THUẬT ĐỒNG CỐT
Một người đồng cốt là một người có cơ thể được tổ chức bất bình thường sao cho Thể Phách và Thể Xác dễ dàng tách rời ra khỏi nhau. Khi bị trục xuất ra thì Thể Phách phần lớn là cung cấp cơ sở vật lý cho “sự hiện hình”.
Những hình dáng hiện ra như thế thường được hạn chế ngay ở lân cận người đồng cốt, vật chất cấu tạo thành chúng chịu một sức hút thường xuyên lôi kéo nó trở lại cơ thể phát xuất ra nó, sao cho nó nếu bị giữ cách quá xa người đồng cốt thì hình thể ấy sẽ suy sụp, vật chất cấu tạo thành nó ngay tức khắc dội trở về nguồn gốc.
Những hình thể như vậy chỉ có thể tồn tại trong vài phút giây ngắn ngủi ở giữa những rung động mãnh liệt của ánh sáng chói chang.
Tình trạng đồng cốt nói chung là nguy hiểm và may thay tương đối hiếm hoi: nó làm nảy sinh ra sự căng thẳng thần kinh và rối loạn ghê gớm. Khi Thể Phách bị trục xuất thì Thể Phách bị xé toạc ra làm đôi, toàn bộ Thể Phách không thể bị tách rời khỏi xác phàm mà không gây ra sự chết, bởi vì Sinh Lực tức Prana không thể lưu hành nếu không có chất dĩ thái. Ngay cả việc Thể Phách bị triệt thoái một phần cũng tạo ra cho thể xác sự hôn thụy và hầu như tạm ngưng các hoạt động mang tính sống còn: tình huống nguy hiểm này thường được nối tiếp theo sau bằng sự kiệt quệ tột độ. (Xem Chương I trang 5).
Sự cạn kiệt khủng khiếp về sinh khí do phương tiện giúp cho Prana lưu hành bị triệt thoái chính là lý do khiến các đồng cốt thường xuyên ở trạng thái suy sụp sau mỗi buổi lên đồng mà cũng như lý do biết bao nhiêu người đồng cốt rốt cuộc trở nên kẻ nghiện rượu; chất kích thích ấy được hấp thụ vào để thỏa mãn lòng khao khát khủng khiếp được trợ lực do đột ngột bị mất sức.
Ở trang 41 của tác phẩm Những Cuộc Khảo Cứu, ngài William Crookes có viết: “Sau khi chứng kiến tình trạng khốn khổ kiệt quệ thể xác và thần kinh mà một số cuộc thí nghiệm đối với ông Home đã để lại di chứng nơi ông – sau khi thấy ông nằm mọp trong tình trạng hầu như là ngất xỉu trên sàn nhà, xanh mét và không nói được nên lời – thì tôi hầu như chẳng còn nghi ngờ gì nữa là sự tiến triển của cái lực thông linh ấy có kèm theo sự bòn rút sinh lực tương ứng”.
Tình hình này gần giống như tình trạng sốc tiếp theo sau một cuộc giải phẫu.
Trong một buổi lên đồng Thần linh học, nhà thần nhãn có thể thấy Thể Phách thường rịn ra từ phía bên trái của người đồng cốt, mặc dù đôi khi từ khắp cả bề mặt trên cơ thể, và chính thứ này thường xuất hiện thành “vong linh hiện hình”, dễ bị uốn nắn bởi tư tưởng của người đồng cốt thành ra đủ thứ hình dạng và có được sức mạnh cũng như sinh lực khi người đồng cốt đắm chìm vào sự xuất thần sâu. Dĩ nhiên thì điều này thường xảy ra mà không có bất kỳ nỗ lực hữu thức nào về phần người lên đồng; tuy nhiên nó có thể được thành tựu một cách cố ý. Vì thế, H. P. Blavatsky đã phát biểu rằng trong các hiện tượng lạ đáng chú ý ở nông trại Eddy, bà đã cố tình uốn nắn hình dạng “vong linh” xuất hiện thành đủ thứ hình dáng mà những người ngồi đồng có mặt nhìn thấy được.
Mặc dù vật chất dĩ thái được uốn nắn thành các hình dạng “vong linh” như thế vốn vô hình đối với mắt phàm; tuy nhiên nó có thể ảnh hưởng tới kính ảnh (photographic plate), kính ảnh bén nhạy đối với một vài bước sóng mà mắt người không chịu ảnh hưởng. Đây là cơ sở lý luận của nhiều trưởng hợp được ghi chép lại khi “hình dáng các vong linh” xuất hiện trên âm bản của một bức ảnh chân dung thông thường.
Hơn nữa, xét về vật chất thuộc Thể Phách của người đồng cốt thì trong các buổi lên đồng thường xảy ra việc vật chất dĩ thái cũng bị rút ra khỏi cơ thể của người người đồng: vì thế cho nên những người tham gia buổi lên đồng thường cảm thấy mệt mỏi.
Chỉ trong tình huống hoàn toàn thụ động thì người ta mới có thể rút ra nhiều vật chất từ thể xác mà không gây nguy hiểm cho tính mạng. Mặc dù người đồng cốt lúc nào cũng có ý thức xét về bối cảnh, thế nhưng bất kỳ toan tính nào nhằm khẳng định cá tính hoặc suy nghĩ mạch lạc đều tức khắc làm yếu đi hình dạng đã hiện hình hoặc khiến cho nó bị lùi về “phòng kín”. Một sự xúc động đột ngột hoặc xáo trộn hoặc bất kỳ toan tính nào nhằm chụp lấy “hình dáng của vong linh” thường gây ra nguy hiểm ở mức cao nhất hoặc thậm chí có thể gây chết người.
Ngoài việc phóng xuất chất dĩ thái, trong nhiều trường hợp vật chất của xác phàm có lẽ chủ yếu là chất khí và chất lỏng đồng thời cũng bị lấy ra khỏi cơ thể của người đồng cốt. Có nhiều trường hợp được ghi chép lại khi trong lúc hiện hình, cơ thể của người đồng cốt nhăn nhúm lại thấy rõ, nghe đâu dáng vẻ co quắp nhăn nheo của khuôn mặt đặc biệt mang tính ma quái và thật không dễ nhìn. Khi thật sự được cân lên thì người ta thấy thể xác của người đồng cốt giảm đi tới mức 40 cân Anh so với mức bình thường, trong khi trọng lượng của hình dáng hiện ra ít nhất cũng bị giảm đi bằng mức suy giảm của người đồng cốt, và thường nhiều hơn thế vì giả định rằng nó còn rút ra một số vật chất thô trược từ cơ thể của người ngồi đồng. Trong một trường hợp nổi tiếng thì hình dáng hiện ra mang theo cơ thể đã bị suy giảm của người đồng cốt là ông Eglington.
Đối với một thực thể cõi Trung giới muốn “biểu lộ” hoặc tạo ra một hiện tượng nào đó trên cõi trần thì một người đồng cốt phục vụ cho mục đích cung ứng chất dĩ thái cần thiết vốn đóng vai trò trung gian truyền đạt lực cõi Trung giới biến thành vật chất trên cõi trần.
Một quá trình hơi giống như vậy xảy ra khi một người nghiện rượu đã chết lượn lờ xung quanh một quán rượu, khoác lấy xung quanh mình một lớp vỏ bằng chất dĩ thái để cho y có thể hấp thụ mùi vị rượu mà y đã thèm khát. Vì không thể nếm rượu theo cách thông thường như chúng ta cho nên y ra sức xúi giục người khác uống rượu để cho y có thể xâm nhập phần nào vào thể xác của người ấy; như vậy một lần nữa trực tiếp trải nghiệm sự nếm trải ấy cũng như các cảm giác khác mà y ham muốn mãnh liệt xiết bao.
Đôi khi chỉ có đủ chất dĩ thái bị rút ra khỏi một đồng cốt để tạo nên một bàn tay dĩ thái hoặc thậm chí cũng đủ cho các ngón tay cầm lấy bút chì và viết, hoặc khiến cho những “tiếng gõ” có thể được thực hiện, lật úp các vật hoặc di chuyển các đồ vật v.v. . . Thường thường thì chất dĩ thái cũng như chất hồng trần thô trược được rút ra từ người đồng cốt và dùng để che lên một hình dáng cõi Trung giới vừa đủ để khiến cho hình dáng ấy được những người ngồi đồng nhìn thấy, hình dáng được nhìn thấy như vậy không phải là hình nổi đặc mà chỉ là một lớp màn mỏng.
Tuy nhiên, lớp vải trải giường của “vong linh” rất thông dụng trong các buổi lên đồng thường được làm từ quần áo của người đồng cốt hoặc một người lên đồng. Kết cấu có thể hoàn toàn thô thiển hoặc cực kỳ tinh vi; thật vậy còn tinh xảo hơn bất kỳ sản phẩm nào của khung cửi Đông phương. Đôi khi vải trải giường như thế có thể được rút ra từ phòng lên đồng, có lúc tồn tại được hằng năm, có lúc mờ nhạt đi chỉ trong một tiếng đồng hồ hoặc thậm chí chỉ trong vòng vài phút.
Ngoại trừ trường hợp rất hiếm hoi khi người ta đã tiến hành mọi sự phòng ngừa có thể thì chắc chắn là việc thực hành thuật đồng cốt là tai hại và có thể cực kỳ nguy hiểm. Song le ta phải thừa nhận rằng nhờ thuật đồng cốt mà một số lớn người đã biết được hoặc tin tưởng vào thực tại của thế giới vô hình cũng như vong linh còn tiếp tục sinh hoạt sau khi chết. Mặt khác ta có thể lập luận rằng kiến thức và niềm tin ấy cũng có thể đạt được bằng những phương pháp khác ít tai hại hơn.
Chẳng hạn như một huyền bí gia lão luyện liên kết với bất kỳ trường phái “pháp thuật chánh đạo” nào, ắt chẳng bao giờ can thiệp vào Thể Phách của bất cứ người nào nhằm tạo ra một sự hiện hình; ông cũng chẳng làm xáo trộn Thể Phách của chính mình nếu ông muốn cho mình được người khác nhìn thấy ở cách xa. Ông chỉ việc ngưng tụ lại và xây dựng vào xung quanh Thể Vía của mình một lượng đầy đủ chất dĩ thái ở xung quanh để hiện hình ra được, rồi giữ cho nó ở dưới hình dạng ấy bằng một nỗ lực ý chí chừng nào mà mình còn cần tới.
Hầu hết các vong linh hướng dẫn đều thừa biết những nguy hiểm mà người đồng cốt phải chịu, cho nên cũng áp dụng những biện pháp phòng ngừa trong quyền năng của mình để che chở cho người đồng cốt. Ngay cả các “vong linh” cũng bị tổn thương khi chẳng hạn như một hình dáng hiện ra bị đánh đập hoặc bị thương do mối quan hệ mật thiết được xác lập giữa chất dĩ thái của hình thái được hiện ra và chất trung giới trong cơ thể của “vong linh”.
Dĩ nhiên, thật đúng là không một vũ khí trên cõi trần nào có thể ảnh hưởng tới một Thể Vía, nhưng việc làm tổn thương hình dáng hiện ra có thể được truyền tới cho Thể Vía qua hiện tượng mà ta gọi là “sự phản kích”.
Do sự kiện là trong khi hiện hình, vật chất có thể được vay mượn từ mọi người lên đồng hiện diện cũng như từ người đồng cốt, cho nên sự pha trộn đáng kể vật chất như thế có thể xảy ra, do đó những phẩm chất bất hảo hoặc thói xấu nơi bất cứ người lên đồng nào cũng có thể phản tác động lên những người khác và nhất là lên người đồng cốt; y bị thu hút nhiều nhất và hầu như chắc chắn là người nhạy cảm nhất đang có mặt. Chất độc nicotine và rượu dường như đặc biệt có thể tạo ra những tác dụng tai hại về mặt này. Những người đồng cốt cấp thấp tất nhiên thu hút những thực thể trung giới rõ rệt là bất hảo, chúng có thể tăng cường sinh khí của chính mình mà gây thiệt hại cho người đồng cốt và người lên đồng. Một “âm ma” như thế thậm chí có thể đeo bám theo bất cứ người nào hiện diện có trình độ thấp kém với hậu quả rất đáng quan ngại.
Người ta biết có những trường hợp một thực thể ngoại lai nào đó hoặc đang nhập thể hoặc không nhập thể, đã chiếm xác của một người đang ngủ, sử dụng nó cho mục đích của riêng mình có lẽ trong khi mộng du. Điều này rất có thể xảy ra đối với một người mang tính đồng cốt.
THUẬT ĐỒNG CỐT
(Trích Chương XX quyển THỂ PHÁCH)
THE ETHERIC DOUBLE
The Health Aura of Man
Tác giả A. E. POWELL - Bản dịch Chơn Như- 2010
http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20thuat%20dong%20cot.htmĐồng cốt và sự truyền cảm thụ động
trích trong Những Phương Pháp Phát Triển Tâm Linh
MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT
Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y còn phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó.
Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”.
Nó không chứng tỏ rằng người có nó tiến cao hơn mọi người khác. Thường thì trường hợp trái lại xảy ra : khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa mặc dù có vài ngoại lệ.
Lý do là khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác : khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết thì người ta có thể ngồi đồng. Nó không đòi hỏi một tánh tình thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ý.
Nhưng người ta nghĩ sai rằng khả năng ngồi đồng là một bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Nhiều người còn hiểu rằng : tin ở các vong linh và ở đời sống bên kia của tử là dấu hiệu của sự phát triển cao quí ấy, rằng chấp nhận những giáo lý vô vị ở các buổi nhập đồng là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần còn say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo.
NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM
Xem sự lên đồng như là một tôn giáo và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lý cao siêu thì không khác nào quì ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cõi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của trời. Thái độ ấy không hợp lý. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một đàng, nó được chuyển đến do máy móc, còn một đàng do xác đồng.
Việc một người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại : sự kiện không có tánh cách tâm linh gì cả. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”. Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi chứ chúng ta vẫn y như trước.
Nếu trong lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài dòng, thì chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa thì lời lẽ của anh cũng không có giá trị gì hơn lúc anh còn sống.
Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng thốt một điều gì, ta nên đón tiếp như lời một bạn quen, có thế thôi.