Sự khác biệt giửa cầm nả thủ và điểm huyệt trong vỏ thuật .
Cầm nả thủ và điểm huyệt khi nhìn một cách khái quát có nhiều điểm giống nhau , nên người đời cho rằng cả hai là một . Nhưng thật ra cả hai thuật đều có những đạo pháp khác nhau và có sư tổ truyền thừa khác nhau .
Nay chúng ta thử lượt qua từng môn nầy để thấy sự khác biệt của chúng .
Thuật điểm huyệt là một phương pháp làm ngăn trở sự lưu thông của khí huyết trong cơ thể con người để chế ngự đối phương , để người bị điểm huyệt bị mất đi tri giác , tức là sự khảo sát cái lý định vị của châu thiên hợp với cái đạo vận hành khí huyết trong thân người .
Người xử dụng điểm huyệt cần phải biết vào giờ nào khí sẻ đi tới cung nào , huyết sẻ tụ về tại huyệt vị nào , rồi theo đó mà điểm huyệt , khi huyệt bị điểm thì huyệt đó sẻ bị đóng lại , nên khí huyết bị dồn ứ lại tại đây , không chạy qua chổ khác , từ đó mà làm cho cơ thể của đối phương bị tê liệt mất cảm giác hay thần trí bị hôn mê bất tỉnh .
Huyệt thì có huyệt lớn và huyệt nhỏ , điểm huyệt thì có điểm mạnh và điểm nhẹ , khi điểm mạnh những đại huyệt thì có thể làm đối phương lập tức bị mất mạng , nếu điểm nhẹ đại huyệt thì một thời gian sau đối phương sẻ bị tán mạng ; còn khi điểm trên những tiểu huyệt thông thường thì làm cho chân tay đối phương bị tê liệt , hay bị bất tỉnh trong một thời gian ngắn sẻ tỉnh lại .
Khi tử huyệt đối phương bị điểm thì vô phương cứu chửa , còn tiểu huyệt bị điểm , khí huyết bị bế tắt , người ta có thể dùng xoa bóp nơi bị điểm hay các huyệt đạo liên hệ theo luật tương sinh tương khắc của âm dương ngũ hành trong kinh mạch huyệt đạo để đả thông kinh mạch , mà cao thủ điểm huyệt mới biết rỏ được , còn nếu không rành mà dùng thuốc men giải huyệt hay xoa bóp lung tung thì bệnh càng trở nên nặng hơn .
Về thủ pháp điểm huyệt , thường dùng hai ngón trỏ và ngón giửa co lại dùng chổ u lồi ra của hai khủy giửa của hai ngón nầy mà dùng để điểm huyệt , do đó thuật điểm huyệt chủ yếu huyệt đạo là chính , cộng thêm phần trợ lực của chỉ công , tức kình lực của hai đốt ngón tay .
Nếu người không rành điểm huyệt , thì sẻ điểm vào không huyệt , tức điểm vào huyệt lúc khí huyết chưa đến huyệt đó hay khí huyết đả chạy qua huyệt đó rồi mới điểm , nên gọi là điểm không huyệt , nên không có hiệu nghiệm và không chế ngự được đối phương .
Ngoài ra , trong giới vỏ thuật giang hồ , dân giang hồ mả thượng còn dùng cách điểm huyệt bằng thuốc , công hiệu của nó củng không kém thứ thiệt một chút nào , mà lại nhanh chóng và hiệu nghiệm vô cùng ....
Trên chỉ nói một cách sơ lượt về điểm huyệt , thật ra môn điểm huyệt là một môn học nằm trong khoa học nhân thể của Á Đông , từ lâu đả được đúc kết thành một hệ thống rỏ ràng và khoa học từ ngàn xưa , thật là cao thâm vi diệu vô cùng , khi có thì giờ và cơ duyên chúng ta sẻ tìm hiểu chi thiết thêm .....
Còn môn cầm nả thủ , thì cần phải dùng kình lực của ba ngón cái , ngón giửa , ngón trỏ co lại thành một cái móc câu , như là móng vuốt của chim ưng để bấm , bắt , bóp , nhéo , ngắt , gân , da , thịt , khớp xương , khí quản ...của đối phương để khống chế họ , điển hình là phái vỏ Ưng Trảo thường dùng ... khi cầm nả đối phương thì thường làm cho các tiểu và động mạch của đối phương bị ngăn chận mà gây ra đau tê hay bóp nghẹt khí quản để đối phương thở không được hoặc làm sai lệch các khớp xương của cơ thể đối phương mà khống chế họ ; nên người bị cầm nả khi bị buông ra thì sau một thời gian ngắn sẻ phục hồi lại sức khỏe ngay tức khắc , mà không có gì làm nguy hiểm đến tánh mạng , nếu đối phương có bị thương tích thì dùng thuốc men củng có thể chửa lành lại được .
Do đó , người ta thường phối hợp cầm nả và điểm huyệt để dùng trong những hoàn cảnh thích hợp , chủ yếu để chấm dứt sớm sự đánh nhau , mà không cần phải dùng điểm huyệt để hạ độc thủ , vì sinh mạng của con người là quí qiá vô cùng vậy .
Cầm nả thủ và điểm huyệt khi nhìn một cách khái quát có nhiều điểm giống nhau , nên người đời cho rằng cả hai là một . Nhưng thật ra cả hai thuật đều có những đạo pháp khác nhau và có sư tổ truyền thừa khác nhau .
Nay chúng ta thử lượt qua từng môn nầy để thấy sự khác biệt của chúng .
Thuật điểm huyệt là một phương pháp làm ngăn trở sự lưu thông của khí huyết trong cơ thể con người để chế ngự đối phương , để người bị điểm huyệt bị mất đi tri giác , tức là sự khảo sát cái lý định vị của châu thiên hợp với cái đạo vận hành khí huyết trong thân người .
Người xử dụng điểm huyệt cần phải biết vào giờ nào khí sẻ đi tới cung nào , huyết sẻ tụ về tại huyệt vị nào , rồi theo đó mà điểm huyệt , khi huyệt bị điểm thì huyệt đó sẻ bị đóng lại , nên khí huyết bị dồn ứ lại tại đây , không chạy qua chổ khác , từ đó mà làm cho cơ thể của đối phương bị tê liệt mất cảm giác hay thần trí bị hôn mê bất tỉnh .
Huyệt thì có huyệt lớn và huyệt nhỏ , điểm huyệt thì có điểm mạnh và điểm nhẹ , khi điểm mạnh những đại huyệt thì có thể làm đối phương lập tức bị mất mạng , nếu điểm nhẹ đại huyệt thì một thời gian sau đối phương sẻ bị tán mạng ; còn khi điểm trên những tiểu huyệt thông thường thì làm cho chân tay đối phương bị tê liệt , hay bị bất tỉnh trong một thời gian ngắn sẻ tỉnh lại .
Khi tử huyệt đối phương bị điểm thì vô phương cứu chửa , còn tiểu huyệt bị điểm , khí huyết bị bế tắt , người ta có thể dùng xoa bóp nơi bị điểm hay các huyệt đạo liên hệ theo luật tương sinh tương khắc của âm dương ngũ hành trong kinh mạch huyệt đạo để đả thông kinh mạch , mà cao thủ điểm huyệt mới biết rỏ được , còn nếu không rành mà dùng thuốc men giải huyệt hay xoa bóp lung tung thì bệnh càng trở nên nặng hơn .
Về thủ pháp điểm huyệt , thường dùng hai ngón trỏ và ngón giửa co lại dùng chổ u lồi ra của hai khủy giửa của hai ngón nầy mà dùng để điểm huyệt , do đó thuật điểm huyệt chủ yếu huyệt đạo là chính , cộng thêm phần trợ lực của chỉ công , tức kình lực của hai đốt ngón tay .
Nếu người không rành điểm huyệt , thì sẻ điểm vào không huyệt , tức điểm vào huyệt lúc khí huyết chưa đến huyệt đó hay khí huyết đả chạy qua huyệt đó rồi mới điểm , nên gọi là điểm không huyệt , nên không có hiệu nghiệm và không chế ngự được đối phương .
Ngoài ra , trong giới vỏ thuật giang hồ , dân giang hồ mả thượng còn dùng cách điểm huyệt bằng thuốc , công hiệu của nó củng không kém thứ thiệt một chút nào , mà lại nhanh chóng và hiệu nghiệm vô cùng ....
Trên chỉ nói một cách sơ lượt về điểm huyệt , thật ra môn điểm huyệt là một môn học nằm trong khoa học nhân thể của Á Đông , từ lâu đả được đúc kết thành một hệ thống rỏ ràng và khoa học từ ngàn xưa , thật là cao thâm vi diệu vô cùng , khi có thì giờ và cơ duyên chúng ta sẻ tìm hiểu chi thiết thêm .....
Còn môn cầm nả thủ , thì cần phải dùng kình lực của ba ngón cái , ngón giửa , ngón trỏ co lại thành một cái móc câu , như là móng vuốt của chim ưng để bấm , bắt , bóp , nhéo , ngắt , gân , da , thịt , khớp xương , khí quản ...của đối phương để khống chế họ , điển hình là phái vỏ Ưng Trảo thường dùng ... khi cầm nả đối phương thì thường làm cho các tiểu và động mạch của đối phương bị ngăn chận mà gây ra đau tê hay bóp nghẹt khí quản để đối phương thở không được hoặc làm sai lệch các khớp xương của cơ thể đối phương mà khống chế họ ; nên người bị cầm nả khi bị buông ra thì sau một thời gian ngắn sẻ phục hồi lại sức khỏe ngay tức khắc , mà không có gì làm nguy hiểm đến tánh mạng , nếu đối phương có bị thương tích thì dùng thuốc men củng có thể chửa lành lại được .
Do đó , người ta thường phối hợp cầm nả và điểm huyệt để dùng trong những hoàn cảnh thích hợp , chủ yếu để chấm dứt sớm sự đánh nhau , mà không cần phải dùng điểm huyệt để hạ độc thủ , vì sinh mạng của con người là quí qiá vô cùng vậy
SỰ LƯU HÀNH CỦA KHÍ HUYẾT TRONG 12 GIỜ CỔ .
十 二 时 辰 气 血 流 注 歌 诀:
Giờ Dần khí huyết chạy về Phổi .
寅 时 气 血 注 于 肺
Giờ Mảo về Đại Trường , Giờ Thìn về Vị
卯 时 大 肠 辰 时 胃
Tí – Tỳ , Ngọ – Tâm , Mùi – Tiểu Trường .
已 脾 午 心 未 小 肠
Bàng Quang – Thân , Dậu về Thận .
膀 胱 申 注 酉 肾 注 .
Tuất – Bào Lạc , Hợi - Tam Tiêu .
戍 时 包 络 亥 三 焦
Tý – Đảm , Sửu – Gan , đều định vị .
子 胆 丑 肝 各 定 位
BẢNG ĐỐI CHIẾU GIỜ 12 CỔ VÀ 24 GIỜ HIỆN NAY
Giờ Tý là từ 23 giờ đến 1 giờ sáng .
Giờ Sửu là từ 1 giờ đến 3 giờ sáng .
Giờ Dần là từ 3 giờ đến 5 giờ sáng .
Giờ Mẹo là từ 5 giờ đến 7 giờ sáng .
Giờ Thìn là từ 7 giờ đến 9 giờ sáng .
Giờ Tỵ là từ 9 giờ đến 11 giờ trưa .
Giờ Ngọ là từ 11 giờ đến 13 giờ trưa .
Giờ Mùi là từ 13 giờ đến 15 giờ trưa .
Giờ Thân là từ 15 giờ đến 17 giờ chiều .
Giờ Dậu là từ 17 giờ đến 19 giờ tối .
Giờ Tuất là từ 19 giờ đến 21 giờ khuya .
Giờ Hợi là từ 21 giờ đến 23 giờ nửa đêm .
BÀI CA VỀ ĐIỂM HUYỆT
点 拿 主 道 穴 位 歌 诀 歌
Khí huyết con người có một đầu
人 身 气 血 有 一 头
Ngày đêm trôi chảy rì rào
日 夜 奔 走 不 停 留
Giờ nào khí huyết luân lưu đến
时 在 穴 道 必 提 防
Điểm nả ngay tâm , mạng chầu trời .
点 拿 正 中 命 归 阴
BÀI CA
SỰ LƯU HÀNH CỦA MÁU TRONG 12 GIỜ CỔ .
十 二 时 辰 血 液 循 环 歌
Giờ Tý máu chạy lên đỉnh đầu
子 时 血 贯 当 头 顶
Giờ Sửu máu chạy sau mang tai
丑 时 血 走 到 耳 后
Giờ Dần máu chạy về Tim
寅 时 血 走 心 窝 处
Giờ Mẹo máu chạy về hai bên sườn
卯 时血 到 胁 背 部
Giờ Thìn máu chạy về hai bên eo
辰 时 血 流 两 腰 过
Giờ Tỵ máu chạy về Thận
已 时 血 入 肚 肾 肋
Giờ Ngọ máu chảy về hai chân
午 时 血 过两 脚 部
Giờ Mùi máu chảy về huyệt Dủng Tuyền
未 时血 到 涌 泉 穴
Giờ Thân máu chảy về Hội Âm
申 时 血 走 会 阴 处
Giờ Dậu máu chảy về xương sống lưng
酉 时 血 走 脊 梁 骨
Giờ Tuất máu chảy qua Đại Trường
戍 时 血 从 大 肠 过
Giờ Hợi máu chảu đầy sọ đầu .
亥 时血 贯 满 头 骨
ÁNH SÁNG – T2 – ÚC CHÂU
Biên soạn , lúc 3 giờ sáng
Sydney , ngày 03 – 03 – 2009
Tài liệu trên chỉ có tính cách tham khảo , mọi sự thực hành và học tập , cần tìm Thầy giỏi và có kinh nghiệm để học , cấm triệt để không được thử nghiệm đối với bản thân hoặc bạn bè hay những người chung quanh , mọi bất trắc người xử dụng sai tài liệu nầy hoàn toàn chịu trách nhiệm .