiển, phi nhiêu về vật chất, cao siêu bội phần về tinh thần.Ngọn CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt oai nghiêm,, vừa tạo thành nên vóc VẠC hoàn toàn lối 100 năm nay.Liên kết với các núi, Cửu long giang xuất hiện ra 12 Huyet huyền diệu, chấm đậm néthùng quả vĩ trên Địa cầu này.
"Bắt đầu khởi kết Từ nguồn khí âm dương xây nên Địa Huyet thứ nhất tại THẤT SƠN (Châu đốc) Chỗ ấy ba Huyet Tiên thiên hiệp lại làm Ne Huon cung,. Xuất hiện đúng ngày linh hiển TÂM HUẾ Tu Đánh mùi hương lạ kỳ-bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng.Chỗ ấy là cân não, tuy cốt của Cửu long.Tên nó được hưởng ứng theo luồng điện Thiên nhiên, oai nghiêm, từ bi, hùng vĩ, đời sau gọi là KIM THÀNH HUYỆT.Đó là huyết dưỡng đã xuất hiện, Cửu long kết lần với hai dãy núi âm phong cô độc, liên hiệp thành cặp mắt HÀ TIÊN và PHÚ QUỐC là THỦY TRUNG HUYỆT.TÂY Ninh, núi ĐIỆN BÀ là HUỲNH MÔN Huyet, hai đánh núi ấy thuộc về Âm kết Từ nguồn khí tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG Huyet (Dương) để khai mở luồng điển quang cho các Huyet kia vừa ngưng tại lối miệt Long xuyên, Bình mỹ (Một dãy dài cù lao lớn chạy từ Bình mỹ xuống gần đến Cần thơ).
Từ Kim thành Huyet phóng thẳng xuống mũi Cà mau và núi KỲ VÂN, hai huyết dưỡng nữa, thì bên một thành sống mũi Cửu long chấm đến Cà mau (Tức là LÂM HUYỀN Huyết), một bên thì Hàm Rồng tại KỲ VÂN (Tức NGỌC BÍCH Huyet) Đồng cân với hai Huyet âm (THỦY TRUNG Huyet VÀ HUỲNH MÔN Huyết)., hiện ra một Huyet thứ sáu (BÌNH NAM Huyết), tại núi Côn nôn là chót lưỡi của Cửu long.
Sáu Huyet âm dương vừa kết tụ, thì tại Trung ương Huyet, yết hầu Cửu long, vừa khai mở gần Cần thơ bây giờ, gọi là Trung ương CỬU LONG HUYỆT.Lần ba lần cửa mở ra: cửa Đại, Tiểu ... vv vừa thành tựu (Năm Nhâm Thìn 1892), khiển cho ba nguồn Thủy dựng tại Bình Nam châu chuyển động (Lưỡi Cửu long), làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm Cỏ, Gò công, Bến Tre và các cù lao nhỏ ...) ba ngày ba đêm.Đó là bảy Huyet Linh Thieng, CHÁNH GỐC của xứ VIỆT NAM mới ngưng kết được lối 100 năm nay.Đứng giữa Hoàn cầu, sự Linh thiêng tân tạo là đầu Cửu long giang, một nguồn Bảo giang Thiên cơ đã định phải chơi rạng sự Huyền diệu, nhút hạng khắp bốn bể, năm Châu.Vì Địa linh ấy mới sanh Nhơn kiệt, các vị Thánh tổ kim thời ông thuộc mạng âm thì phải xuất hiện ( chứ không phải Giáng sanh), dạy đời trong ba Huyet âm (THỦY TRUNG Huyet, HUỲNH MÔN Huyết và BÌNH NAM Huyết)., còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất sơn, KỲ VÂN và CÀ MAU (KIM THÀNH Huyet, BÍCH Huyết và NGỌC LÂM HUYỀN Huyết).
(Dat sĩ và NGUYỄN VĂN HẦU-THẤT SƠN MAU MHIỆM).
Cũng theo cuốn Thất sơn mầu nhiệm của Nguyễn Văn Hậu, thì: "Thất sơn nằm trên địa phận tỉnh Châu đốc và sông Cửu long này cũng chảy qua tỉnh.
Mà Thất sơn tức là Bửu sơn hay Bảo sơn, thì quý bầu vô ngần, hiển linh tốt bậc: Nơi đây đã có nhiều vị tu hành chứng quả PHẬT, TIÊN, THẦN, THÁNH.Chính phái BỬU SƠN KỲ HƯƠNG đã phát hiện tại vùng này.
Còn Cửu long hay còn gọi là Bửu giang Bảo giang.Con sông này được coi là con sông bầu quý, vì đó là con sông lớn nhất và dài nhất trên toàn cầu (hơn 4,500 cây số ngàn) Phát nguyên. Từ bên Tây tạng , nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp sơn cao nhất toàn cầu (8,840 th); Và là nơi đức Phật Thích ca đã đắc quả chánh đẳng - giác.Con chánh sông này chảy qua Việt nam, qua Nam Việt (Nhất là tỉnh Châu đốc), rồi tuôn ra biển Đại thanh với chín cửa biển (Cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Bà Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ chiên, cửa Cung hầu, cửa Định an, cửa Bách xác, cửa Tranh đề), vừa kết Từ nguồn khí, vừa phát hiện đủ thứ Địa hình.
Dom kỹ bản đồ Việt nam, thì ta thấy cù lao Kết (Từ Vàm nao đến Nam vang), giống hình một con Quý, mỏ day về Vàm nao.Mà con Quy đó đã nằm giữa Tiền giang và Hậu giang, lại ở vào khoảng giữa (Tức Trung ương) Thất sơn và Cửu long.Theo nguyên lý NAM THẤT NỮ CỬU thì Thất sơn thuộc dương, cửu long thuộc âm.Địa cuộc có âm dương tương hội thế ấy tất nhiên là Địa linh.Mà Địa linh tất sinh Nhơn kiệt.Sông thế ấy, núi thế kia phải đào tạo được những trang hào kiệt phi thường.
Như vậy, Đức HỒNG BÀNG TIÊN MẪU giao trách nhiệm cho một số người phải bảo vệ các Địa Huyet của miền Nam tươi trẻ này. Tại ĐỈNH NÚI THÁI NHẤT VÔ Hu TRÊN ĐÓ CÓ MỘT ĐẠI Huyet CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM TÊN LÀ KỲ PHONG Huyet HAY THÁI Hu Huyet làm Sư Tông đang coi giữ. (Xem thêm: http://thegioivohinh.com/showthread.php?t=98 - dienbatn). Tương tự như vậy, các Địa Huyet khác đều có người coi giữ hết sức nghiêm cẩn. Nay, mong muốn của ta là sẽ dùng VÔ VI PHẬT PHÁP, đào tạo cho các nhà ngươi trở thành những người Kiệt xuất, tiếp tục sư nghiệp của Đức HỒNG BÀNG TIÊN MẪU giao cho ở miền Bắc Việt Nam.


Tứ những ngày sau, hai ông Thay liên tục 4 thời mỗi ngày, ngồi nhận những kiến thức về từ Vũ trụ truyền, thông qua các đường kênh Năng lượng và được truyền qua đường Hà ra. Nếu Trường Sinh học liên quan đến năng lượng của con người thì đường Hà Ra liên quan đến những ý định của nó. Nhiệm vụ của sự hiện diện mọi người chúng ta trên Hành tinh này và các mục đích tạo dựng mọi hành vi của mỗi người tại mọi Thời điểm đều xuất phát từ cấu trúc Hà Ra. Đường Hà Ra xuất phát từ một điểm trên đỉnh đầu gọi là Thiên Điểm, đi qua Trung Điểm trên ngực, tiếp đó xuống Huyet Đan Điền và phóng sâu vào vỏ trái đất. Thiên điểm có hình dạng hình Phễu ngược, nó là sự cá thể hóa đầu tiên của con người khi tách ra khỏi Vũ trụ. Qua Thiên Điểm này, con người liên hệ được với những thực thể thiêng của mình Liềng nhất trong Vũ trụ. Nó là con đường mà con người có thể xử dụng để trở lại nguồn gốc thiêng Liềng của mình qua bao nhiêu đời kiếp, trở lại chính bản thể của mình mà câu hỏi: Ta từ đâu đến? Luôn luôn ngày DUT trong tâm trí mỗi người. Trung Điểm của đường Hà Ra giống như một ngọn đèn khoảng 40 W. Đó là cấu trúc của xúc cảm. Nó mang theo sự khao khát Tâm linh mạnh liệt của con người, một sự khao khát thiêng Liềng định hướng hoạt động của mỗi người trong suốt cả cuộc đời. Nó mang sự say mê sâu xa nằm bên trong cơ thể, cần thiết để thực hiện những việc lớn trong cuộc đời. Đây chính là điểm tựa của Linh hồn con người. Huyệt Đan Điền là một điểm Sinh lực của người con, nó liên quan chặt che đến Mệnh Môn Hỏa, là nguồn gốc của những năng lượng trong con người. Thông qua Huyet Đan Điền, con người gắn liền với đất Mẹ của mình. Khi đường Hà Ra càng cắm sâu vào lòng đất bao nhiêu thì con người ta càng nhận được nhiều năng lượng từ lòng đất bay nhiêu. Cơ chế tiếp nhận kiến thức của VÔ VI ĐẠO PHÁP, khiển cho hai ông Thay chỉ trong một thời gian ngắn đã có một kiến thức vô cùng phong phú và tinh tế, một nguồn nội lực cực kỳ hùng hậu.



Thấm thoát đã 20 ngày trôi qua kể từ khi xuống lòng hang, mà hai ông Thầy tưởng như đã bao nhiêu đời kiếp, Lão Quái nhân gọi hai người ra căn dặn: "Các ngươi đã đến lúc phải đi làm nhiệm vụ của mình, những gì mà HỒNG BÀNG TIÊN MẪU đã truyền cho các ngươi, các ngươi làm cho răng tròn phận sự Thôi,. đã đến lúc hai chúng ngươi phải dời đây rồi ... " Nói rồi lão Quái nhân phất tay dom lui vào trong. Từ trên miệng hang, bỗng nổi lên một làn gió lạnh đầy tanh hôi và tiếng khóc kêu oan vang vọng hơn. Hai ông Thầy vội quay ra nhìn - Lúc này, Linh hồn hai mẹ con cô Lan đang Quỳ dưới nền hang và kêu khóc như mưa. Tiếng kêu khóc ai oán, não nề, u uất khiển cho Lão Quái nhân tưởng như sắt đá cũng không còn lạnh lùng được nữa. Tiếng kêu khóc muôn sầu, muôn thảm lúc này đang vang vọng khắp không gian. Lúc đó Lão Quái nhân chợt ngân nga một câu chỉ điểm của SAM PHÁP ĐẠI BI

Nếu con hướng về nơi non đao,


Non đao tức thời liền sup đổ.


Nếu con hướng về lửa, nước sôi,


Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.


Nếu con hướng về cõi Địa-ngục,


Địa-ngục liền mau tự tiêu-diệt.


Nếu con hướng về loài Nga-Quỉ,


Nga-Quỉ liền được tự no đủ.


Nếu con hướng về chúng Tu-la,


Tu-la tâm ác tự điều phục.


Nếu con hướng về các Sức-sanh,


Súc-sanh tự được trí-huệ lớn.

Đọc xong Lão lại củi đầu lung thùng bước vào hang.
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:22 am


Khi lão Quái nhân vừa khuất sau những vách đá, hai ông Thầy vội vàng đến bên Vong hồn hai mẹ con cô dạy kêu Lan. Cô Lan Văn Quý dưới đất và nực nở nói đứt quãng: Về ngay đi hai Thầy ơi, ở nhà có chuyện để rồi ...... hu hu. Ngạc nhiên, cả hai Thay vội nói: Có chuyện gì vậy, nói ngay đi xem sao.



Cô Lan vẫn nực nở, kể trong tiếng nghẹn ngào nac: Ngày hôm qua, nhân thấy hai Thầy đi vắng đã lâu chưa về thấy, lão Chà thay đã tung toàn bộ lực lượng, đánh thần tốc vào nơi ông bà Bảy đang sinh sống và thờ Phụng. Chắc có lẽ lão thay Chà hận ông Bảy tiếp tay thay cho hắn thay Chàm lại chống. Bà Bảy cùng toàn thể các sư - huynh đệ trong môn phái hết sức chống trả, nhưng công lực của lão thay Chàm quá mạnh. Bà Bảy bị lão thay Chà đánh trúng một Đòn trọng thương, người trưởng Tràng là một đệ tử yêu quý nhất của ông bà Bảy bị cặp Thần rắn cắn chết tươi ngay tại sân nhà ông Bảy. Hầu hết những đệ tử của ông bà Bảy đều trúng người thương nặng, người nhẹ. Toàn bộ bàn thờ Tổ qua bao nhiêu năm ông bà Bảy Phụng thờ trang nghiêm là thế bị lão Thầy Chàm dùng chưởng đánh đổ cho SAP, tan nát. Hiện nay, mọi người đang thay nhau trị thương và chiến trường Dọn dẹp. Lũ Thiên Linh và hai mẹ con con cũng bị lũ Thiên Linh của lão thay Chàm đánh cho bất sat sang bang. May mà hai mẹ con trốn đi kịp, tìm khắp nơi mới thấy hai Thầy ở đây. Các Thay về mau, bà Bảy nguy lắm. Nói rồi hai mẹ con lại ôm nhau nực nở.


Hai ông Thay Nín lặng mà thấy đắng trong miệng. Mãi một lát sau bình tĩnh lại, họ cùng ra trước vách đá của Thầy Tổ Vô Vi thưa chuyện và xin phép được về nhà gấp. Sau khi được chuẩn y, họ cùng tạ Lạy Thầy Tổ và lão Quái nhân chuẩn bị cùng hai mẹ con cô Lan ra về.


Lần này, vách hang cao thăm thẳm không còn là chướng ngại đối với hai ông thầy nữa. Cả hai ông Thầy dùng thuật Khinh công mà họ học được, phóng băng băng từ vách hang này sang vách hang kia. Chả mấy chốc, họ đã lên đến cửa hang. Ngoài kia, bóng chiều đang dần mờ, chỉ ở phía đằng xa phía tit Huyện Châu Thành, ông mặt Trời đang từ từ chìm xuống sau mit mù màu xanh của rừng già biên giới.
Có gì của ta đâu?



Từ thân thể đến đầu.


Có gì của ta đâu?


Sao cứ mãi sầu đau.


Có gì của ta đâu?


Một khi thân tứ đại,


Tan rã sẽ về đâu?


Tan rã sẽ về đâu?


Sao cứ mãi âu sầu,


Một khi hơi thở DUT,


Chút nghiệp năng dâu bể,


Sao cứ mãi âu sầu.


Một khi hơi thở DUT,


Chút nghiệp năng dâu bể,


Có gì của ta đâu?


Sao cứ chấp mong cầu?


Có gì của ta đâu?


Sao cứ mãi sầu đau.


Có gì của ta đâu?


Một khi hơi thở tận,


Trăm chấp nặng chìm sâu.

Tối hôm đó, khi bốn người (Thực ra chỉ có 2 người và 2 ma) về đến nhà. Bước vào tới cửa nhà, nhìn bàn thờ Tổ bị đổ nát tan hoang, tượng Phật, tượng Thần nát tan vỡ, chiếc khăn màu đỏ Ấn bị cháy quá nửa. Bà Bảy nằm chùm mền trong nhà góc, mặt bà sam đen và có những lan xanh như chạy những lan roi trên thái dương. Cả khu trước nhà nay đồ nên như vậy, lá mái nay, kèo cột đổ nát tan hoang. Ngoài sân, chiếc quan tài màu đỏ gác lên hai chiếc ghế, đèn nhang quắc sáng. Một vòng hoa rừng làm vội được đặt ở phía đầu quan tài. Hơn một chức đệ tử của ông thay Bảy, chỉ còn một hai người bị thương nhẹ, cố gắng gượng dậy để lo việc nhà. Số còn lại đều phải nằm trên võng trên giường hoặc để mọi người trị thương. Ông Bảy lúc này khuôn mặt đen sam, lầm Lỳ không nói một câu nào. Còn thay Chàm đang ua hai dòng nước mắt đầy thù hận.


Hai ông Thầy liền bước đến chỗ bày Bảy, đỡ bà ngồi dậy. Bà Bảy nhìn ông Bảy cũng ua lệ. Hai người đỡ cho bà Bảy ngồi theo thế kiết già, người một đằng trước, một người đằng sau, họ cùng xòe cả hai bàn tay hướng về công vận bà Bảy.


Giọng ông Bảy trầm hùng đọc chú: "Thoại ra tit ra - Mặc ca Ray - Ô ra ca Ray - La mít tất lô mít - Các si sê - Mạc mo quang tóc tit - Say ti phu mi sát na nát".


Phía bên kia, ông thay Chàm cũng đã hát sáng: "Phật Tổ Lục độ minh chứng - Vận chuyển, chuyển vận - A ray ca nac danh - Một phẳng lăng mắc mắc".

Đó là hai ông thầy đang vận khí chân, dùng Vô Vi Pháp gọi là Phật Khí Công để tụ nội ngoại lực Khí, đả thông kinh mạch và trục chất độc ra cho bà Bảy.


Một lát sau, toàn thân bà Bảy mồ hôi đổ ra như tắm, trên đầu một làn sương trắng cứ bốc cao dần lên gần tới nóc nhà. Những đường gân xanh trên mặt bà Bảy mất dần, mặt bà đỏ hồng trở lại. Mãi một lúc sau hai Thay mới thu chân khí và ngồi điều tức. Bà Bảy đã khỏe hẳn trở lại.


Suốt đêm hôm đó, hai Thay liên tục vận chân khí, trị thương cho các đệ tử của mình. Khi người đệ tử cuối cùng trị thương xong, vừa lúc ánh mặt trời ló rạng ở hàng tre trước mặt.


Một lúc sau, phường Bát âm lục tục kéo đến, tiếng đơn cò, tiếng mõ, tiếng nỉ non của cây nhị tạo thành một dàn hợp sướng đầy bi ai, thống thiết. Người ta đi kéo về một chiếc thuyền Bát Nhã và khênh quan tài người Trưởng Tràng đặt lên đó. Một chén cơm trắng vung đầy, có quả trứng và cây đũa bông đặt ở trên. Dàn nhạc lễ đi trước, mọi người lầm lùi đi sau thuyền Bát Nhã. Không có một tiếng khóc, chỉ có những làn môi mỉm chặt và những ánh mắt rực lửa căm thù.


Khi những viên đất đầu tiên được nem xuống mộ, thay Bảy thay mặt tang gia nói với mọi người: Thưa tất cả các bà con cô bác, các anh chị em. Thằng đệ tử ruột của tôi, vì bảo vệ bàn thờ Tổ Thầy và các huynh đệ đồng môn, đã phải ngã xuống vì sự ác độc tốt cùng của lão Thầy Chàm. Vẫn biết, oán thù nên cởi chứ không nên buộc. Song tôi thiết nghĩ, Lão Chàm đã gây ra nhiều tai họa cho mọi người. Oán thù ngút ngàn. Lão đáng ngàn kiếp phải đóa vào Tam Đồ, để khỏi gây tang tóc cho mọi người. Vì cuộc sống bình yên của mọi người, nay tôi quyết trung trị Lão.


Lúc này tất cả mọi người đều đồng thanh: Quyết tâm tiêu diệt lão Thầy Chàm. Những cánh tay giơ lên trời cao, hứa hẹn một lời thề quyết tử. Bỗng nhiên, từ trên không trung, sấm nổ một trang, ánh sáng Lè xanh, phóng phóng qua lại trên bầu trời ảm đạm. Người và Trời đã tương thông với nhau.


Từ đầu đến giờ, ông thay Chàm vẫn lặng thinh bất tận. Tiếng sấm làm ông như chợt tỉnh lại. Đốt nguyên cả bó nhang, cắm lên mộ người Trưởng trang, ông đọc bài văn tế ướt đẫm nước mắt:


"Vui mộng đêm qua chợt trở mình,
Như còn phảng phất lời kinh mấy.
Tân hồn muôn kiếp bơ vơ khóc.
Xin được nghe kể Quỳ hữu tình.
Muôn vàn hồn đau lớp lớp về,
Oan từ xa lắm, khổ lê thê.
Theo mây chẳng chở - Nhà chứa không,
Phảng phất đêm nay khóc tỉ tê.
Nếu chết cho người được mến thương,
Cũng vui trong định luật Vô thường.
Còn hơn gửi xác - Đời vô nghĩa.
Cô độc oan hồn lạnh thấu xương.
Tất cả về đây nguyện một lời,
Cầu xin siêu độ cõi chơi vơi.
Xin tình thương xót hơi ấm làm,
Là phép mầu vi xóa hận đời.
Có những oan hồn đến với ta,
Ngam ngui khóc, kể chuyện đời qua.
Xin thương, dìu độ cho con trẻ,
Trong cảnh trầm luân lạc nèo tà.
Cũng có oan hồn muốn hiện hình.
Đền ơn báo oán - Ứng linh oai.
Nghiệp nhân - chứng quả ta khai ngộ,
Nhờ đức từ bi xóa tội hình.
Từ đấy khi ta muốn xuất thần,
Tiêu dao hồn Phách hiện chân thân.
Một vui với cõi đời vô hiện
Còn một lo siêu độ với trần "

Đọc xong bài văn tế, ông khóc thảm thiết rộng lên ... hu hu hu. Nhìn ông thay Chàm nực nở khóc, không một ai không bùi ngui, xao xuyến vì cảnh đời éo le trong cõi vô thường này.



Một cái Tết nữa sắp đến trên đất Tây Ninh. Khác với miền Bắc, càng gần Tết, trời càng nắng chang chang và vì đang ở giữa mùa khô nên cái nắng lại càng gay gắt. Trên vùng đất Châu Thành lúc này đang rộn ràng vào mùa thu hoạch mía, mì và các loại cây ăn trái khác. Các đường lò mở ra khắp nơi và hoạt động hết công suất. Những chảo nước mật mía vàng óng đang sôi sùng sức Phả ra một mùi thơm thật quyến rũ. Những cặp trâu kéo máy ép mía vẫn đi chậm rải thành những vòng tròn bất tận, những núi xác bã mía trắng xóa phơi đầy các con đường đá đỏ. Từ sáng sớm tinh mơ, những chiếc xe lôi chở công chặt mía đầy Lặc le thi nhau chạy vào những động mía ngút ngàn. Những cô gái mặt bịt kín khăn che mặt, xách theo những cặp lồng cơm rửa và cây, nước uống có thể cười đùa rực rích trên xe. Thông thường, những người đi chặt mía là làm công đứng, tức là làm liền một leo từ sáng sớm cho tới gần 2 giờ chiều mới nghỉ. Do vậy họ phải thức dậy từ 3g sáng, nấu cơm, ăn vội vàng, chuối chập, rồi tay dao, tay cầm cơm, nước ra điểm tập trung để xe lôi chở vào động mía. Thường là từ nhà đến nơi chặt mía phải đi hơn chức Km. Nắng Tây Ninh và những lá mía sắc như dao, đầy lông ngứa tha hồ hành hạ những người làm công. Chính vì vậy, người nào người ấy phải mặc quần áo dài và kín bó chân tay. "Tây Ninh nắng cháy da người". Cả một ngày làm quần quật như vậy, nhưng họ chỉ được trả công với giá cực kỳ rẻ mát. Những lúc khỏe và có việc làm thì còn đỡ, những lúc đau ốm, không làm việc là họ phải đi vay với giá cắt cổ để mua gạo, mua thuốc. Đây chính là thời cơ cho mẹ con những cho vay cắt cổ người ta hút máu của họ. Lãi suất thường là 30% tháng, nếu tháng nào không trả lãi là lãi mẹ lãi con chồng tiếp. Chả thế mà dù lao động cực kỳ vất vả, nhưng nhà cửa của họ vẫn sơ xác, cuộc sống của họ vẫn đói nghèo triển miên.


Tận cùng của một Trảng mía khu vực Bến Trường là một cánh rừng chơi mọc ven Veo vòng một con suối nhỏ. Mùa này, dòng suối chỉ còn là một vết nước bé tý, cố ngoi Ngop ra khỏi cánh rừng. Tại một khoảng lớn của đất rừng chơi, người ta thấy có 3 Cái Lân bằng cây lợp tranh khá vững chắc. Ba cái lâm quay đầu vào nhau tạo thành một chữ U, mà ở giữa là một cái sân đất rộng nen. Vì là ở tận cùng của động mía, nên khu vực này hầu như không có mấy người ghé thăm. Năm thì mười họa, một vài công chặt mía, có thể ghé vào xin nước mà thôi. Có lần, một người thanh niên sau khi xin nước, tò mò đi ra dòng suối phía sau lan, vừa băng qua mấy vạt cây trồng thành hàng giếng giống như những bụi, chợt Sùi bọt Mép và ngã lăn ra đất. Những người đi theo vội đỡ lên, công về nhà. Chỉ trong vòng 3 ngày sau, thân thể anh ta trương lên đầy ứ ra chảy nước vàng từ những lỗ chân lông. Từ thân thể anh ta bốc ra một mùi xứ uế, khăm khám và anh ta phải chết trong đau đớn với những tiếng gào thét điên cuồng. Từ sau cái chết đó, những người chặt mía, tuy không biết nguyên nhân rõ, song không ai bảo ai, đều tránh xa khu vực lan quái dị đó. Các ông Thầy ở khu vực đến xem và bảo anh ta đều chết vì Khí Ngãi. Thay có những hiểu biết nói rằng, anh ta đã vô tình đi qua những bụi Ngãi cực độc mà từ xưa nay ở khu vực Tây Ninh không hề có.



Có gì của ta đâu?



Từ thân thể đến đầu.


Có gì của ta đâu?


Sao cứ mãi sầu đau.


Có gì của ta đâu?


Một khi thân tứ đại,


Tan rã sẽ về đâu?


Tan rã sẽ về đâu?


Sao cứ mãi âu sầu,


Một khi hơi thở DUT,


Chút nghiệp năng dâu bể,


Sao cứ mãi âu sầu.


Một khi hơi thở DUT,


Chút nghiệp năng dâu bể,


Có gì của ta đâu?


Sao cứ chấp mong cầu?


Có gì của ta đâu?


Sao cứ mãi sầu đau.


Có gì của ta đâu?


Một khi hơi thở tận,


Trăm chấp nặng chìm sâu.
Có gì của ta đâu?
Có gì của ta đâu?
Có gì của ta đâu?
Tất cả là hư ảo.
Tình nghĩa cũng trôi mau.

Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:23 am


Trong đêm đen của rừng già Tây Ninh, tại khu vực rừng chơi của Bến Trường, hai bóng đen lầm lùi đi trong yên lặng thoảng đâu. Đó rực tiếng cú, tiếng ri rào của cành lá trong chạm nhau vào cái giá lạnh của những ngày giáp Tết. Hai bóng đen phóng như rất nhanh dùng thuật Khinh công, lướt nhẹ trên những thảm cỏ, qua những cây lum. Sau khoảng một tuần tàn nhang, họ đã đến khu vực có 3 cái Lân Dũng chơi chữ U trong khoảng rừng. Hai người dừng lại bàn tính nho nhỏ. Tới đây, chắc các bạn cũng đoan ra hai cái bóng đen đó là ai rồi. Thật vậy, là chính họ thay ông Bảy và ông thay Chàm đang thực hiện nhiệm vụ mà họ từng ấp ủ bao lâu nay. Từ chiều, bà Bảy và lũ Đệ tử đổi theo, nhưng hai người rất khoát không đồng ý. Họ muốn dùng chính những tuyệt học của mình đã nhân từ lão Quái nhân trong động để tiêu diệt lão Chà thay. Bà Bảy và lũ học trò chỉ còn biết im lặng và ngồi nhà lo lắng cho trận chiến cuối cùng này. Một linh cảm bất an dâng đầy trong lồng ngực bà. Chậm dài, bà Bảy thắp mấy nén nhang trên bàn thờ Tổ cầu xin cho hai người được bình an về, thắng trận trở.


Tại bản doanh của lão Thay Chà (đến đây, chắc bạn đọc cũng đã biết khu vực 3 Cái Lân hình chữ U, chính là nơi lão thay Chà cư ngụ), không một ánh đèn, tất cả như chìm vào trong một lớp sương mù ma quái. Ẩn sau cái vẻ yên bài đó là một cơn cuồng phong đầy chết chóc sắp sửa phát bụng. Hai ông Thầy dùng Kinh công, phóng VOT vào giữa khu đất hình chữ U và đáp xuống nhẹ nhàng. Chân vừa chạm đất, bỗng nhiên thấy cả hai Thay khu đất như rung chuyển xoay tit và. Ngay sau đó là những mũi tên lửa từ 3 Cái Lân bắn ra sáng rực cả Trời đêm. Một Tràng trống trận lập tức dồn vang và những tiếng đọc chú từ các ngôi lan ra vàng: "Cẩm Cò Cây, Cẩm Mạnh Mạnh, Cam Hanh Phanh, Cam Manh Manh, Cam Mây nghành, Cẩm Mạnh Nganh, Cam Sắc Xi, Cam Vì vậy, Rec, Cam Chuốt, Cam Phước ... Bờ Ri Ti Ti Tích Nac, Bờ Ri Tích Ti Na Nac, Phắc Cư Bờ rích Nac, Sắc Phích Phổ Nac, Ô Mạc Mười Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Mạnh Mạnh Lơn.. .. "


Hải Thầy vội vàng mượn cụt một gốc cây, đề chân Khí VOT thẳng lên không trung. Thật là Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, khi hai Thầy đang lơ lửng trên không thì một làn khí tanh hôi như điện đặt từ phía đầu họ giáng xuống. Thấp thoáng trong ánh lửa, hai con rắn Thần nhe hàm răng nhọn hoạt phóng thẳng xuống đầu họ. Không chậm trễ một giây, ông Thầy Chàm phóng cổ kiến đôi cắm thẳng xuống nền đất và hai người liền mượn chuôi kiếm làm điểm tựa phóng thẳng ra ngoài trận chiến. Một hồi công nữa lại vang lên, những luống Ngãi bên hông nhà lim Từ nay giờ vẫn im, bỗng như dựng đứng dậy cả, chúng xoay quanh cuộc đất hai ông thầy đứng và phun ra một làn sương dày đặc độc. Hải Thay vội bế chân khí, không để những làn hơi độc xam nhập vào lục phủ ngũ tạng của mình.


Thầy Chàm trợ dùng một ngón tay, điểm vào đám Ngãi đang xoay cao giong đọc chú: "Tả đồ càn - Khôn động, Hữu chuyển Nhật - Nguyệt linh, Nhất họa lan yếm sấm, Nhất điểm Quỷ - Thần kinh, Lỗ Ngô thỉnh ban lệnh, Cấp kỳ trợ cấp linh ... "
Thật lạ lùng, chỉ sau có mấy chỉ, đám Ngãi bỗng rạp heo nam rũ xuống đất, sơ xác.


Từ phía trong lan, hồi một công nữa vang lên cùng nhịp dồn dập đọc chú: "E hế mê bray cô ma dan mặc mặc ... E hế no ni quan sắc nha thô ... Mô ni cô mô ni ra ma, bud kinh bởi chồi thăn, ban bách săn khăn ban bách ... E hế mới nếu bà tá, Nac mô đặt thia dac ... Mê bạn rồi ú "
Ngay lập tức, từ trong một căn VOT lan ra hình bóng lão thay Chà. Lúc này Lão trông thật đáng sợ, hai con mắt vằn đỏ phóng ra những ánh hào quang cho xanh, tay lão cầm hai đoàn thanh kiếm cổ có hình thù kỳ quái, ánh thép xanh đến lạnh người. Lão cất lên một tiếng cười Tràng u ám và cao giọng: "Bộ các ngươi chán sống rồi hay sao mà dám xam nhập vào địa phận của ta Ngày này sang năm là này. Giỗ đầu của hai nhà người đó."
Vừa thấy bóng Lão Thay Chà, ông thay Chàm liền tung mình lên VOT Lão chặn đứng trước mặt. Xòe rộng đôi bàn tay, đẩy lên phía trước, một làn sóng xung kích ào tại tuôn ra từ hai bàn tay Ông. Sung Sot, lão vội thay Chà nhạy sáng cạnh bên, theo đà, Lương sóng xung kích bắn thẳng vào lan một căn. Ram ... lập tức cả Cái Lân đến là tính thế tan vỡ, lả tả rơi xuống.


Thất sắc lão thay Chà lâm ram đọc: "Bis mi la hiện rót mal nia rót ông Ol Lót hum mà để ly, A xây la di đi na Mô Hàm Mạch"
Ngay lập tức đôi kiếm cổ rời khỏi tay lão, hai ông nhằm thay tới phóng. Và cũng gần như tức thì, một luồng lực từ lòng bàn tay phóng Chàm thay vào đôi kiếm trận còn đang đóng đinh từ sân ban trên nay. Luồng công lực này nhổ phẳng đối kiếm và phóng chúng đón đầu hai thanh kiếm của lão Chà thay. Một tiếng xoảng cực lớn, hai cặp kiếm đập vào nhau và bắn tung lên không trung. Bây giờ ông mới thay Bảy phóng vào trận và chặn đứng trước mặt lão thay Chà. Người ông Bảy xoay tit như chong chóng, tiếp cận lão Chà thấy, dùng một chiến cận đơn, hai bàn tay ông Bảy vung ra. Một làn kinh phong cuốn thẳng vào ngực Chàm thay lão, vì cự ly ngắn quá, không kịp trở tay, lão thay Chà bắn tung lên không. Bên kia, ông cũng thay Chàm một phát luồng khí, điều khiển cặp kiếm cổ phóng thẳng vào lão Chà thay. Xoạt, sắc như nước, đôi kiếm cổ bay ngang qua người lão thay Chà còn đang không lơ lửng trên. Đường kiếm sắc ngọt, cắt lão thay Chà làm ba mảnh, hai chân rơi xuống trước, rồi đến đôi tay, cuối cùng là cái thân cụt lun của Lão gọn đè lên trên. Hai người vội phóng lại gần xem Lão chưa chết. Thay Bảy dùng hai tay lật ngửa thân lão Thay Chà lên xem. Chỉ một tích tắc bất cẩn, đôi mắt lão nhắm nghiền bỗng mở ra độc ác, đôi môi Lão đồ máy đọc chú lần cuối: "na mô buôtha dụng thế ú vậy há mạ mạ ú da sa mi pí", lập tức thanh kiếm cửa thay Chàm vừa rơi cạnh Lão bay bỗng nhằm lên Vút thẳng thay ngực của Bảy đâm tới và cũng gần như tức thì, ông thay Chàm Bảy thay gạt sang một bên. Xoạt, đường kiếm sắc lem đi qua của cánh tay thay Chà đây đang thay Bảy. Ông thay Chàm gục xuống, trên cánh tay Lặc lia máu tuôn xôi xả. Bên kia, lão thay Chà cũng giật lên mấy cái và nằm bất động. Trên môi Lão còn như vương một nụ cười ác độc.
Ngoài kia, phía lòng hồ Dầu Tiếng, ánh mặt Trời đang từ từ dâng lên ...
Về Đầu Trang Go down
ÁNH SÁNG-T2-ÚCCHÂU




Tổng số bài gửi : 1153
Join date : 18/02/2010

NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitimeTue Dec 14, 2010 7:23 am


NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN


Ông thay Bảy vội vàng phóng đến Chàm thay bên, nâng bạn dậy mình. Một cánh tay của ông bị đường kiếm Chém gần như đứt hẳn, Lạc lia bên thân hình. Thay Bảy vội ngưng tụ một luồng khí chân, dùng lưỡi họa một hình Phù cầm máu và đọc chú:


" Nhựt xuất đông phương nhut điểm hồng
Tả trừ đao kiếm đáo kỳ dài
Huyết tinh chung hồng huyết tâm bất
Thủy quán tảo hồng huyết bất ly
Ngô Phụng Thái Thượng Lão Quân
Cấp cấp như luật Linh. "
Chỉ một chút sau, dòng máu đang tuôn xôi xả đã dần dần ngưng lại. Đặt nhẹ ông Thầy Chàm ngồi dựa vào vách của lan, thay Bảy ra sân nhặt mấy thanh kiếm, đeo vào trong mình niệm và bài chú Thỉnh Tứ Đại Thiên Vương.

Kỉnh cầu Tứ Đại Thiên Vương,
Nay con hữu nhờ sự nương quí Ngài.
Cầu bậc đủ sức giúp ngay,
Đặng mau thành tựu việc này đội ơn!
Nam mô Bút đa da
NaCalti
Lakuuttaro
Nương theo căn bản chọn ngôn,
Pháp lành ban rải phù hộ chúng sanh.
Tâm thành tưởng đến như chầu,
Trước sau chú nguyện chẳng lâu ứng cùng
Nay con lễ vật Phụng cung
Thỉnh cầu cho Đặng theo trung thuật trần.
Cầu xin Tứ Đại Thiên vương
Oai thần chuyển hóa tùy phương giúp thành
Nam mô trì Quốc Thiên Vương
Nam mô tăng trưởng Thiên Vương
Nam mô quảng mục Thiên Vương
Nam mô đa văn Thiên Vương.

Hai tay cầm hai thanh kiếm cổ của ông thay Chàm, thay Bảy bắt và Quyết choc thẳng hai cây kiếm lên Trời hô: Mau. Một tiếng sét vang vọng trong không trung và thật là kỳ lạ, từ trên không trung, xác của cặp rắn Thần bị Chém vụn, rơi lả tả xuống đất.
Từ phía đằng xa đã thấy lố nhố một đám người kéo đến, thì ra là bà Bảy cùng lũ đệ tử sốt ruột đã bất chấp lệnh của ông Bảy, kéo đến trợ chiến. Tất cả cùng thay Chàm đưa lên một cái xe Tà rec có chất cỏ khô để ông thay Chàm nằm cho êm ái. Mọi người phóng hỏa đốt hết căn cứ của lão thay Chà và đem chôn xác Lão ngay bên bờ suối.
Tất cả những chuyện trên, dienbatn lần lượt được nghe bà Bảy, thay Ông Bảy và kể cả ông thay Chàm kể lại những thay Chàm trong ngày dưỡng thương. Chuyện thật là dài và nhiều tình tiết, dienbatn cũng cố gắng dung hình và biên tập lại để các bạn thưởng thức một bản anh hùng ca trong giới Huyền môn Tây Ninh. Khoảng nửa tháng sau ngày từ bệnh viện đa khoa Tây Ninh về, một đàn Tràng cầu siêu cực lớn được dựng lên tại nhà ông thay Bảy. Suốt ba ngày đêm, người ta làm lễ cầu siêu cho vong linh hai mẹ con cô Lan, Vong linh của các tử tù và những cái Thiên Linh là tù binh của lão thay Chàm được sớm siêu sanh tịnh độ.

Om! Amogha Đại Nhật Như Lai Maha-Mudra Mani Padma jvala pravartaya Hum.
Om! Amogha Đại Nhật Như Lai Maha-Mudra Mani Padma jvala pravartaya Hum.
Om! Amogha Đại Nhật Như Lai Maha-Mudra Mani Padma jvala pravartaya hum ....


Lời chú TY Lô Giá na cầu siêu cho các vong linh hồn vang vọng khắp không gian và sau đêm thứ ba, mẹ con cô Lan cùng các tử vong tù đã thoát siêu được.
Cũng trong những ngày này, một lễ nhập môn cho dienbatn được thiết lập. Từ đó là những bước đầu tiên chập chung bước vào cánh cửa Huyền môn của dienbatn làm ba vị ân nhân: Ông bà Bảy Tây Ninh và ông Thầy Chàm hướng dẫn. Xin hồi hướng công đức này cho Thầy Tổ và ba vị Thầy mà dienbatn trọng kính thường.

OM - Samanta - Samanta - VIMANANG - SARA - Maha - CHAC CRA - VAHUM.


Tết năm đó là một cái Tết thật là vui, công ty chúng tôi đã hoàn thành vượt mức kế hoạch, trồng được 1,500 ha, Cao su mới. Các tuyến đường đi Bổ Túc, Suối Ngô, 95, Sóc Con Trăn, lên Rạch Xá, lên Tân Bình, Sa Mát được bộ phận cơ giới chúng tôi làm cho phẳng phiu. Công ty thưởng cho mọi người được thêm lương tháng thứ 13. Tuy lương của người trồng những Cao su không được là bao, nhưng chắc cũng thêm chút thịt cá trong những bữa ăn ngày Tết. Kiên cố chương trình làm nhà cho công nhân Cao su cũng đã thực hiện được một phần. Công ty cấp những bộ cột, kèo nhà bằng bê tông, mái phebro xi măng và làm nền, phần còn lại công nhân tự túc. Từng hàng nhà cấp 4 như vậy đã lần lượt mọc lên tại các Nông trường. Tại Công ty bọn bộ chúng tôi cũng rất phấn khởi tính ăn một cái Tết Rinh rang - Cái Tết đầu tiên mà chúng, tôi ăn Tết tại đất Tây Ninh. Chúng tôi phân công lịch trực ban tại công ty, nhất là Đội xe và đội sửa chữa máy vì ngày tết, tại các vườn ươm giống Cao su, máy bơm vẫn làm việc. Từ ngày nhập môn, tôi luôn cảm thấy thiếu thời gian, ngoài các ngày thường việc tại Công ty, các tối thứ 7 và gần hết ngày Chủ nhật, tôi đều phóng xe sang Châu Thành nhận bài học. Thật tức cười, cả ba vị Thầy của tôi, đều tranh nhau dạy tôi trước, không ai chịu Nhường cho ai. Cuối cùng, tôi và ba vị Thầy thống nhất là tôi đồng thời học cả ba Thay một lúc. Thầy Chàm nhìn tôi Lom Lom rồi gật gù bảo với ông bà Bảy: Tôi ngo coi bộ cái thằng tướng này cũng chơi được đây, nó là thằng Bắc Kỳ chịu chơi, với lại nó có bằng Đại học, lại qua chinh chiến, trông cũng ngu lắm không, thôi thì tất cả chúng mình cùng dạy. Phước nó được đến đâu thì nó được nhờ đến đấy. Chúng ta cứ mỗi tuần một người dạy nó, ưu tiên cho bà Bảy dạy nó tuần đầu tiên. Ông bà Bảy cũng nhất trí như vậy. Nghe nói vậy tôi cũng lo lo vì biết không có học nổi không. Tuy nhiên, đang còn trẻ, máu hiếu thắng nổi lên, tôi nghĩ: Chắc, học Đại học, đến khi thi học kỳ, chỉ có 4 ngày là tôi đã thuộc như cháo cả những cuốn giáo trình Cơ khí dày cop, ăn nhằn gì ba cái lẻ tẻ. Từ ngày đến nhà Thầy Bảy, tôi đã được ngo qua những cuốn vở chép tay của các Đệ Bảy thay tử, có lẽ chúng chỉ khoảng 100 trang là cùng. Thế là tôi chấp nhận học theo cả ba vị thay.

Bà Bảy như phần đầu đã nói, dạy cho tôi các môn chuyên về tấn công như các loại thư, Em và nhất là việc sử dụng độc dược, các cách phòng và chữa trị những loại trên. Pháp môn của Bà thì phần của người Miên, thì phần của Thượng, thì phần của Chà, của Thái, Xiêm ... Theo bà ba, Bua, Chú thực ra là một loại hình tướng có một sức mạnh phi thường. Bua chú được tạo ra nhờ ý chí cao độ và tình cảm bột phát của người thực hiện lúc làm bữa. Ý chí, tư tưởng chính là chiếc chia khóa của Bua chú. Theo cách hiểu của tôi thì việc đó chính là việc người Thầy truyền một nguồn Năng lượng vào những lá Bua. Năng lượng của người Thầy càng cao được tích lũy trong tập luyện quá trình càng mạnh, thì những lá Bua càng linh nghiệm. Trong khi làm Bua, người thầy phải tập trung cao độ, phải dùng nhiều loại thuốc vẽ nhưng thông thường là dùng châu sa hòa vào dầu mè (dầu vừng) để vẽ. Có những loại Bua phải viết bằng máu của chính người thay. Ngoài ra khi vẽ Bua, người ta cũng dùng nhiều loại và chú Ấn quyết kèm theo. Loại nào đi theo bộ đó như bộ ba: Tướng - Sĩ - Tượng, hay bộ Xe-Pháo - Mã vậy. Thông thường Bua được vẽ trên giấy (Trắng, vàng, hồng điều), nhưng khi đã đạt được một trình độ cao hơn, người ta có thể vẽ Bua bằng nhang (gọi là khoán Bua) vào không khí, hoặc dùng ấn họa Bua vào không khí cũng tương tự. Tới đỉnh cao hơn nữa, người ta có thể vẽ Bua bằng mắt, bằng lưỡi. Cách này khiển kẻ địch không kịp trở tay. Còn khi luyện tốt tới cùng, người ta sẽ không họa Bua nữa mà dùng ý để đặt chính xác lá Bua trong tư tưởng vào chỗ cần đặt. Về sau này đi Ta bà, dienbatn thấy một số thay thường dùng những lá Bua ở cấp sẵn cho thân chủ, làm sao mà có được linh nghiệm.


Bua chú là một thứ vũ khí của người xưa để lại, có sức mạnh thật là khủng khiếp. Bua chú có thể hại người và lợi cũng có thể làm cho con người. Bua làm lợi cho mọi người như cầu tài, có thể mua bán đắt, trục người đi xa về, chữa bệnh, trừ Tà, làm cho vợ chồng thương yêu nhau, trấn mồ mả hay cuộc đất xấu, Trần Trung ..... Trong những trường hợp đặc biệt, Bua chú còn có thể dùng để trị trung những kẻ bất lương, độc ác, xảo quyết, khi mà vì một lý do nào đấy, Pháp luật không thể động tới hắn. Lúc này cách trung trị duy nhất có lẽ là Bua chú của Huyền môn.


Thường những Thay Bua phải luôn luôn luyện tập để nâng cao trường Khí của mình, nâng cao nguồn năng lượng nội lực để những lá Bua ngày càng linh nghiệm. Khi luyện Bua là không phải không có mặt trái của nó, khi thay lười biếng luyện tập, không đủ lực hay năng lượng (do tình dục và rượu chè quá độ), hoặc là vận số Thay quá kém, những lá Bua có thể quật ngược trở lại như những lực phản lực. Lúc đó, nhẹ thì Thầy ốm Liềng Xieng, nặng thì Hộc máu mồm chết tại chỗ.


Việc hóa giải Bua, thư, em cũng tương tự như khi người ta thực hiện vẽ Bua. Tức là cũng phải cấp cho những lá Bua giải một nguồn năng lượng và phải mạnh hơn khi vô bữa. Điều đó có nghĩa là người có khả năng hóa giải những loại Bua ác, phải có công lực cao hơn người Thay đi hại người. Như vậy đồng nghĩa với việc: Không phải Thầy nào cũng được giải Bua của người khác. Người yếu hơn công lực mà dám hóa giải Bua của người công lực cao hơn thì hậu quả thật khó lượng. Khi hóa giải Bua ác, thay vì những ý nhĩ đen tối, xấu xa, độc ác được đưa vào lúc Thay Bua làm ác, người Thay thiện phải phóng Tâm của mình vào lá Bua với ý nghĩ Từ bi, Bác ái, Tình thương bao la cao độ. Hai chiều ngược nhau của tư tưởng Thiện - Ác sẽ hóa giải nhau như nước với lửa.


Khi chữa bệnh cũng vậy, Bà Bảy chỉ cho tôi nhận biết và phân biệt các sắc Khí trên đầu bệnh nhân. Thường những bệnh nhân trúng thư, ma hay thuốc, Tà nhập, trên đỉnh đầu thường có những luồng Khí màu đen kit như lúc khói xe ô tô bị sa lày. Khi ta phát công lực, tức là truyền Năng lượng vào với tất cả lòng bao dung, bác ái và tình thương mênh mông, cái luồng Khí đen đó từ từ trở thành sắc tía, cuối cùng là một quả cầu sắc trắng tự xoay quanh đầu người bệnh, lúc đó bệnh đã khỏi hẳn. Mỗi một lần chữa trị như vậy, người thầy phải chấp nhận Tổn hao rất nhiều năng lượng, khiển cho người mệt lả.


Như vậy ta biết rằng, Bua Bua Thiện hay ác chỉ cách nhau một ranh giới thật mong manh. Tất cả đều do tư tưởng và năng lượng của người luyện Bua. Bua chú như là một loại vũ khí, dùng bảo vệ Tổ Quốc hay là dùng đi ăn cướp cũng đều là do tâm ý của con người.


Bà Bảy rất tận tình chỉ bảo cho tôi trong những bước đầu chập chung vào Huyền môn. Những điều đối với tôi tưởng như rất dễ, hóa ra thật là khó. Những câu chú bằng tiếng Pali tưởng như đơn giản lại cực kỳ khó thuộc, nhưng chữ Bua trông loãng ngoằng thế mà khó ra phết. Phải vẽ những chữ Bua như thế nào để chúng có hồn và gần như là chúng là một sinh vật sống thật vậy. Phải nói thật là nhiều lúc tôi phải nghi ngờ cái IQ của mình, sao mà dột thế, học mãi mà không thuộc. Những hàng chữ Pali luôn đeo đuổi, theo cả vào trong những giấc ngủ của tôi. Bắt chước người xưa học chữ Hán, ở đâu tôi cũng có thể vẽ Bua được, trên đất, trên nước, trên không khí, ngay cả trên lòng bàn tay mình tôi cũng không tha. Một thời gian sau, tôi mới dần dần quen được với chúng. Khi đã quen rồi thì bắt đầu thấy mê, tôi luôn thúc dục bà Bảy cho thêm bài mới. Những lúc rảnh roi, ngồi một mình, tôi nhớ lại những lời của bà Bảy đã dạy và tự suy luận theo hiểu biết riêng của mình. Theo tôi, mọi thứ Bua, Thư, em, Lời nguyền đều có chung một bản chất là những sóng điện từ và là những vùng tập trung năng lượng. Năng lượng này tốt hay xấu, giết người hay cứu người đều do cái Tâm của người thực hiện.

Thực ra, trong cuộc sống của chúng ta nhiều người vô tình làm chuyện thư, người khác mà em biết không. Tôi xin dẫn ra đây một vài ví dụ: Người đầu bếp, nhất là phụ nữ khi nấu cơm nước cho chồng con ăn, tinh thần phải thực là vui vẻ, sáng khoái, có như vậy thức ăn được nấu mới ngon và bổ. Ngược lại, khi đang lúc bực bội, không vừa ý trong lòng, hoặc đang thù ghét ai, vô tình khi nấu, tất cả các năng lượng xấu do những cơn tức giận, buồn chán nhập cả vào thức ăn. Lúc đó thức ăn sẽ trở thành thuốc độc. Hoặc có người thù hận người khác, không đủ sức để đánh lại người ta, suốt ngày ngồi nhà nguyền rửa kẻ thù của mình, một thời gian sau kẻ thù bị tai nạn hay chết thật. Tất cả những trường hợp đó là do bộ não con người vì lòng hận thù, bực tức phát ra những nguồn năng lượng xấu, có thể làm hại người khác.
Có một câu chuyện tôi đã nghe ở đâu đó về người thợ rèn. Câu chuyện như sau: "Có một chàng trai ở xa đến, làm quen và yêu cô con gái của bác thợ rèn Sau một thời gian, cô gái con bác thợ. Rèn đó có Thái Thấy vậy,. Chàng kia liền tìm cách quất ngựa truy phong Cô gái. buồn lắm, khóc suốt ngày, bỏ cả ăn ngủ Bác thợ. rèn hận chàng trai kia lắm, trong việc làm lúc, bác quai búa mà ta cứ tưởng tượng ra cái đầu kia của chàng Mỗi nhát. búa gõ xuống, bác lại cộng thêm một câu rửa độc Ở địa phương xa,. chàng trai kia tự nhiên đau đầu như búa bổ, đau đến không chịu nổi Bệnh của chàng ta mỗi nặng một ngày Khi chàng. trai sắp chết, người. nhà mới đi coi bói và biết rõ nguyên nhân vì đâu. Cha mẹ chàng trai kia mới vội vàng sắm sửa lễ vật đến nhà bác thợ rèn ta xin lỗi và xin cưới cô gái Từ đó., căn bệnh của chàng trai giảm dần Thuyên rồi khỏi hẳn "dienbatn. chỉ nhớ đại khái như vậy, song sự thù hận của con người có thể biến cốc nước lạnh bình thường trở thành thuốc độc là hoàn toàn có thật. Do vậy, khuyên các bà nội trợ, khi thấy trong người không được thoải mái về tinh thần hay đang có chuyện buồn phiền, xin đừng làm cho cơm gia đình keo lại lợi bất cập hại.
Nhân chuyện về Thư, em là Pháp môn của bà Bảy, về sau này, dienbatn được Thay Sương Mãn Thiên có chỉ rõ như sau:
"Nói chung người Trung hoa, người Việt, Miên, Lào, Chàm, Thượng ... và hầu hết các dân tộc trên Thế giới đều có thực hiện những việc này.Mục đích là chủ ý làm hại một người khác mà mình không ưa, cũng có một số người vì danh, lợi mà đi hại người khác.
Người TQ thường sử dụng những hình nhân bằng vải hay gỗ, ghi tên người cần hại, dán vào đó một lá Bua và đọc Thần chú để cho người bị hại đau bệnh hay chết.Có một số trường hợp người ta dùng cung dâu, bắn vào hình nhân, dùng kim đâm vào tim của hình nhân và nhỏ vào đó các giọt máu.
Một cách khác là họ chọn thời gian nửa đêm, các giờ Sát tử, giờ Trung tang liên táng mà kêu tên tuổi của người cần hại, rồi đọc chú sai những Linh hồn vất vương mà họ đã luyện phép đi hại người.
Trong các nghề, có nghề thợ mộc cũng hay dùng em cách nhà của người ta.Khi gặp chủ nhà nào đối xử tốt không, họ dùng cách đeo lộn đầu kèo nhà, vẽ hình nhân trên đầu cột cái, hoặc đóng đinh vào trên đấu cột cái.
Người Chàm em thường dùng là cách dùng một mảnh giấy đỏ, viết tên tuổi kẻ định hại và đặt dưới chân ông Táo sau đó đọc câu Thần chú nhất định.Người sẽ bị em cảm thấy nóng này, điên cuồng mà chết.Người Việt thi đơn giản hơn là dùng ngay hinh ảnh của kẻ đó mà đọc chú và yếm dưới chân ông Táo.Ngoài ra con người Chàm cách dùng: Lấy hình của kẻ em can, nhét vào bụng một con cá lóc và đọc chú rồi đem thả xuống sông.
Bất cứ Môn phái nào cũng có cách em đối, trù rửa của họ, chuyện thiện làm thì cần công sức nhoc thân chứ chuyện ác thì dễ lắm, cứu người thì khó mà hại người thi dễ quá cũng như xây cái nhà lên thi Tốn thời gian chứ đập nó xuống thi chỉ Tic Tac thôi, vì Hưng thần lúc nào cũng ở gần ta hơn Phúc, Hỷ thần ..
Phái hội (Lâm ấp, Chiêm thành) ở Phan Rang, Phan Rí vv .. có môn em rất ghê rộn và linh nghiệm, khi muốn giết hết nhà người nào đó thì họ đếm coi bao nhiêu người trong nhà tất cả? sau đó chang vàng tối họ ra rừng kiếm 1 nhánh cây có số lá tương xứng với số đó có người nhà, sau đó cầm nhánh cây đó hướng về hướng nhà kẻ thù có cùng họ đó mà niệm chú nguyền rửa bằng những lời vô cùng độc địa, tàn khốc 7 lần hoặc 9 lần rồi Nín thở dùng tay tuột đó trên lá cây nhanh, bao nhiêu cái lá rụng là bay nhiêu người chết, nếu rụng là hết không còn người nào sống sót.
Phái Lổ ban sát thần phù khi muon em chết (tử sát em) thi ông thầy đó phải cắt lấy máu mình vẽ bữa, rồi chôn trước nhà người đó hay em vô họng kèo, đơn vòng vv .. hoặc kiếm cách nhét dấu kín trong nhà.
"Về phần thư, thuốc đa số người Miên (kho-me krom) và Chà châu giang ở miền tây và miệt 7 núi đều tinh thâm, ở miệt Thất sơn từ núi Bà (núi Sam) qua ông Cấm, ông Tô, núi Tượng, núi Dài vv ..... Tri tôn, và tấn Xà tiên xuống cả Hà miền, Lục sơn qua Miên đều có sử dụng.
Bua phép của người Khơ-me dùng tiếng Nam Phan (pali) bắt nguồn từ miền Nam Ấn độ, làm ảnh hưởng du nhập của Phật giáo nguyên thủy giống như các nước lân bang: Lào, Thái, Tích lan vv .. và cộng thêm tín ngưỡng balamôn giáo thời các vương quốc Phù Nam, Champa nên huyền thuật của họ rất đa dạng, kỳ bí và lắm tông nhiều phái được người Miên gọi chung nôm na là BÀLÂY (pali) Những chuyện như: nuôi 1 cái râu cọp cắm măng vào mục trong khắp da bò chôn dưới đất thời gian sau vài tuần sẽ biến thành con sâu rồi lấy nó làm phân thuốc độc, hoặc lấy 3 con hơn lan đục thân cây đu đủ bỏ vào đọc thần chú nhét lại thân cây sau 100 ngày đến lấy tán bột phơi khô dùng làm thuốc độc giết người trong vô sắc vô vị quả là có thật, và còn nhiều và rất nhiều cách thức trong thiên nhiên có thể giết người cũng như cứu người, có người còn sai được con ruồi, lan xanh chân tẩm độc dược bay đến nhà kẻ minh muốn giết mà đậu vào đồ ăn mà đầu độc kẻ ấy vv ..
Còn rất nhiều loại khác như: Bua thương thi các phái đều như nhau Chà, Miên, Xiêm, Mẹ sanh, Lổ ban, Lào, Mới, Hội (Chăm pa) đều có phép thương và bí phương bản môn tu luyện, ông thầy nào chịu khổ luyện thi sắc, ví dụ như bữa thương phái Chà luyện 100 ngày, sau đó dùng lưỡi họa bóng vô tay đến nắm tay cô nào thì cô say đắm đó mà theo, nếu luyện cao hơn nữa chỉ cần vẽ vô giấy vo lại Liềng thì trúng nàng nàng nào đó cũng cuốn gói đi theo luôn, con bữa thương phái Mẹ sanh luyện 100 ngày đọc vuốt con gà mái đang ấp mê ổ cũng chạy theo mình (huống gi con gái). "
Tuy nhiên, theo bà Bảy, không phải ai cũng chịu ảnh hưởng của các việc Thư, Trù, em. Những người có chân mạng là vĩ nhân, những người tu hành Đạo cao đức trọng, những người thật thà lương thiện có bầu Phước lớn thì mọi việc Thư, Trù, em đều không có kết quả. Người bình thường, vốn trong Nghiệp - Duyên đã có cái kết cục vay - trả thì việc bị trúng những cái đó cũng là một cách phải trả nghiệp. Còn những người tu hành Đạo cao đức trọng, những người thật thà lương thiện có lớn bầu Phước, người có chân mạng là vĩ nhân ... thường là có Long Thần Hộ Pháp đi theo hộ trì. Lúc đó, tác hại độc ác của Thư, Trù, nem em giống như một quả bóng vào bức tường, phản lực sẽ khiển quả bóng bật ngược trở lại, nếu nem lực mạnh phản càng mạnh sẽ. Lúc đó người lãnh hậu quả lại chính là người thực hiện các việc xấu trên.
Với Dù ai đi cũng vậy, cái chữ Nghiệp - Duyên luôn luôn theo đuổi trong suốt cuộc đời và vô vàn kiếp về sau này. Gieo gió thì phải gạt bão. Người có tâm địa làm điều ác, trước sau cũng phải gánh chịu những hậu quả do mình gây ra. Và cái lãi suất phải chịu đựng khi vay để làm ác thật là kinh khủng. Có thể không chỉ riêng người đó, mà nhiều khi cả con cháu, dòng họ của người đó cũng phải chịu sự trả Quả một cách thê thảm. Lưới Trời thưa nhưng không thể thoát được. Có thể những việc làm ác của mình không ai biết được, nhưng có Trời - Đất và vô số các cảnh giới khác đều biết, làm sao chạy được đây????

"Sống là động mà không xảo động.

Sống là thương lòng mà chẳng vương vấn.
Sống hiên ngang danh lợi chẳng màng,
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. "
(Bảng thư pháp của TUE CHIẾU).


Ngày Giỗ Tổ của môn phái sát vào dịp Tết Nguyên Đán. Cách Ngày giờ cả ngày chức, đám Đệ tử của ông bà Bảy đã lục tục kéo về. Người nào người ấy tay sách nách mang đủ thứ đồ lễ, chất gần kín cả một căn phòng. Những người hàm ơn cứu mạng của ông, bà Bảy từ khắp các tỉnh thành cũng kéo về đông như hội khay. Lúc này, tất cả các cây cột trong nhà đều kín giang những tấm võng dù, la liệt. Người ta phải chôn ngoài vườn thêm những cây cột để thêm mắc võng mà vẫn còn thiếu. Những người đến sau phải sang đậu ở những nhà kế bên. Gần Tết, lại đang vào mùa khô, Tây Ninh nắng chang chang như đổ lửa. Từng nhánh điều nặng trìu những chùm quả đỏ chót lúc líu trên cành đưa đúng theo những cơn gió. Người ta dựng tạm một lan can bằng khung tre và những tấm lợp lên tăng khách để làm tiếp chỗ. Chỉ những dịp như thế này, người ta mới có thể đánh giá hết những công đức mà ông, bà Bảy hành thiện trong suốt năm qua những. Đang lui cui kê những chiếc bàn tròn trong lan để làm chỗ đãi tiệc, bỗng nghe thay Bảy cao giọng: Hòa ơi, lên đây Thay biểu. Tôi ngơ ngạc một chút mới biết là thay Bảy gọi mình. Nhớ lại ngày đầu nhập môn, thay Bảy đặt cho tôi cái tên theo họ của Thầy là: Lê Văn Hòa. Thầy bảo tôi: Tao thấy ánh mắt của mày còn nhiều sát Khí lắm, mày cũng gặp gì hung hăng, nông nổi là dễ thất bại ơi con lắm. Ta đặt tên cho con Hòa là luôn muốn con lấy hòa đầu làm hoàn. Phải biết Nhịn con ạ. Tôi nghe Thầy kêu vội chạy lên trên nhà, thấy ông, bà Bảy và Thầy Chàm, cùng trưởng Tràng vị đang ngồi bàn tính. Thì ra họ đang lên kế hoạch mời khách trong dịp Giỗ Tổ. Thấy tôi lên, Thầy Bảy bảo tôi cùng ông và vị trưởng Tràng đi mời các vị trưởng môn trong ngày vùng nhân về Giỗ Tổ của ông.

Chúng tôi cùng lên chiếc Zeep lùn tôi chạy từ Công ty sang từ sớm. Ông Bảy và vị trưởng Tràng xung xinh trong bộ quần áo vạt hò mới cáo, cứ thấy ngưỡng ấy ngưỡng thế nào. Bình thường, tôi chỉ thấy ông bận có cái quần xà lớn màu nâu muôn thừa, nay thấy ông bận đồ lớn tôi chợt bật cười. Ông Bảy cũng như hiểu ý tôi, chỉ lầm bấm trong miệng: Thằng mắc dịch, cười chi mà cười. Thế là tất cả cùng phá lên cười như nac ne.
Nơi chúng tôi ghé đầu tiên là Miếu thờ Quan lớn Trà Vong tại Suối Vàng, ngay chân của Núi Bà Tây Ninh. Tại Tây Ninh có nhiều nơi lập Miếu thờ Quan lớn Trà Vong. Tham khảo các sách viết về Tây Ninh thấy viết như sau: Ngôi mộ ông Huỳnh Công Giản (tức Quan Lớn Trà Vong) được nhân dân chôn cất tại ấp Trà Hiệp xã Trà Vong, Tân Biên. Đền thờ ông được nhân dân xây dựng ở nhiều nơi như: Tân Phong, Trà Vong (Tân Biên), Cay Xieng, Đồng Khởi (Châu Thành), Thái Vĩnh Đông, Phường I (Thị xã), Thạnh Tân (Hoà Thành) . Huỳnh Công Giản là một vị võ quan có tài, quê ở làng Nhật Tảo. Năm 1749 (Kỷ Tỵ), Triều đình Huế cử ba anh em nhà họ Huỳnh: Huỳnh Công Giản, Huỳnh Công Thắng, và Huỳnh Công Nghệ là các quan đại thần vào trấn Nhậm vùng đất Tây Ninh. Ba ông cùng với đội binh mã của Triều đình thực hiện việc di dân khai hoang lập ấp và giữ gìn an ninh ở vùng đất biên cương.
Vùng Tây Ninh vào thế kỉ 17 còn hoang vu, người Miên đến đây đầu tiên, sau người Việt đến. Cao Miên lúc đó còn là thuộc địa của Xiêm, họ không chỉ thích chung với người Việt. Do đó, họ nổi dậy đánh nhau với người Việt nhiều lần giữa thế kỉ 17. Lúc đó, đền đài của vua Miên là Nạc Ông Chân đóng tại xã Thanh Điền (huyện Châu Thành), gần ngọn Rạch Tây Ninh ngày nay, dân chúng địa phương quen gọi là Phủ Cũ. Sau nhiều lần đánh, quân Miên đã bị đẩy lui.

Huỳnh Công Giản đã cùng em trai là Huỳnh Công Nghệ lập căn cứ kháng Miên, đóng đồn tại Bến Thứ, Rạch gần ngọn Sóc Om (xã Hảo Đước, huyện Châu Thành). Ông chiếm một cánh đồng rộng cứ gọi là đồn Trà Vong (xã Thái Bình). Bờ thành vô cùng kiên cố. Bây giờ, những trận đụng độ giữa người Việt và Miên diễn ra kéo dài suốt mấy mươi năm với vũ khí rất thô sơ: guom, đao, giáo Mác, cung tên.
Một buổi sáng, quân Miên dùng chiến thuật biển người ồ tấn công tại đồn Trà Vọng. Bị tấn công bốn mặt nhưng quân của ông Huỳnh Công Giản cũng kịp thời phản công mạnh liệt. Tuy nhiên, vì quân địch quá đông, ông đã cho quân liên lạc với Huỳnh Công Nghệ kêu viện binh. Huỳnh Công Giản tướng tả xung hữu đột dưới vòng vây của kẻ địch. Khi ông đã thấm mệt, nhìn lại thì số quân sĩ hi sinh quá nhiều, trong lúc viện binh chưa đến kịp. Ông chiến vung guom tử cùng quân Miên đến lúc kiệt sức rồi quay guom tự cắt đầu tuần tiết.


Đền ở Suối Vàng (huyện Hòa Thành)



Đây là khu lòng chảo nằm sát chân núi Bà Đen, tương truyền đây là nơi tập luyện tập binh mã ngày xưa của Quan Lớn Trà Vong.

Đền xây dựng khá lâu, đến năm 1995 để mở rộng lộ giới tỉnh lộ 4, nhân dân địa phương đã xây dựng ngôi đền mới khang trang tường gạch, cột bê tông, mái lợp ngói, kiến trúc theo hình chữ tam. Đây là ngôi đền ông lớn Trà Vong lớn nhất hiện nay so với các đền hiện hữu thờ ông lớn Trà Vong trên đất Tây Ninh.
Ngoài ra còn có các đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ và ông Huỳnh Công Thắng ở những nơi khác.

Tại Vàm Bảo, Bến Thứ Rạch Vịnh xã Hảo Đước, huyện Châu Thành có mộ và đền thờ ông Huỳnh Công Nghệ nằm cạnh khu dân cư thưa thớt hiện đang xuống cấp nặng. Tại thành Bảo Quang Hoá, xã Cẩm Giang, Gò Dầu có ngôi đền thờ ông Huỳnh Công Thắng. Ngôi đền kiến trúc hai lớp hình chữ nhị, tường gạch, mái lợp ngói có diện tích 8 m × 16 m. Trong đền thờ bài vị và tượng Huỳnh Công Thắng.


Trên vùng đất phía Tây Bắc Tây Ninh nhân dân xây dựng nhiều đền thờ Quan Lớn Trà Vong. Tuy nhiên, do chiến tranh kéo dài nên nhiều ngôi đền bị tàn phá mà nhân dân chưa có điều kiện xây dựng lại.
Hàng năm vào các ngày 16 và 17 tháng 3 âm lịch tại các đền nhân dân địa phương tổ chức lễ cúng tưởng nhớ đến ông lớn Trà Vong rất trang trọng. Nhiều nơi tổ chức cả hát bội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

Theo Thầy Bảy cho biết, tại những nơi có đền thờ Quan lớn Trà Vong, các cao thủ của các môn phái hay về tụ tập rất đông, vừa là lấy chốn nương thân, vừa là nơi họ tu luyện và truyền Pháp cho nhau. Chúng tôi đến nơi đã thấy rất nhiều người đang hành lễ tại đây. Thay bảy biểu chúng tôi mang đồ lễ vào ban thờ trên bày và Quỳ tại hàng cuối cùng hành lễ cùng mọi người. Mãi hơn một tiếng sau, việc hành lễ mới chấm DUT, tất cả ra ngoài hàng ba ngồi uống nước. Thấy cái mặt tôi lạ hoặc, mọi người nhào nhào hỏi ông Bảy. Bây giờ ông mới Thay Bảy Điềm nhiên bảo: Cái thằng đó là thằng con nuôi của bà nhà tôi. Chỉ mới nghe đến đó, tôi thấy mấy cậu thanh niên trac tuổi tôi nhấm nháy nhau và một cậu bưng ra cho tôi một tô chè nấu bằng mè đen. Đang vừa đói vừa khát, thấy tô chè thơm phức, tôi Điềm nhiên làm một cái đánh xoạt hết nhẵn. Chỉ sau khi tất cả tô chè vào tới dạ dày tôi mới chú ý cái nhìn cau có của Thầy Bảy và cái ngón tay ngoắc ngoắc của anh trưởng trang. Không hiểu mọi người muốn nói gì, vả lại không tiện hỏi trong đám đông, tôi ra xe, bật ghế nằm chờ. Chỉ độ 15 phút sau, tôi bất thần thấy người choáng váng và cha mẹ ơi, đau bụng thì quan và sôi như một cái Lẩu. Vớ một tờ báo trên xe, tôi phóng như bay vào một bụi cây gần đó và gần như tích tắc, Xô Viết gần như hết tất cả chứa những chất lỏng dựng trong người. Miệng nôn, chôn tháo, tôi gần như muốn ngất đi xíu. Cố lê về đến xe, tôi nằm thiếp đi giữa trời nắng chang chơi. Khi đầu óc bắt đầu hoạt động lại, tôi mới hiểu thái độ của Thầy Bảy và anh trưởng trang. Thì ra, nghe tôi là con nuôi của bà Bảy, một cao thủ chuyên về hạ độc, mọi người đùa rộn muốn thử tài tôi. Nhớ lại những gì bà Bảy đã dạy, tôi đoán chắc họ cho tôi ăn chè có pha nước của lá cây Dầu Bóng. Dầu Bóng loại cây này mà ăn phải một chút nước vắt ra từ lá của nó sẽ bị Tao Thao đuổi chạy không kịp. Lục tìm trong chiếc ba lô để trên xe, tôi lấy ra hai cái lọ nhỏ xíu mà bà Bảy đưa cho từ trước để phòng hờ. Một chiếc màu xanh lá cây, tôi trút cả vào miệng. Khi chất lỏng vừa qua khỏi cổ, một làn hơi ấm từ Huyet Đan Điền bốc lên, nóng và rực ngay lập tức cơn đau biến mất. Ngồi điều Khí một lúc, thấy vòng Châu Thiên vẫn hoạt động chu Chơn, tôi mới thở đánh phào một cái. Máy vẫn chạy tốt. Tuy nhiên, cái điều mà mấy cậu thanh niên gây ra cho tôi thì không thể tha thứ được, mặc dù biết họ chỉ đùa và muốn thử tài học trò của bà Bảy theo thói quen trên giang hồ. Lại khắp nước mưa mục một chén đầy nước, bộ ván bưng ra mấy cậu thanh niên ban độ này đang ngồi uống nước, tôi cố làm ra vẻ từ Tốn và nói: Tôi mới nhập môn, chưa có học hành chi cả. Cảm ơn các anh đã mời tôi chén chè vừa rồi. Nay lấy nước thay rượu, xin các anh uống với một chén nước gọi là làm quen.
Từ lệnh cấm này, tôi đã lấy móng ngón tay út NHÚNG vào lọ chất lỏng màu trong vắt mà bà Bảy đã đưa. Lúc để chén nước trước mặt mấy cậu thanh niên, tôi dùng móng tay ngón út đó vạch một đường ngang qua bát nước đó. Thật kỳ lạ, chén nước trong vắt là vậy, bây giờ một bên đỏ như máu, một bên vàng như mật ong. Tôi nâng chén nước mời lại câu lệnh cấm thanh niên độ này đưa chén chè cho tôi. Lúc này mặt cậu ta tái dại và củi xuống luống cuong. Các cậu khác nhìn vào chén nước màu hai người nào người đó sung sờ. Lúc này, đám người lớn mới để ý và lần lượt kéo sang xem chúng tôi tỷ thí. Tôi bảo cậu thanh niên, tôi mời cậu uống trước, cậu muốn uống nửa nào cũng được, còn lại bi nhiêu tôi xin cạn chén. Sở dĩ tôi dám làm vậy là tôi đã có uống thuốc giải trước mà bà Bảy đã cho. Lúc này thấy phần thắng đã nghiêng về mình tôi hết sức khoan khoái. Đám người già bên ngoài xì Sầm về sự tuyệt độc ngón nghề của bà Bảy. Mọi người thấy vậy lo lắng ra mặt. Bình thường, nếu chỉ là chơi đùa thì không nói làm gì, nhưng ở đây là sự hơn thua, cao thấp giữa các môn phái nên tất cả đều phải cẩn trọng. Danh dự của môn phái là cao hơn hết, thậm chí có phải chết, người ta cũng phải bảo vệ danh dự của môn phái mình. Tuổi trẻ, Ngồng cuồng, vô tình tôi đã đẩy các môn phái khác vào thế phải mất mặt. Từ nay, Thầy Bảy vẫn giả tảng ngồi uống nước, bây giờ vội đến bên tôi vờ giả lả: Cái thằng nhóc này, bày đặt làm cái trò ảo thuật làm chi cho anh em sợ. Nói rồi, ông bụng tiếng đánh một tách từ hai ngón tay, cái chén nước bể ra làm đôi, chất lỏng trong chén chảy ra ngoài đất bốc lên một làn khói xanh cho phép. Tôi nhìn thấy rất rõ những cái rung mình của mọi người. Thật ra, động tác của Thầy Bảy đơn giản nhưng một phát tên bắn trúng hai cái đích. Thứ nhất là tránh cho các môn phái khác khỏi cái thế mất mặt bầu cua, thứ hai là nâng cao uy tín của bà Bảy. Một thằng nhóc mới nhập môn như tôi đã thế, nếu gặp phải bà Bảy thì còn đến nước nào .... Tất cả gần như thở phào nhẹ nhóm và tôi thấy trong ánh mắt mọi người một sự trọng thị thấy rõ. Mọi người lại quay về chỗ của mình. Tôi ra ngoài xe nằm, kệ để cho thấy Bảy và trưởng anh trang ở trong mời mọi người đến ăn Giỗ Tổ. Ngồi ngoài xe, tôi lâng lâng như vừa mới uống rượu. Lần đầu ra quân toàn thắng, tôi đã tự khẳng định mình được trước cả đám quần hùng. Bây giờ mỗi khi ngồi nhớ lại, tôi thấy thật mắc cỡ cho cái tính hiếu thắng của mình ngày ấy.

Sưu tầm từ Blog của Huynh Điện Bà Tây Ninh

http://dienbatnblog.blogspot.com/2010/03/cuoc-chien-giua-cac-phap-su-va-hai-coi_05.html

http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn?l=f&id=16

Thay mặt đọc giả , cám ơn công sức của Huynh ....để có bài viết quý giá nầy về huyền môn , để làm hành trang cho tất cả những người ái hữu huyền môn Việt Nam trên toàn thế giới .

Ánh Sáng – T2 – Úc Châu
Kính bái
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM   NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
NHỮNG KINH NGHIỆM HUYỀN MÔN VIỆT NAM
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» KINH NGHIỆM TẬP DỊCH CÂN KINH
» NHỮNG ẨN NGHĨA TINH HOA TIỀM ẨN TRONG KINH THÁNH hay GIẢI MẢ KINH THÁNH .( Tiếng Anh ).
» HUYỀN ĐÀM BÙA NGẢI VIỆT NAM
» VÔ TỰ ChÂN KINH - HUYỀN BÍ HỌC - CON ĐƯỜNG TÂM LINH
» NHỮNG ĐIỀM HAY NHỮNG HIỆN TƯỢNG TIÊN ĐOÁN TRƯỚC CÁI CHẾT SẺ ĐẾN CHO MỘT NGƯỜI

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CỘNG ĐỒNG TÂM LINH VÀ HẠNH PHÚC CỦA TOÀN THỂ NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN TOÀN THẾ GIỚI . :: Your first category :: CHUYÊN ĐỀ VỀ TÂM LINH - NGOẠI CẢM - HUYỀN BÍ HỌC - HUYỀN THUẬT . :: KỂ LẠI KINH NGHIỆM TÂM LINH CỦA MỌI HÀNH GIẢ TÂM LINH ...-
Chuyển đến